View Full Version : Bài Viết Dành Cho Những Kẻ Mỗi Lần Mở Miệng Là Phát Ra Tiếng "Ba Que"
trungthuc
03-09-2024, 19:33
Theo tôi thấy, th́ những kẻ hay dùng cái từ 3/// đó thường c̣n trẻ, đa số chưa đến 60, có nghĩa là vào năm 1975 chỉ c̣n là những đứa con nít. C̣n những người lớn tuổi hơn, thậm chí cả đảng viên, họ cũng nói theo một cách khác. Ngay cả từ "Ngụy Quân" và "Ngụy Quyền" nay cũng đă được chính thức gỡ xuống.
Cho rằng họ là những kẻ "chiến thắng" một cuộc chiến đầy đau thương và kéo dài, nhưng tâm lư mặc cảm thua kém của họ vẫn c̣n thấy thể hiện qua rất nhiều mặt. Những giá trị nhân bản của xă hội thời VNCH vẫn c̣n đó, làm cho những kẻ "chiến thắng" ăn ngủ không yên. Hằng triệu người từ ngoài Bắc di cư vào Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Hằng triệu người khác đă t́m mọi cách vượt biển Đông để từ bỏ chế độ CS sau chiến thắng 1975.
Rồi sau năm 1975, đă có bao nhiêu triệu người miền Bắc lũ lượt kéo vào miền Nam làm việc và sinh sống. Hà Nội là thủ đô, được đảng CS chăm sóc trước miền Nam trong những năm 30 cơ mà? Sao không có thấy xuất hiện làn sóng dân trong Nam kéo về Hà Nội? Đảng tuyên truyền rằng nhờ Mỹ đổ tiền vô nên miền Nam phồn thịnh! V́ sao lại bảo là, Mỹ ác lắm, đem quân vô giết dân Việt.
https://www.baocalitoday.com/wp-content/uploads/2023/01/27.jpg
(Minh họa)
Điều nào mới là đúng? – Cả hai đều sai cả!
Nói rằng thiên nhiên đất đai trong miền Nam trù phù hơn. Đó là sự ngụy biện hoặc là dốt nát. Karl Marx đă phạm sai lầm căn bản ở điểm nầy khi xây dựng lư thuyết về chủ nghĩa Cộng Sản. Theo lư thuyết đó, đất đai và phương tiện sản xuất là suối nguồn của sự giàu có, nên CS không cho phép tư nhân có được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất.
Nhưng thật ra, sự giàu có phong phú nằm nơi con người, đất nước nào biết chăm sóc và trân trọng con người, đất nước đó sẽ hưởng được sự thịnh vượng. Hăy so sánh Nam và Bắc Hàn. Nam Việt và Bắc Việt cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
Miền Nam lúc nào cũng bị quân CS đánh phá và khủng bố, chính quyền dân chủ non trẻ với nhiều bọn CS nằm vùng, mà vẫn xây dựng được cuộc sống hài ḥa cho người dân. Phát triển lớn mạnh về mọi mặt từ kinh tế, giao thông công cộng, y tế, giáo dục… Đó là lư do tại sao mà miền Nam trở nên thịnh vượng ngay cả trong lúc có chiến tranh, giặc giả. Và tŕnh độ về dân trí đó đă kéo miền Nam vượt lên hẳn so với Hà Nội.
Rồi những người trong Nam liều ḿnh vượt biển để t́m con đường sống trong cái chết. Nếu chẳng may bị bắt trở lại th́ bị tù đày với tội danh là "phản quốc". Khi họ đă ổn định cuộc sống nơi nước ngoài, gửi những đồng tiền do chính sức lao động của họ về cho thân nhân ở trong nước th́ đảng lại gọi họ là "kiều bào", "khúc ruột ngàn dậm", nghe nặng sự nịnh nọt dối trá đến trơ trẽn, mắc ói! C̣n mấy cái loa tuyên truyền th́ rêu rao, "đi ra nước ngoài ăn bơ thừa sữa cặn…
Nhờ những đồng tiền "bơ thừa sữa cặn" đó mà kinh tế VN vượt qua thời kỳ khô cằn do đường lối kinh tế theo XHCN, mọi thứ đều "bị quốc doanh hóa, nhà nước quản lư" hết, nằm trong tay của đảng và Nhà nước… Đến lúc hết thở nổi, Nhà nước thấy hết hồn, đành buông xả ra, kêu gọi là "đổi mới"!
Qua đó, có phải cái bóng mát của VNCH vẫn c̣n che chở người dân trong những lúc khó khăn đó măi cho đến ngày hôm nay?
Vậy đó, Cộng Sản Bắc Việt vi phạm những hiệp ước quốc tế để giành chiến thắng trong biển máu nhưng những giá trị nhân bản của VNCH càng lúc càng âm ỉ đốt nóng những trái tim Việt Nam.
Các người càng dùng lời lẽ xấc xược để tỏ vẻ khinh miệt người khác th́ sẽ càng làm lộ rơ các người chỉ là thứ dốt nát và mất văn hóa mà thôi. Cộng Sản Chủ Nghĩa là đỉnh cao của Xă Hội Chủ Nghĩa. Mà XHCN cũng đă vỡ tan theo liên bang Xô Viết rồi, c̣n Thiên Đàng Cộng Sản có nằm mơ cũng sẽ không bao gặp được.
Vậy mà các người cố gào 3/// để tự đề cao cho ḿnh hơn thiên hạ ư? Rất tiếc cái chính nghĩa Cộng Ḥa đó vẫn c̣n sáng măi trong ḷng dân Việt, nhất là người dân miền Nam. Có lẽ phải dùng đến những con số để chứng minh cho thấy cả guồng máy của nhà nước XHCNVN đă và đang sống dưới bóng mát của lá cờ mà họ gọi là 3/// đó.
Các người cứ lục tung hết sổ sách của cái gọi là "chính quyền XHCNVN" lên mà xem tổng số ngân sách Nhà nước dùng để trả lương cho toàn bộ công nhân viên chức là bao nhiêu. Rồi các người xem con số đó có phải chưa bằng một nửa số tiền mà Việt Kiều gửi về hàng năm, trung b́nh là 10 tỷ USD, có năm lại cao con số đó rất hơn. Như vậy các người không ngủ dưới bóng mát của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là ǵ?
Tôi sẽ dẫn giải cho các người thấy, cả nước VN từ sau 1975 đến nay vẫn tiếp tục sống dưới bóng mát của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Từ ngày Sài G̣n bị "phỏng giái", (người dân Miền Nam nói như vậy đó, nói lái là một nét đặc thù trong văn hóa b́nh dân của dân Nam kỳ), th́ một mặt trận nhằm tiêu diệt Văn Hóa miền Nam được phát động rất quy mô và triệt để. Đó là trận chiến "Tẩy Năo" dân Miền Nam, nhằm loại bỏ tư tưởng và ư thức hệ Tự Do Dân Chủ. Tất cả văn hoá phẩm từ sách báo đến âm nhạc đều bị tiêu hủy và cấm đoán. Nhưng làm sao có thể trói buộc được tư tưởng của con người chứ?
Nhà nhà nộp sách đem đi đốt, việc nầy không hề khó, nhưng nếu ra lệnh cấm dân miền Nam hát những bản nhạc đă in sâu vào tim vào óc của họ th́ quả là không thể được. Khi mọi thứ đă bị hoang tàn đổ nát kể cả ḷng người dân lành, th́ những ḍng nhạc trữ t́nh lại khe khẽ quay trở về như làn gió nhiệm mầu, để xoa dịu bớt cái nỗi thống khổ của đời thường dưới chế độ XHCN mới này. CSVN gọi ḍng nhạc đó là "Nhạc Vàng" để đối đầu với ḍng "Nhạc Đỏ" sặc mùi chém giết mà giai điệu và tiết tấu hát ḥ mang đậm sắc thái của Trung Cộng. Nhưng cho đến hiện tại th́ họ trở nên ganh tỵ với cái tên gọi đó, v́ nó thật sự đích đáng và đúng đắn theo nhiều khía cạnh.
"Nhạc Vàng" không hề cổ súy chiến tranh mà chỉ biểu lộ ra những cảm xúc đau thương của con người trong thời chiến. Vậy th́, tại sao người ta lại cấm "Nhạc Vàng" này? Có phải v́ người ta sợ cái bóng dáng thiên thần dịu dàng và ngọt ngào chan chứa đầy t́nh người, sẽ làm hiện thân của Ác Quỷ bị nổi trội rơ nét hơn chăng?
"Nhạc Vàng" quả nhiên là một "ṭa lâu đài văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa bất diệt", chẳng những không bị hoen rỉ qua thời gian mà c̣n lóng lánh hơn như một kho báu cho mọi tầng lớp con em người dân Việt suốt 3 miền và kể cả những kẻ từng lên án, vùi dập lẫn sợ sệt nó. Thử hỏi xem, đă có bao nhiêu người từng khai thác cái kho báu văn hóa quư giá vô tận này?
"Nhạc Vàng" là loài hoa mỹ miều kiêu sa, mọc lên từ bom đạn chiến tranh, tồn tại qua biết bao sự vùi dập, thể hiện tính nhân bản của một xă hội đầy t́nh người, đáng được trân quư như vàng. Hơn nửa thế kỷ qua, chưa có một ḍng nhạc đối thủ nào lăm le đứng gần chứ đừng nói là soán ngôi.
"Nhạc Vàng", một hương vị kỳ diệu, không thể thiếu được khi đang thưởng thức một ly cà phê ngon hay một chén trà thanh thoát. Một tay đàn guitar và nhạc vàng luôn là tâm điểm cho những buổi nhậu b́nh dân.
"Nhạc Vàng", một loại trầm hương hảo hạng cho bất cứ cuộc họp mặt nào từ quê ra tỉnh, từ đám cưới đến đám tang, từ sân khấu đại nhạc hội hàng ngàn khán thính giả đến quán cà phê chỉ dăm ba người ở cuối phố, thậm chí là niềm giải trí duy nhất trong chốn lao tù….
"Nhạc Vàng", là ánh lửa rực rỡ của con Phượng hoàng hồi sinh từ tro bụi sau khi những người nhân danh CSVN đă t́m cách giết nó bằng mọi khả năng của họ. Ánh lửa đó đă bùng lên, lan tỏa đến từng trái tim của chính những người mang danh hiệu là đảng viên ĐCSVN, bất luận là ở đâu, Nghệ Tĩnh, Hà Nội hay Sài G̣n!
Nói măi về "Nhạc Vàng" thời VNCH sẽ không bao giờ cạn ư.
Nếu những lời lẽ quanh co trên đây chưa thực sự vẽ ra cái bóng mát của lá cờ vàng, chưa chứng minh được âm nhạc VNCH là loại vàng ṛng 24 karat th́ tôi xin được dẫn quư vị vào yếu tố kinh tế của Nhạc Vàng vậy.
Từ hải ngoại đến quốc nội, bao nhiêu doanh nghiệp phát triển nhờ Nhạc Vàng, bao nhiêu ca sĩ thành danh và tạo nên sự nghiệp, bao nhiêu người trở nên giàu có, bao nhiêu công ăn việc làm cho cái kỹ nghệ âm nhạc nầy, từ thời băng từ, đến đĩa từ, CD, kế đến phong trào Karaoke, bao nhiêu kỹ thuật viên, pḥng thâu, ca nhạc sĩ, cơ sở sản xuất, phát hành, bán sỉ lẻ, thiết bị âm thanh, ..v.v và v.v…
Bao nhiêu Đại nhạc hội, tụ điểm ca nhạc… Biết bao nhiêu ca sĩ, từ Bắc chí Nam đă thành triệu phú đô la nhờ vào cái được phỉ báng là "Văn Hóa Nô Dịch" đó???
"Nhạc Vàng" đă góp mặt tham gia với người dân ở cả nước trong việc mưu sinh hàng ngày, từ quán cà phê, đến hàng loạt xe đ̣ đường dài, đến anh bán kẹo kéo, đến những em bán hàng rong hằng đêm trên phố, đến những người hành khất… Lớp học hát, học đàn nở rộ, tiệm sản xuất đàn guitar gia tăng, quán cà phê nhạc sống, b́nh dị mà trữ t́nh ngày càng phổ biến rộng răi.
Một chiếc điện thoại thông minh, một cái mi-crô không dây, khách ngồi uống nước mía bên vệ đường cũng có thể chia sẻ với nhau một bản t́nh ca… ấm áp. Cái bóng mát đó càng ngày càng mở rộng ra trên nhiều lănh vực của cuộc sống và địa phưong, lan dần đến tận các tỉnh miền Bắc… Đó không phải là bóng mát từ nền âm nhạc Việt Nam Cộng Ḥa th́ là ǵ, lửa hỏa ngục chăng?
Tôi đă thấy, ca sĩ bậc nhất ĐVH, tranh thủ cho ra mắt 2, 3 album nhạc vàng trong ṿng một tháng, hát giành hát giựt, sợ ca sĩ khác hát trước, mất doanh số bán. Như một tên ăn trộm, khám phá ra kho báu, hốt vội hốt vàng, Nhạc Vàng chính là vàng ṛng đó.
Tôi đă thấy cũng ĐVH hát bài "Cho một người nằm xuống", dĩ nhiên là hát để thu tiền, có bao giờ ĐVH sẽ nghĩ đến những trái ngọt nầy do ai vun trồng mà nên? V́ sao không hát cho người thương binh VNCH c̣n sống vất vưởng đến ngày hôm nay? Mang danh một diva, một nghệ sĩ ưu tú, ĐVH nếu thật sự có tâm hồn nghệ sĩ, tại sao không dám một có lần tri ân những người đă nằm xuống để bảo vệ cho thể chế đă sản sinh ra cái kho báu âm nhạc này? Phải chăng v́ không có tâm hồn mà chỉ hát v́ ḷng tham tiền nên bị người đời gọi là "Ca Nô"?
Tôi đă xem video clip của đại ca… sĩ Ngọc Sơn, đại gia từ nhạc vàng, hát trong một hội trường đầy ắp khán giả là quân đội mặc quân phục đại cán, ngực đầy huân chương "cách miệng". Những ca khúc nhạc vàng cất cao, cả hội trường đứng dậy, hai tay đưa lên cao, đung đưa theo ḍng nhạc…
Các vị này đa số là đảng viên, các vị chắc đă học tập lư luận nhiều lắm, quư vị có thấy ra một nghịch lư vô cùng to lớn ở đây không? Hoặc là các vị có thấy xấu hổ trong ḷng hay không? Cái mà quư vị diệt tận, giết sạch ngày hôm qua, th́ hôm nay ngồi dưới cái bóng mát của cái "xác khô VNCH" mà chia sẻ hương thơm ngào ngạt của nó.
Các người là kẻ chiếm và thắng, các người ra sức hành hạ, chà đạp kẻ thất cơ lỡ vận nhiều rồi, chúng tôi không màng, v́ nghỉ rằng lịch sử sẽ có lúc phải trả lại công đạo.
Nếu quư vị mạt sát VNCH th́ móc cổ mà ói ra hết những ǵ mà quư vị nuốt vô từ nền văn hóa VNCH đó đi.
C̣n như quư vị trơ trẽn, miệng th́ mỉa mai:"Đu càng, ba que, quần què" mà giành nhau đưa tay vào chấm mút, th́ quả thật đáng khinh thay!
Trích dẫn từ baocalitoday
(Read More at:https://www.vietnamngaymai.c om/node/150677)
Và xin phép trích dẫn lại nhận định của một bạn đọc:
Bài phân tích, nhận định này thật sống động, sâu sắc và chính xác mà từ lâu ít thấy xuất hiện trên mạng, chứng tỏ tác giả bài viết đă nghiên cứu từng chữ một, từng câu văn để truyền đạt lại những cảm xúc, cảm nhận của một người đă từng sống qua thời kỳ đen tối trước đây ở miền Nam tự do. Dĩ nhiên kèm theo đó là sự thịnh nộ, nổi tức giận về bản chất của một chế độ hung ác, bạo tàn được dẩn dắt bởi những kẻ tự nhận là "đầy tớ nhân dân", nhưng thực chất chỉ là một bè lũ quỷ dữ đội lốt người, nhân danh cái chủ nghĩa CS đốn mạt, tàn bạo để gây ra bao nhiêu tội ác chồng chất đối với nhân loại.
Chỉ có những ai đă từng sống trong giai đoạn chiến tranh tương tàn này, mới thấu hiểu đầy đủ cái tốt đẹp, cái giá phải trả của sự tự do, dân chủ, của chính nghĩa và lẽ phải, của sự hi sinh của cả triệu thanh niên cầm súng bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống yên lành của người dân miền Nam trước đây. Thế hệ đó (mà trong đó có cá nhân tôi) đă không nề hà, bỏ qua tuổi thanh xuân và ước mơ trở thành người thành đạt trong xă hội, để xả thân cầm súng chiến đấu chống giặc thù, bảo vệ màu cờ vàng 3 sọc đỏ này luôn phất phới, hiên ngang trước sóng gió của chiến tranh.
Bây giờ ngồi lại, nh́n về quá khứ, về những sự cống hiến cho đất nước, trong ḷng luôn tràn dâng niềm tự hào, sự hănh diện của người đă từng dấn thân thi hành trách nhiệm và bổn phận của người công dân trong chế độ độc lập tự do mang tên VNCH. Với tâm niệm "Thắng không kiêu, bại không nản" cho dù sau này đất nước bị giặc thù cưỡng chiếm bằng bạo lực, nhưng đại đa số anh em chúng tôi vẫn "nín thở qua sông" v́ trong ḷng luôn nuôi ư nghỉ rằng, không lẽ Trời đất lại bỏ mặc những sinh linh đă cống hiến tất cả, kể cả sinh mạng để bảo vệ đất nước, không lẽ Hoa Kỳ, người bạn đồng minh lại nhẩn tâm bỏ rơi chúng tôi như vậy hay sao???
Cho nên dù sống trong ngục tù u ám, đói khát và bị đối xử c̣n thua loài thú, chúng tôi vẫn hiên ngang, thầm bảo với nhau "Tôi trung không thờ 2 chúa", ráng gồng ḿnh chịu đựng, chia sẻ ngọt bùi với nhau, ngày đêm bênh vực bảo vệ cho nhau chống lại bọn cai tù hung ác. Có biết đâu rằng, liệu ông Trời có ngầm che chở cho chúng tôi trước sự chà đạp, đối xử vô nhân đạo của kẻ thù, biết đâu rằng ông Trời sẽ làm cho thiên hạ động ḷng và giang tay đón nhận chúng tôi thoát khỏi cảnh ngục tù để đến bến bờ mới, trong yên b́nh và hạnh phúc tràn đầy.
Và điều kỳ diệu đă xảy ra, hàng triệu người vượt biển bỏ nước ra đi đă được cả thế giới vui vẻ đón nhận, hàng chục ngàn quân cán chính VNCH được Hoa Kỳ đón rước đàng hoàng bằng máy bay, chính thức ngẩng mặt ra đi trước sự ganh tức của bọn cầm quyền CS lúc bấy giờ.
C̣n nói về văn hóa, nghệ thuật thời đó th́ bài viết ở trên đă vạch trần ra hết rồi, xin miễn bàn thêm.
Chỉ muốn nhắc nhở với các bạn c̣n trẻ, với ḷng nhiệt huyết sẳn có, dù cho sống trong nước hay ở ngoại quốc, nên có cái nh́n đúng đắn hơn về lịch sử dân tộc, biết phân biệt đâu là tốt xấu, đâu là thiện ác để có sự lựa chọn đúng đắn cho con đường tiến thân của ḿnh để đóng góp cho cộng đồng, cho xă hội. Lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc vẫn c̣n đó, đúng hay sai tùy thuộc vào nhận định và quyết định đúng đắn của từng người một, không thể dùng bất cứ quyền lực nào để khống chế, áp đặt được.
Vài hàng góp ư, xin cám ơn đă đọc qua và mong được các bạn chỉ giáo thêm.
Riêng tôi vẫn gọi bọn này là "đầy tớ nhân dân" v́ trước đây chúng từng xưng danh như vậy để "mê hoặc" những ai c̣n nhẹ dạ. C̣n từ "bộ đội" th́ hiện nay chúng xài lại chữ "quân nhân", ngay cả trên báo đảng, mới thật là trơ trẽn đến cỡ nào?? Tiếng Việt rất trong sáng và đầy đủ ư nghĩa sau khi được dày công nghiên cứu và chỉnh sửa, thật đáng tiếc lại rơi vào những đầu óc bọn "khỉ Trường Sơn" này th́ lại biến hóa đến lố lăng, ngược ngạo và mất nhân tính!!! Không thể trách cứ Google Translate v́ họ cũng dựa vào chữ nghĩa "mất gốc" này để phiên dịch lại từ các thứ tiếng qua tiếng Việt thật họm hĩnh này!!
(hết trích)
vn1111963
03-10-2024, 09:03
1 bài viết quá hay không hiểu những tên vô học mở miệng là chửi Ba Que này nọ bọn chúng có hiểu không ,nhất là những tên chó đẻ đó đang ung dung sống tại các đất nước Tự Do này , 1 bọn khốn nạn ăn cơm Đế Quốc mà thờ ma Cộng sẵn , nếu mà bọn chó đé đó chửi Ba Que Ba càng th́ sao bọn chó chúng bây không ở vn thờ cái đám quỹ đỏ bè lủ của tên chó hồ chí minh đi ? Mà lại tại sao phải chầu chực đứng hàng giờ trước những toà đại sứ hay toà lảnh sự của các nước Tự Do để xin Visa để được nhập cảnh vào đất nước của họ và t́m đủ mọi cách để trốn ở lại , 1 lủ hèn Hạ không biết nhục nhả mà c̣n hả cái họng thối tha đi chỉ trích ba que ba càng đúng là 1 đám vô liêm sĩ đúng là con cháu của tên bán nước bán dân hồ chí minh,
Bài viết quá hay, để giải thích cho cái lũ khỉ đột đít đỏ, nón cối Trường Sơnkhông hiểu những tên vô học mở miệng là chửi Ba Que này nọ bọn chúng có hiểu không ,nhất là những tên chó đẻ đó đang ung dung sống tại các đất nước Tự Do này , 1 bọn khốn nạn ăn cơm Đế Quốc mà thờ ma Cộng sẵn , nếu mà bọn chó đé đó chửi Ba Que Ba càng th́ sao bọn chó chúng bây không ở vn thờ cái đám quỹ đỏ bè lủ của tên chó hồ chí minh đi?.
toilaai00
03-10-2024, 15:14
lu chung no sanh ra trong xh cong san duoc nhoi so tu nho co biet vnch la gi dau
vn1111963
03-10-2024, 19:35
Bài viết quá hay, để giải thích cho cái lũ khỉ đột đít đỏ, nón cối Trường Sơnkhông hiểu những tên vô học mở miệng là chửi Ba Que này nọ bọn chúng có hiểu không ,nhất là những tên chó đẻ đó đang ung dung sống tại các đất nước Tự Do này , 1 bọn khốn nạn ăn cơm Đế Quốc mà thờ ma Cộng sẵn , nếu mà bọn chó đé đó chửi Ba Que Ba càng th́ sao bọn chó chúng bây không ở vn thờ cái đám quỹ đỏ bè lủ của tên chó hồ chí minh đi?.
Bạn nói rất đúng ,Trong diển đàn vietbf Này có vô khối những thằng ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sẵn cái thứ chó đẻ, mỏi khi chúng hả họng thúi của chúng đều chỉ trích là ba que ba càn nhưng bọn chúng có biết được là bọn ba que ba càn không bán nước bán đảo Việt Nam cho bọn chó đẻ hán cẩu anh em đồng chí của bọn chúng không ?mà bao nhiêu sinh mạng đả Anh Dũng hy sinh để giử lấy đảo khi quân số 2 bên chênh lệch rất là nhiều, 1 lủ khốn nạn chỉ biết ăn cứu bọn chó đẻ hán cẩu Trung Cộng và là những từ lúc lọt ḷng mẹ chúng phải " Bắc cụ hồ" v́ cha mẹ chúng không cung cấp đủ sửa cho chúng uống nên đầu chúng nó không có óc nên bọn quỹ đỏ kêu chúng làm ǵ th́ chúng làm không biết đạo nghĩa đúng sai như thế nào?
dphannguyen
03-10-2024, 23:41
Nếu quư vị mạt sát VNCH th́ móc cổ mà ói ra hết những ǵ mà quư vị nuốt vô từ nền văn hóa VNCH đó đi
Sau ngày 30/04/1975 bọn VC vào Nam chê bay và hủy diêt nền văn hóa VNCH , nay bọn con cháu của chúng nó hốt lại và nuốt vào mồm và khen thật ngon nửa . 50 năm vẩn c̣n sợ h́nh ảnh cờ vàng , ngay cả h́nh ảnh nầy ở tận các nươc xa xôi .
qqquaker
03-11-2024, 04:53
:animated-applause-s:animated-applause-s:animated-applause-s
ICEEXPRESS
03-11-2024, 13:55
....cai nay o ngoai bac an khong het con dem phoi kho nua co .....hahaha
“TẠI SAO THÍCH NGƯỜI MIỀN NAM?”
Tính không trả lời câu hỏi này v́ không có thời gian, bởi tuần này đổi thời khóa biểu nên suốt từ 7g tối qua đến 12g trưa nay tôi làm việc liên tục. Về nhà ngủ được một giấc rồi lại phải đi làm, đến giờ mới vừa ăn cơm xong.
**
Nếu như có người hỏi là “Tại sao Nhàn Lê sinh ra lớn lên, học hành ở miền Bắc nhưng bây giờ lại nói người Bắc chúng tôi làm hỏng hết, rồi lại thích miền Nam, lại thích luôn cái chế độ miền Nam trước 1975 nữa… Nhàn Lê đă ăn cháo, đá bát”… nói chung là phụ bạc nơi nuôi ḿnh khôn lớn, vậy Nhàn Lê trả lời sao ?
*
Thưa các anh chị!
Thưa các bạn và các em!
Chính v́ tôi đă nh́n quá rơ, tôi hiểu quá thấu nên tôi biết nó hỏng, và tôi nói ra sự thật là nó hỏng.
1. Tại sao tôi làm bác sĩ?
Mẹ tôi nói “Con ạ, bây giờ đi bệnh viện mà không có tiền th́ họ không chữa cho ḿnh đâu”.
Tôi đă nói “Mẹ cố gắng mẹ nhé, lớn lên con sẽ làm bác sĩ, con chữa bệnh cho mẹ khi ấy mẹ sẽ không phải mất tiền nữa, c̣n bây giờ mẹ phải t́m mọi cách để giữ lấy mạng sống của ḿnh”.
V́ lời hứa của đứa trẻ 8 tuổi khi ấy đă thôi thúc tôi vượt qua rất nhiều khó khăn mà không thể kể hết của một đứa con nhà nghèo, đến ăn c̣n không đủ no, ăn 2 bữa cơm độn khoai cho no đă là quá sức của cha mẹ nó, bữa sáng là một điều xa xỉ.
Tôi hỏi ngược lại, nếu một xă hội tốt đẹp th́ một đứa bé 8 tuổi nó có phải nghĩ tới vấn đề nhức nhối đó không? Hay nó được lớn lên với một tuổi thơ trong sáng, êm đềm và mơ mộng?
Cha mẹ tôi đă phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để có được hạt gạo mà nuôi chị em tôi trong khốn khó, vậy TÔI PHẢI BIẾT ƠN AI?
– V́ đất nước phải bước vào thời kỳ quá độ để đi lên Chủ Nghĩa Xă Hội, cho nên đảng và chính phủ đă tập trung xây dựng nên những con người mới XHCN.
Ở nông thôn, ông bà cha mẹ chúng tôi bị ép buộc vào hợp tác xă, nhưng hậu quả của nó như thế nào th́ ai cũng thấy rơ, một ngày lao động (một công) được tính bằng 800 g thóc, toàn dân đói ră họng nhưng không ai được đi ngược lại chủ trương của đảng và nhà nước.
Không ai được trồng thêm củ sắn, củ khoai để cứu đói cho đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn của ḿnh.
Chị em chúng tôi phải đi vớt bèo dưới cái lạnh cắt da, cắt thịt để nuôi lợn, con lợn ấy lớn lên phải bán nghĩa vụ cho hợp tác xă, nh́n họ cướp đi công sức của ḿnh mà nước mắt lưng tṛng, chúng tôi thèm nhỏ dăi miếng thịt nhưng không có ăn, đến tết th́ hợp tác mới chia cho được mấy lạng… Để hậu quả kéo dài cho tới tận bây giờ cứ có mùi nhang là tôi lại thèm ăn thịt luộc (bởi hồi đó Tết thắp nhang cúng ông bà th́ mới có thịt ăn một bữa liếm mép).
Ai đă nuôi tôi khôn lớn? Cha mẹ tôi hay đảng và chính phủ?
Ai đă cướp con lợn, ai đă cướp miếng thịt của chị em chúng tôi để giờ đây nói tôi đá bát?
Dưới cái lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông, chúng tôi sống hoang dă như những đứa trẻ mà Giáo Sư Ngô Bảo Châu đă nh́n thấy và mô tả. Có ai cho tôi manh áo ấm không? Chúng tôi đi chân trần trên băng giá, có ai cho tôi đôi dép không hay chỉ biết đến cướp đi thành quả lao động của chúng tôi?
Và nếu hồi đó không có cái chủ trương vào hợp tác xă chết tiệt ấy th́ chiều cao của tôi có lẽ hơn bây giờ ít nhất là 5 cm, khi đi ra quốc tế tôi có thể nh́n ngang chứ không phải như bây giờ là phải ngước lên và tự hỏi rằng “cao như thế có mát hơn không”.
Thời ấy muốn thịt con gà cũng phải giấu giếm đừng để nó kêu, bởi ăn thịt là có tội, ḿnh nuôi nó lớn nhưng không được phép ăn mà phải bán cho nhà nước … để làm ǵ?
“Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe.
Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà xây sân”
Như vậy phải hỏi tôi có hận hay không chứ? Tại sao tôi phải biết ơn, ơn ai? Ơn cái đứa chết tiệt nào nó đẻ ra cái chính sách vận hành ngu xuẩn và dốt nát thể? Để một thế hệ người Việt thấp c̣i và đần độn v́ thiếu dinh dưỡng?
Ai nuôi tôi lớn kiểu điên rồ như thế để bắt tôi phải biết ơn?
2. Tại sao tôi yêu miền Nam?
Khi tôi nửa ăn, nửa nhịn để cố gắng lê lết cho hết 6 năm đại học, có những hôm đi phụ mổ bị té xỉu … nói lời hay ư đẹp là kiệt sức, nhưng thực ra là ĐÓI ĂN.
Tôi đói ăn suốt 6 năm đại học, chất dinh dưỡng nào để cho tuổi này cạnh tranh tầm vóc với thế giới? Có ai cho tôi xu nào để tôi ăn cho đỡ đói không hay chính mẹ tôi, đến cái bánh cũng không dám ăn mà phải để dành tiền cho tôi, cho dù chỉ là 500 đồng?
Và sau khi ra trường, tôi long đong lận đận đến 3 năm, cầm tấm bằng mà bao nhiêu lần bật khóc.
Bố tôi đă nói:
“Con ạ, ḿnh không có chức, không có quyền cũng không có tiền nên xin việc khó lắm, có lẽ bố mẹ đă bất lực, con hăy tự t́m đường đi cho ḿnh. Xă hội này không có chỗ nào công bằng để đấu sức bằng trí tuệ của ḿnh đâu con.
Tất cả đều được đo đếm bằng tiền cho dù tiền đó là tiền tham nhũng, cho dù tiền đó là tiền hối lộ. Cho dù đó là tiền tham ô mồ hôi và nước mắt của người dân để họ đút vào túi riêng, cái túi tham vô độ làm cho cuộc sống của người dân trở nên khốn cùng.
Cha mẹ nuôi 6 năm ăn học đă kiệt sức lắm rồi con”.
Nhắc lại lần thứ ba là đă có lúc tôi tính đến việc đi vận chuyển ma túy thuê để có tiền xin việc, nhưng may thay chợt nhớ tới câu của nhà Phật rằng “Phàm làm việc ǵ cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó” và tôi đă giật ḿnh tỉnh thức. Nếu không th́ có lẽ thân xác này đă trở về với cát bụi hoặc giờ này tôi đang cải tạo với cái án chung thân trong một nhà tù nào đó.
Có ai và có bao giờ rơi vào t́nh cảnh tuyệt vọng như thế không?
Chỉ v́ không có tiền xin việc, cho nên tôi hỏi lại đứa nào ăn cháo, đứa nào đá vào bát?
Nếu không có mảnh đất Sài G̣n cho tôi lưu lạc th́ giờ này có tôi đang ngồi gơ phím không?
Nếu không có con người Miền nam hiền ḥa th́ tôi có sống được?
Nếu họ lưu manh lừa lọc khi tôi mới chân ướt chân ráo đến đây th́ cuộc đời tôi sẽ khốn nạn ra sao?
V́ sao họ lại hiền ḥa như vậy?
Đó là v́ cha ông của họ sống có nhân, có nghĩa và chính lớp người đi trước đă dạy con cháu họ như vậy, chứ không phải cái thứ lưu manh, lừa đảo.
Và tôi biết qua những người bạn th́ Sài G̣n cũng không c̣n được như xưa nữa, v́ sao?
Ai đă làm nó trở nên hoang tàn như thế? Ai đă làm cho nó mất t́nh người như thế?
“HĂY TRẢ LỜI TÔI ĐI. HĂY TRẢ LỜI TÔI ĐI!”
Bs Lê Nhàn
"42 năm sống ở Mỹ (bây giờ 49 năm): Được ǵ, mất ǵ?
"... Năm 1975 khi chúng tôi ra đi, tôi chỉ biết ḿnh phải đi, không biết đi đâu và làm ǵ, cuộc đời sẽ ra sao. Lúc đó Cộng Sản bao vây Sài G̣n và chuẩn bị tấn công. Chúng tôi tránh lằn bom lửa đạn, t́m đường sống cho các con, thế thôi...."
Phần 1: Nỗi ḷng người ra đi sau sự kiện 30 tháng Tư năm 1975
Chương 1: Tâm trạng năm 1975, Ra đi không trở lại.
Chương 2: Quyết tâm quên quá khứ để bắt đầu lại.
Chương 3: Những ngày đầu tới Mỹ, bơ vơ lạc lơng.
Mỗi năm khi mùa xuân trở về, hoa nở rộn ràng, ḷng tôi bồn chồn, nhớ tới quê hương, và những ngày vui thời tuổi trẻ.
Trong hai chương 1 và 2, tôi tŕnh bày tâm trạng những ngày đầu đến Mỹ sau sự kiện 30 tháng Tư năm 1975.
Các bạn ngày nay may mắn hơn tôi. Các bạn đến thăm viếng nước Mỹ, thăm gia đ́nh và bạn bè, làm việc, kiếm tiền, hoặc du học, các bạn c̣n đất nước để trở về.
Các bạn có một cộng đồng người Việt ở đây, muốn ăn món Việt Nam nào cũng có, muốn mua món Việt Nam nào cũng được. Các bạn không cô đơn, cực khồ, tuyệt vọng và sống dưới đáy xă hội Mỹ như chúng tôi năm 1975.
Lúc đó Cộng Sản mạnh lắm, gần như cai trị phân nửa thế giới, nên chúng tôi đến Mỹ với tâm trạng đi không trở về, chọn nơi này làm quê hương, cố quên quá khứ ở Việt Nam, và dấn thân hội nhập, tranh đấu để sống và chết ở đây...
Năm 1975 khi chúng tôi ra đi, tôi chỉ biết ḿnh phải đi, không biết đi đâu và làm ǵ, cuộc đời sẽ ra sao. Lúc đó Cộng Sản bao vây Sài G̣n và chuẩn bị tấn công. Chúng tôi tránh lằn bom lửa đạn, t́m đường sống cho các con, thế thôi.
Vợ tôi làm việc cho ngân hàng Chase ở Sài G̣n, nên chúng tôi đi New York nơi có Trụ Sở Trung Ương của ngân hàng nầy, và sống ở đây 41 năm trước khi dọn nhà về Florida sống quăng đời c̣n lại.
Chase sponsor (bảo trợ) chúng tôi, nhưng cử một Vice President nhà băng Host (tiếp đăi) chúng tôi trong những bước đầu sống ở Mỹ.
Sự khác biệt văn hóa giữa người Việt và Mỹ quá lớn, nên ở nhà Host một thời gian giúp chúng tôi nói tiếng Mỹ khá hơn, hiểu rơ hơn cách người Mỹ sống, giúp chúng tôi thích nghi dễ dàng hơn.
Chúng tôi đến Mỹ với hai bàn tay trắng, gia đ́nh 6 người, vợ chồng và 4 con, trong túi có vài chục đô la Mỹ.
Tất cả những ǵ tôi có ngày nay là do nước Mỹ đă cho chúng tôi. Tôi mất tất cả khi ra đi, tiền, đại gia đ́nh, bạn bè, đồng nghiệp, học tṛ, những ǵ tôi yêu quí nhất đời những năm dạy học, viết văn làm sách ở Sài G̣n. Tôi được một cuộc đời yên b́nh với con cháu ở Mỹ, và những năm gần đây, t́nh đại gia đ́nh, t́nh người Việt Nam những lần về thăm lại quê hương.
Lúc ra đi, điều tôi tiếc nhất là đám con tinh thần ngày xưa, mấy chục quyển sách tôi đă cùng nhiều bạn hữu viết, dịch và xuất bản, trong Tủ Sách Giáo Dục do Trần Hữu Đức chủ trương, Tủ Sách Tâm Lư và Sư Phạm, Tủ Sách Văn Học Thế Giới, Tủ Sách Khoa Học Nhân Văn v.v…, do tôi điều khiển.
Khi ra đi tôi đă bỏ đám con này ở lại tự sống tự chết. Lần đầu tiên tôi cầm lại trong tay một quyển sách do tôi viết, hay dịch về Tư Tưởng Sư Phạm, Lịch Sử Giáo Dục, Tâm Lư Giáo Dục, và Các Vấn Đề Giáo Dục, là hai năm trước khi về thăm lại quê hương, một vài bạn FB của tôi ở Sài G̣n và Hà Nội đă gởi tặng. Rất vui.
Trong đám con tinh thần này, có đứa chưa chết, chưa bị tiêu diệt hoàn toàn trong cơn hồng thủy ngày 30 tháng Tư năm 1975. C̣n nhiều đứa khác tôi chưa thấy mặt, không biết bây giờ ở đâu.
Ai sponsor (bảo trợ) cho nhân viên Chase? Chính nhà băng (ngân hàng) Chase bảo trợ. Chase đề cử một số nhân viên có chức quyền trong ngân hàng, mỗi người làm host (chủ nhà) đón nhận một gia đ́nh nhân viên từ Sài G̣n.
"Host" giống như một chủ nhà tiếp đăi khách. Trong trường hợp chúng tôi chân ướt chân ráo từ một nước kém phát triển như miền Nam Việt Nam, rớt vô một xă hội văn minh, kỹ nghệ hóa, tiến bộ như Hoa Kỳ, host c̣n có nhiệm vụ giúp chúng tôi hiểu và hội nhập. Có nghĩa là giúp chúng tôi hiểu văn hóa, và tổ chức xă hội ở đây, cũng như hiểu một số kỹ năng để sống tự lập.
Sự khác biệt về văn hóa lớn quá. Lấy một thí dụ. Một ngày mùa hè nóng nực, Host rũ chúng tôi (vợ chồng con cái) đi chơi. Hôm đó host muốn cho chúng tôi đi thăm West Point trên núi. Đây là một trường quân sự nổi tiếng của Mỹ. Ở đây cảnh vật rất đẹp. Thấy Host ôm một đóng áo lạnh, vợ chồng con cái tôi xanh mặt, chạy vô nhà, ai cũng ôm một vài áo lạnh ra xe. Hóa ra Host ôm áo lạnh đi giặt. Chúng tôi tưởng trên núi lạnh lắm, giữa mùa hè, cả nhà ôm áo lạnh đi. C̣n nhiều chuyện buồn cười như vậy, cho thấy những ngày đầu ở Mỹ khó như thế nào.
Như trên đă nói mấy tháng sau khi đến New York, một nhân viên Chase đă t́m được nơi bán gạo và nước mắm. Vợ chồng tôi ở rất xa thành phố. Muốn đi New York, chúng tôi phải đi xe lửa, xong lấy xe điện ngầm (Subway), xong đi bộ xa xôi mới mua được chai nước mắm đầu tiên. Nhân cơ hội host đi vắng, vợ chồng tôi nấu cơm, luộc hột gà (không biết hột vịt bán ở đâu) dầm nước mắm, ăn ngon quá. Mấy tháng chưa ăn cơm. Buổi cơm đạm bạc đầu tiên ở Mỹ ngon quá sức.
Nước mắm thơm với người Việt Nam chúng ta. Nhưng đối với người Mỹ họ không chịu nổi mùi này. Chúng tôi rất kỹ lưỡng mỗi khi rót nước mắm. Nhè nhẹ mở nút. Đổ một vài nhiễu nước mắm. Đậy nút lại chắc chắn. Lấy giấy lau kỹ miệng chai.
T́nh cờ người nhà của Host thấy được, kể lại cho Host. Tao thấy tụi nó ăn cái ǵ quí lắm. Chúng mở chai rất trịnh trọng. C̣n lau chai sau khi đổ nước đó ra chén. Tụi nó quí nước này lắm. Không biết nước ǵ.
Có lần vợ tôi làm chúng tôi hú vía. Mấy tháng đầu tiên ở Mỹ tôi suốt ngày ngồi xem TV để tự học tiếng Mỹ. Host nói ǵ tôi cũng không hiểu. Tôi nói ǵ host cũng đoán chừng ư tôi, lúc đúng lúc sai. Vợ tôi đă từng làm việc cho ngân hàng Chase ở Sài G̣n, nên tiếng Mỹ giỏi hơn tôi.
Mỗi ngày Nàng đi xe lửa xuống New York làm việc, chiều tối mới trở về. Hôm đó Nàng ngủ quên (hay lo ra không xuống đúng trạm?). Xe lửa chạy tới trạm cuối cùng ở tiểu bang Pennsylvania. Đó là chuyến xe lửa cuối cùng. Một người Mỹ thấy Nàng lạc lơng ở sân ga, tội nghiệp, giúp gọi về Host ở New York. Host cũng không biết ga đó ở đâu, nên phải lấy bản đồ t́m đường đến đón Nàng về. Hôm đó tôi hú vía.
Kể từ đó Nàng nổi tiếng trên chuyến xe lửa giờ đó. Mỗi lần xe lửa ngừng ở trạm của Nàng, ai cũng nhắc nhở Nàng xuống xe. Người Mỹ rất hiếu khách. Họ thật t́nh thương và giúp đỡ người Việt Nam ḿnh hội nhập vô xă hội.
Chương 4: Nhớ lại 42 năm qua, tôi không muốn hận thù.
Phần 2: Nước Mỹ tuyệt vời với di dân và người tỵ nạn
Chương 5: Chọn nơi này làm quê hương, quyết tâm hội nhập.
Chương 6: T́nh người Việt Nam ở Mỹ.
Chương 7: Hănh diện ḿnh là người gốc Việt.
Chương 8: Trở về thăm lại quê hương, thương đất nước và con người Việt Nam.
Phần 3: Nh́n về tương lai.
Chương 9: Các Phố Sài G̣n Nhỏ ở Mỹ.
Chương 10: Nhắc lại quá khứ, nhưng ngó về tương lai để sống.
Chương 11: Vài ư nghĩ về tương lai người Việt Nam trong nước và hải ngoại."
(Trích sách "42 năm sống ở Mỹ: Được ǵ, Mất ǵ?" thuộc bộ sách "Nước Mỹ nơi tôi đang sống" của Lê Thanh Hoàng Dân)
Sách bán trên Amazon rất mắc, các bạn đừng mua, tôi sẽ từ từ trích đăng các bạn đọc miển phí.
"... Trong 45 năm sống ở Mỹ (bây giờ 49 năm) tôi đă thăm viếng thành phố Houston nhiều lần, vui lắm.
Cộng đồng Việt Nam ở đây rất đông.
Houston đông người Việt Nam hạng 3 ở Mỹ, sau quận Cam và San Jose. Houston là thành phố đông dân nhất tiểu bang Texas, và đông dân hạng tư toàn quốc Mỹ, nằm ở vùng Đông Nam bang Texas, gần Vịnh Mexico.
Vợ chồng tôi cùng vợ chồng một vài học tṛ cũ ở Vỏ Trường Toản Saigon gặp nhau ở đây, đại náo Little Saigon, rong chơi những khu phố Việt Nam, sau cùng đi cruise thăm viếng Jamaica, Cayman Islands và Mexico.
Mấy năm trước vợ chồng tôi cũng đă đến rong chơi Little Saigon ở đây.
Houston được thành lập vào năm 1836 trên vùng đất gần bờ sông Buffalo Bayou, và được chánh thức nh́n nhận là thành phố vào năm 1837.
Houston là tên của Tướng Sam Houston, Tổng Thống Cộng Ḥa Texas. Ông đă chỉ huy và chiến thắng trận đánh tên “Battle of San Jacinto” cách thành phố 40 cây số (km) về hướng Đông. Trận đánh nầy quyết định cuộc cách mạng Texas. Tổng Thống Mexico bị bắt và đầu hàng.
Người Việt Nam sống ở thành phố Houston rất đông.
Theo Wikipedia tiếng Mỹ, hiện có khoảng 150,000 người Việt Nam đang sống ở đây. Ở đây có hai Phố Sài G̣n Nhỏ, một cũ ở dưới phố (Downtown), và một mới hơn được xây dựng trên đường Bellaire.
Từ những năm 1998, ở dưới phố buôn bán thành phố Houston, người ta đă dựng lên một số tên đường tiếng Việt. Người dân Houston quen gọi khu chợ ở dưới phố (Downtown) là Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon) hay Phố Việt Nam (Vietnamtown). Năm 2004 chánh quyền thành phố quyết định chánh thức công nhận khu này là Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon).
Sau năm 1975, lúc người Việt Nam mở tiệm tùng ở đây, khu này đang xuống dốc, người Mỹ trắng và có tiền không thích ở, giá nhà rẽ. Tuy nhiên với kế hoạch tái phát triển (redevelopment) vùng downtown, chánh quyền thành phố đă sửa sang lại khu này, nên giá thuê mướn nhà càng ngày càng mắc, các tiệm tùng Việt Nam từ từ dọn khỏi khu này.
Hiện nay các tiệm tùng Việt Nam được dọn về khu Alief thành phố Houston rất đông. Tiệm tùng Việt Nam dọn về con đường Bellaire, như ở quận Cam Cali tiệm tùng nằm ở đường Bolsa vậy.
Trung tâm của Phố Sài G̣n Nhỏ mới là khu chợ Hong Kong, với hai cơ sở chánh là chợ thực phẩm Hong Kong và nhà hàng Ocean Palace.
Trên danh nghĩa khu này được người dân Houston biết đến với tên Chợ Tàu (Chinatown). Một số người cũng gọi khu này là Chợ Tàu Mới ở Tây Nam Houston (Southwest new chinatown).
Trong khu chợ Tàu-Phố Sài G̣n Nhỏ này, người Việt Nam sống chung với nhiều dân thiểu số khác, như dân da đen, Phi Luật Tân, Hồi Giáo Á Rập v.v...
Vợ chồng tôi đă đến đây nhiều lần trong 45 năm sống ở Mỹ (bây giờ 49 năm). Vui lắm. Càng ngày dân Việt Nam càng dọn về đây đông hơn, nhất là từ khi giá nhà ở Cali quá mắc, và ở đây quá rẽ, dân Việt Nam thường bán nhà Cali dọn về đây đông lắm..."
Nhiều bạn hỏi tôi, sống ở Mỹ dễ hay khó? Muốn thành công, dễ hay khó?
Nh́n lại 42 năm sống ở Mỹ (bây giờ 49 năm) tôi thấy sống ở Mỹ dễ lắm. Nếu các bạn đến đây với quyết tâm sống, hội nhập, và t́m giấc mơ Mỹ, một cuộc đời ấm no và hạnh phúc, nếu các bạn quyết tâm, giấc mơ Mỹ sẽ đến với các bạn.
Đừng chán nản, hăy nỗ lực. Những lúc buồn, cô đơn, bơ vơ lạc lỏng, hăy t́m bạn Việt Nam giao thiệp để ủng hộ tinh thần nhau, sẽ qua được cơn bỉ cực.
Những năm đầu sống ở Mỹ năm 1975, tôi khó khăn hơn các bạn. Tôi tới đây sớm quá, cộng đồng Việt Nam chưa thành h́nh. Phải vài năm sau năm 1975, một số tiệm Việt Nam mới từ từ mỡ ở các chợ Tàu New York.
Ngược lại nếu các bạn muốn đến đây ăn bám vào xă hội Mỹ, lười biếng không muốn làm việc, tối ngày ăn nhậu, các bạn khó hạnh phúc lắm. Ở Mỹ ai làm việc cũng nhiều tiền và cơ hội hơn ai ở không xin trợ cấp xă hội..."
... Lúc chúng tôi ra riêng, ở khu tôi ở có một vài gia đ́nh người Việt Nam, cũng mới đến đây như tôi.
Sống chung với đồng hương trong xóm cũng hay lắm. Thỉnh thoảng ngày nghỉ đi chợ, nghe họ nói tiếng Việt với nhau, tôi thấy trong ḷng vui vui, đỡ nhớ nhà.
Thời mới đến tôi nhớ nhà nhiều lắm. Mỗi lần nghe John Denver ca bản "Country road take me home" (Đường làng ơi, hăy đưa tôi về nhà..." tôi khóc tức tưởi, rất buồn. Mỗi lần nghe Madonna ca bản “Don’t Cry For Me Argentina” (Argentina ơi, đừng khóc cho tôi...), tôi lại nghe trong đầu như có ai nói "Đừng khóc cho tôi Sài G̣n ơi...", và tôi bắt đầu khóc.
Lúc ban đầu trong xóm chỉ có vài gia đ́nh ngân hàng Chase.
Lúc đó nhân viên Chase Sài G̣n được chia làm hai nhóm định cư. Nhóm có lợi tức cao, gia đ́nh ít con, mướn nhà ở một khu khang trang bên Hoboken, tiểu bang New Jersey, bên kia sông Hudson. Nhóm có lợi tức thấp, gia đ́nh đông con, mướn nhà ở một khu rẻ tiền hơn ở quận Queens thành phố New York. Gia đ́nh tôi ở khu này, vợ chồng và 4 con ở chen chúc trong căn hộ (apartment) 2 pḥng ngủ.
Dần dà người Việt Nam từ từ dọn đến khu tôi ở, vừa rẽ, vừa có sẵn một nhóm Việt Nam, vui lắm.
Người Việt tới đông quá, nên tôi thường gọi đây là Xóm Việt Nam. Lúc đó chúng tôi đối xử với nhau như người Việt Nam sống xa quê hương, không phân biệt Công Giáo, Phật Giáo, hay địa phương ǵ cả..."
... Dần dà người Việt Nam từ từ dọn đến khu tôi ở, vừa rẽ, vừa có sẵn một nhóm Việt Nam, vui lắm.
Người Việt tới đông quá, nên tôi thường gọi đây là Xóm Việt Nam. Lúc đó chúng tôi đối xử với nhau như người Việt Nam sống xa quê hương, không phân biệt Công Giáo, Phật Giáo, hay địa phương ǵ cả.
Hoàn cảnh lịch sử làm chúng tôi hiểu nhau hơn, thương nhau hơn, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hơn.
Người Nam nấu ăn món Nam, xong mời bạn bè Bắc và Trung thưởng thức. Ngược lại, tôi cũng được các gia đ́nh Trung và Bắc mời mọc, nên chúng tôi hiểu văn hóa của nhau nhiều hơn, chấp nhận nhau hơn lúc ở Sài G̣n.
Gia đ́nh của tôi sau này là một nước Việt Nam nho nhỏ. Rể của tôi là người Bắc Hà Nội di cư. Dâu của tôi người Huế, chưa bao giờ biết Sài G̣n.
Đặc biệt gia đ́nh bên dâu của tôi gốc người Hoa (người Việt gốc Hoa). Đúng như một người nào đó nói, Mỹ là một "melting pot", một nơi hóa giải mọi khác biệt màu da, chủng tộc, và địa phương..."
Hoàn cảnh lịch sử làm chúng tôi hiểu nhau hơn, thương nhau hơn, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hơn.
Người Nam nấu ăn món Nam, xong mời bạn bè Bắc và Trung thưởng thức. Ngược lại, tôi cũng được các gia đ́nh Trung và Bắc mời mọc, nên chúng tôi hiểu văn hóa của nhau nhiều hơn, chấp nhận nhau hơn lúc ở Sài G̣n.
Gia đ́nh của tôi sau này là một nước Việt Nam nho nhỏ. Rể của tôi là người Bắc Hà Nội di cư. Dâu của tôi người Huế, chưa bao giờ biết Sài G̣n. Đặc biệt gia đ́nh bên dâu của tôi gốc người Hoa (người Việt gốc Hoa). Đúng như một người nào đó nói, Mỹ là một "melting pot", một nơi hóa giải mọi khác biệt màu da, chủng tộc, và địa phương.
Nhờ sống chung với nhau trong xóm, nên chúng tôi ủng hộ tinh thần lẫn nhau, mạnh dạn bắt đầu lại.
Chúng tôi cùng chung hoàn cảnh, nên hiểu nhau, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, nên mặc dầu sống dưới đáy xă hội, chúng tôi cũng chịu được. Ai cũng cố gắng t́m việc làm, ai cũng có gắng gởi thùng đồ về cho gia đ́nh bên Việt Nam bán lại, sống lây lất với chế độ Cộng Sản.
Sống trong xóm Việt Nam vui lắm. Lúc đó trong xóm có hai bà, một bà đuôi và một bà què. Bà đuôi cơng bà què đi chợ, nói chuyện tiếng Việt inh ỏi, ngồi uống cà phê ngó ra cửa sổ nh́n cảnh tượng này, tôi thấy thương người Việt Nam ḿnh vô cùng..."
... Sống trong xóm Việt Nam vui lắm.
Lúc đó trong xóm có hai bà, một bà đuôi và một bà què. Bà đuôi cơng bà què đi chợ, nói chuyện tiếng Việt inh ỏi, ngồi uống cà phê ngó ra cửa sổ nh́n cảnh tượng này, tôi thấy thương người Việt Nam ḿnh vô cùng.
Nhờ sống gần nhau, nên mỗi dịp cuối tuần, các bà bày ra nấu ăn món này món kia, thí nghiệm cách dùng "ingredient" t́m được ở chợ Mỹ, để biến chế nấu nướng các món ăn Việt Nam.
Đây là một kỹ năng quí giá, ai học được, hay nói đúng hơn khám phá ra được cách nấu, truyền thụ và chia sẻ với các bạn trong xóm, nên cuộc đời dễ chịu lắm. Ở Mỹ mà c̣n ăn được thức ăn Việt Nam, lúc đó quí lắm.
Gần xóm tôi ở có một nhà thờ công giáo.
Ở đây có một Cha người Việt từ Rome qua tỵ nạn. Nhờ ông tổ chức thỉnh thoảng người Việt Nam gặp nhau, ăn cơm Việt, ca hát tiếng Việt. Tinh thần Việt Nam trong xóm nhờ vậy đỡ cô đơn, sống lây lất qua ngày mấy năm.
Mỗi lần tổ chức như vậy, vợ tôi nấu nướng một số thức ăn đem tới, con tôi tham gia văn nghệ giúp vui, cuộc sống như vậy cũng bận rộn, nếu không muốn nói là vui.
Tôi bận rộn nhiều, vừa học vừa đi làm.
Cuộc đời chỉ dễ thở khi tôi dứt khoác với quá khứ dạy học, viết văn, làm sách ở Sài G̣n, để học MBA chuyên môn về vi tính áp dụng trong thương mại.
MBA là Master of Business Administration (Thạc sĩ quản lư kinh doanh). Hơn 38 năm trước (bây giờ 45 năm), Phố Wall cần tự động hoá (automation), nên những người như tôi dễ kiếm việc làm lắm. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó..."
Cộng đồng người gốc Việt ở Mỹ
Người Việt ở Mỹ là cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất thế giới. Hơn phân nửa dân số Việt Kiều đang sống ở đây.
Theo thống kê dân số năm 2010, ở đây có khoảng 1.8 triệu người gốc Việt. Theo ước lượng của Bộ Ngoại Giao năm 2012 ở đây có 2.2 triệu người, trong tổng số 4 triệu Việt Kiều khắp thế giới.
Đa số người Việt ở Mỹ thích sống quay quần ở những khu đô thị lớn ở Cali và Texas.
Ở Cali họ sống tập trung ở quận Cam (Orange County) và San Jose. Ở Texas họ sống tập trung ở Houston.
Lúc ban đầu họ được định cư rải rác khắp nước Mỹ. Chính họ đă t́m lại nhau, và về sống quay quần với nhau, tạo nên những phố Sài G̣n Nhỏ nổi tiếng ngày nay.
Ngoài những khu kể trên họ sống rải rác khắp nước Mỹ như ở New York, San Francisco, San Diego, Atlanta, Sacramento, Denver, Oklahoma City, New Orleans, khu Dallas–fort Worth metroplex (Haltom City, Arlington, và Garland), Falls Church, Virginia và Orlando.
Gần hết số người Việt ở Mỹ đă đến đây sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
V́ vậy họ chán ghét chế độ Cộng Sản, nên thường chỉ trích mạnh mẽ chế độ này.
Nhiều người tưởng họ ghét người Bắc. Thật ra họ không ghét người Bắc, chỉ ghét Cộng Sản mà thôi.
Nhiều người chống Cộng ở đây c̣n bà con trong đại gia đ́nh hiện đang sống ngoài Bắc, nên không thể nói họ ghét người Bắc..."
Bài nói về hiện tượng lạ mới đây nhiều nhà giàu Nga, Trung Quốc và Việt Nam dem tiền qua Mỹ đầu tư, cho con cháu qua học, mua nhà, t́m cách ở lại Mỹ.
Những trí thức lớn của Việt Nam cũng qua Mỹ. Khác với hoàn cảnh chúng tôi 49 năm trước, ra đi với hai bàn tay trắng đến đây làm lại cuộc đời, t́m đường sống cho vợ con.
Nhà giàu và trí thức Việt Nam qua đây như chúng tôi được dư luận viên ca ngợi, trong lúc họ vô trang của chúng tôi gọi chúng toi là phản quốc, ba que, đu càng. Lạ quá.
"Từ ngày đầu lập quốc, nước Mỹ là đất nước của di dân và người tỵ nạn. Từ năm 1975 hơn 2.000.000 người Việt Nam đa số đến từ miền Nam sống không được trên quê hương, cũng đến đây tỵ nạn, làm lại cuộc đời, t́m "giấc mơ Mỹ". Đây là đất nước nhiều cơ hội.
Gần đây tôi thấy có hiện tượng lạ này, nhiều nhà giàu ở các nước độc tài nhu Nga, Trung Quốc và Việt Nam đem tiền qua đây mua nhà, cho con cái qua đây học, và t́m cách lập nghiệp ở đây, lấy quốc tịch Mỹ.
Đó là v́ nước Mỹ cho mọi người cơ hội làm giàu, và sẽ không bao giờ lấy tiền nhà giàu chia cho nhà nghèo như trong các nước xă hội chủ nghĩa.
Tiền của các bạn là của các bạn, nhà và đất của các bạn, không phải của Đảng hay nhà nước Cộng Sản do Đảng lănh đạo.
Một số trí thức lớn của thế giới thích đến Mỹ dạy hoặc làm việc, v́ nước Mỹ cho họ điều kiện nghiên cứu, và tôn trong sự tự do sáng tạo, nói chung tri thức của họ. Những cơ hội này không có trên đất nước nơi họ sống, dù Việt Nam hay Pháp hay Đức v.v.., trên thế giới nói chung.
Các bạn hăy suy nghĩ rồi quyết định. Nếu các bạn dạy Đại Học ở Việt Nam tốt hơn, tội ǵ đi Mỹ? Nếu các bạn làm giàu ở Việt Nam, tài sản được bảo đảm an toàn, tội ǵ qua đây làm ăn, làm ǵ?
C̣n nếu các bạn không có tương lai ở quê hương, nước Mỹ sẽ cho các bạn tương lai, và một cuộc đời khá hơn.
Đó là truyền thống mấy trăm năm nay của nước này. Và cộng đồng Việt Nam ở Mỹ ra đi với hai bàn tay trắng, bây giờ ăn nên làm ra, là một minh chứng hùng hồn nhất..."
... Kể lại những ngày sống ở Mỹ, tôi không thấy hận thù hay ghét Cộng Sản. Thật t́nh mà nói, tôi thấy thương hại họ.
Họ cũng là người Việt Nam như tôi. Họ nghe lời ngoại bang trong Quốc Tế Cộng Sản, cổng rắn cắn gà nhà, đập chết thằng anh em ruột thịt trong Nam, để được ǵ?
Kết quả là ǵ? Một nước Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Tàu, mất nhiều miền đất biên giới, nổi tiếng nhất là ải Nam Quang, mất Hoàng Sa và Trường Sa, Đồng Bằng Sông Cửu Long hạn hán, ngập mặn, vựa lứa đất nước bị đe dọa.
Bị ức hiếp như vậy, họ cũng không dám phản đối, không dám phẫn nộ, lúc nào cũng ôm kẻ thù truyền kiếp mấy ngàn năm gọi họ là anh em môi hở răng lạnh, anh em 16 chữ vàng v.v...
Ngư dân của họ bị người anh em đâm tàu ch́m, họ cũng không dám nói là Trung Quốc đă gây thảm cảnh, nói mù mờ là tàu lạ đă gây sự.
Thật t́nh tôi tội nghiệp họ, và người dân Việt Nam đang sống trong chế độ toàn trị của họ.
Tôi không hận thù. Tôi chỉ thương hại họ. Tôi phải nói rơ điểm này v́ nhiều bạn thường vô Blog của tôi comment thắc mắc, hỏi tôi có hận thù Cộng sản không..."
Los Angeles c̣n được người Việt Nam ḿnh gọi là Los, có tên chánh thức là “City of Los Angeles” (Thành phố Los Angeles), hay ngắn gọn hơn L.A. Đây là thành phố đông dân hạng nhất ở Cali và hạng nh́ toàn quốc Mỹ, sau thành phố New York.
Người Việt Nam sống ở trong thành phố khoảng 19,960 người, đứng hạng 7 trong danh sách các thành phố lớn ở Mỹ hơn 10,000 người gốc Việt sanh sống. Nhưng nếu tính quận Los Angeles, số này lên đến 87,468 người, đứng hạng 3 quận đông người Việt Nam nhất, sau Quận Cam (183,766) và Santa Clara (ở San Jose bắc Cali, 125,696).
Los Angeles nổi danh là thủ đô điện ảnh của Mỹ và thế giới. Vợ chồng tôi đến đây thăm viếng nhiều lần, mặc dầu ít hơn những thành phố nhỏ gần đó, được người Việt Nam biết đến với tên Phố Sài G̣n Nhỏ Cali (Litlle Saigon).
Theo thống kê dân số năm 2010, dân số Los Angeles là 3,792,621 người. Khu đô thị Los Angeles (Greater Los Angeles area) có dân số 13 triệu người. Và khu đô thị thống kê (Metropolitan statistical area) Los Angeles-Long Beach-Santa Ana có dân số 18 triệu người.
Với những con số này, Los Angeles được xem như đông dân hạng nh́ ở Mỹ sau New York, và là một trong những khu đô thị lớn nhất thế giới.
Los Angeles được thành lập vào ngày 4 tháng 9 năm 1781 bởi vị Thống Đốc người Tây Ban Nha tên Felipe de Neve.
Lúc đó ông là Thống Đốc của vùng tên “Las Californa” bao gồm lănh thổ của tiểu bang California ngày nay, vùng Baja California của Mexico, và vùng Baja California Sur cũng của Mexico. Ông có công thiết lập thành phố Los Angeles và ổn định cuộc sống ở Trung Tâm Truyền Giáo (Mission) ở Santa Barbara và San Jose.
Năm 1821 thành phố Los Angeles thuộc Mexico sau khi nước này giành được độc lập sau cuộc chiến “Mexico War of Independence” (Cuộc chiến tranh giành độc lập của Mexico).
Sau khi Mỹ thắng Mexico vào năm 1848, với Hiệp Ước ḥa b́nh gọi là “Treaty of Guadalupe Hidalgo” (Hiệp Ước Guadalupe Hidalgo) giữa Mỹ và Mexico, Mỹ đồng ư mua lại vùng Los Angeles và nhiều vùng đất ở Cali, Texas, New Mexico, Arizona, Utah, một phần của Wyoming và Colorado v.v...
Los Angeles có biệt danh là “Thành phố của Thiên Thần” (City of Angels). Ngày nay đây là một thành phố toàn cầu (Global City) được xếp hạng 6 trong danh sách những thành phố toàn cầu “Global Cities Index” và hạng 9 trong danh sách những thế lực kinh tế toàn cầu “Global Economic Power Index“.
Vùng gọi là “Los Angeles Combined Statistical Area” (Vùng liên hợp thống kê Los Angeles) có “Gross Metropolitan Product GMP” (Tổng sản lượng đô thị) là 831 tỷ đô la vào năm 2005. Với con số này Los Angeles được xếp hạng nền kinh tế lớn hạng 3 trên thế giới, sau Tokyo và New York.
Ngày nay Los Angeles nổi tiếng là kinh đô điện ảnh của Mỹ. Nhiều phim, chương tŕnh truyền h́nh và dĩa nhạc đă được sản xuất ở đây. Hollywood nổi tiếng thế giới, và được quan niệm là thủ đô điện ảnh của thế giới.
Los Angeles cũng là thành phố đă từng tổ chức những sự kiện quốc tế như Thế Vận Hội mùa hè vào năm 1932 và 1984.
Los Angeles có chợ Việt Nam khá độc đáo nằm ở chợ Tàu Los. Tuy nhiên khi người ta nói tới Phố Sài G̣n Nhỏ Los, người ta muốn nói tới khu chợ Việt Nam ở quận Cam, thuộc vùng đô thị Los Angeles, cách thành phố khoảng 72 cây số (km).
Đây là nơi tập trung nhiều người Việt Nam nhất trên thế giới ngoài nước Việt Nam. Chính v́ vậy mà người ta nói đây là thủ đô của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, tự do hoàn toàn với nước Việt Nam Cộng Sản hiện nay.
Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon) ở quận Cam (Orange County) Cali (California) là khu Việt Nam đầu tiên và lớn nhất ở Mỹ. Hơn 189,000 người Việt Nam sanh sống lẩn quẩn ở đây.
Nếu tính các khu vực gần đó khoảng vài tiếng lái xe, đây là cộng đồng người Việt Nam đông nhất thế giới, ngoài nước Việt Nam. Ngày nay nếu các bạn nói Phố Sài G̣n Nhỏ, mà không nói rơ thêm ở đâu, người ta sẽ hiểu bạn muốn nói tới nơi này. Nhiều người nói đây là thủ đô của người Việt Tự Do (Tỵ Nạn).
Lúc ban đầu người Việt Nam ra khỏi trại tỵ nạn Pendleton (Camp Pendleton) gần đó đă đến định cư ở thành phố Westminster thuộc quận Cam. Những người đến sau định cư thêm ở thành phố Garden Grove. Đây là hai thành phố người Việt Nam sống đông nhất nước Mỹ, mật độ dân số chiếm 37.1 % ở Westminster và 31.1% ở Garden Grove.
Thành phố Westminster nằm phía Nam thành phố Los Angeles, cách Los khoảng 72 cây số (km). Đây là một khu da trắng ngày xưa với nhiều ruộng đồng. Những năm đầu thập niên 1970, khu này xuống dốc. Nhờ người Việt Nam đến đây lập nghiệp thành phố này đă ngóc đầu dậy trở lại, thịnh vượng như ngày hôm nay.
Năm 1978 khu Bolsa thành h́nh. Nhiều tiệm tùng và quán ăn Việt Nam được mở ở đây. Hai người có công tạo dựng khu này là Danh Quách và Frank Jao. Lúc đó tờ báo Người Việt cũng bắt đầu hoạt động. Danh Quach (hay Quách Nhứt Danh, hay Danh Nhut Quach) là một người Việt gốc Sóc Trăng. Frank Jao (Triệu Như Phát) là một người Việt gốc Hoa gốc Hải Pḥng, di cư vô Nam năm 1954.
Từ từ người Việt Nam đến càng ngày càng đông. Vùng đất hoang vắng và xuống dốc này được người Việt Nam khai thác thương mại, sống trở lại càng lúc càng huy hoàng.
Họ mua lại những tiệm tùng của người Mỹ trắng. Họ xây cất nhiều khu thương mại. Họ từ từ tiến ra khỏi khu Bolsa và hai vùng Westminster-Garden Grove, định cư và buôn bán ở những thành phố lân cận, như Stanton, Fountain Valley, Anaheim, và Santa Ana. Phố Sài G̣n Nhỏ ở Cali càng ngày càng lớn hơn và thịnh vượng hơn.
Cuối thập niên 1980 hội đồng thành phố Westminster quyết định đặt tên đường Bolsa là Little Saigon (Phố Sài G̣n Nhỏ). Đây là lần đầu tiên tại Mỹ một khu chợ Việt Nam được gọi là Phố Sài G̣n Nhỏ. Đó là một danh dự cho cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ.
Ngày nay Phố Sài G̣n Nhỏ ở quận Cam đă lan rộng ra khỏi khu Bolsa, ra nhiều thành phố ở Nam Cali. Khu này bây giờ trải rộng phía Tây Nam Disneyland giữa đường 22 và quốc lộ 405. Trong khu nầy bây giờ có cả ngàn tiệm tùng, quán ăn, văn pḥng luật sư, bác sĩ, kế toán, du lịch v.v...
Mặc dầu người Việt Nam đă lan rộng, nhưng đa số tiệm tùng vẫn nằm lẩn quẩn ở đường Bolsa. Đây là đường chánh chạy dài thành phố Westminster. Hiện nay ranh giới Phố Sài G̣n Nhỏ được nhiều người hiểu là khu nằm giữa đường Trask Ave. và W McFadden Ave. ở phía Bắc và Nam, đường Euclid và Magnolia ở phía Đông và Tây. Trong khu này, hơn 3/4 dân cư ở đây là người Việt.
Đúng là một Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon). Cái ǵ của Sài G̣n, các bạn cũng có thể t́m được ở đây, bạn bè, t́nh người, gia đ́nh v.v… Người Việt Nam nào ngày nay cũng có một hoặc nhiều người thân hiện đang sống ở đây. Người Sài G̣n và miền Nam, cũng như người miền Bắc, gia đ́nh đă di cư vô Nam năm 1954 rồi di cư qua Mỹ năm 1975.
Nhiều gia đ́nh miền Bắc khi di cư vô Nam c̣n bà con anh em sống ngoài Bắc. Bây giờ kể như đồng bào miền Bắc thuộc Phe Thắng Cuộc cũng có người thân Phe Thua Cuộc sống ở đây, thỉnh thoảng đến đây thăm viếng.
Đúng là một nước Việt Nam nho nhỏ được thành h́nh trên đất Mỹ. Thức ăn miền Nam ở đây ngon. Thức ăn miền Bắc như Phở Hà Nội, Chả Cá Thăng Long v...v... ở đây cũng rất đặc biệt.
Con dâu tôi người Trung. Tuy nhiên lúc nào đến đây thăm viếng, tôi cũng đi ăn thức ăn miền Trung. Thức ăn miền Trung ở đây ngon và độc đáo lắm. Tôi sống ở New York, chợ Tàu ở đây lớn nhất nước Mỹ. Thế nhưng khi đến đây, tôi cũng thích thức ăn Tàu ở đây, hợp khẩu vị của người Việt Nam hơn thức ăn Tàu ở chợ Tàu New York..."
(Trích sách "Tiểu bang California" của Lê Thanh Hoàng Dân).
Washington, D.C.
Hiện khoảng 70,000 người gốc Việt đang sanh sống ở đây. Phố Sài G̣n Nhỏ ở đây rất vui, nằm lẩn quẩn khu “Eden” (Vườn địa đàng). Đúng là thiên đường của người Việt ở Mỹ, sau Phố Sài G̣n Nhỏ ở Cali và Houston Texas.
Washington, D.C. là thủ đô của nước Mỹ. Nó c̣n được biết đến với những tên khác như District of Colombia, Washington, "The District", hay ngắn gọn là "D.C.".
Theo Hiến Pháp Hoa Kỳ, thủ đô nước Mỹ không nằm trong một tiểu bang nào, mà nằm trong một địa hạt liên bang (federal district).
Diện tích của Washington, D.C. là 177.0 cây số vuông (km2), dân số ước lượng của năm 2012 là 632,323 người.
Mặc dầu nó là thủ đô của nước Mỹ đa số là da trắng, nhưng trong thực tế đây là đặc khu đông người da đen sanh sống hơn người Mỹ trắng.
Thành phố Washington ngày xưa nằm trong địa hạt Colombia. Do đó có tên Washington D.C., tức thành phố Washington trong địa hạt Colombia. Sau này người ta bỏ địa hạt này, và sáp nhập thành phố và địa hạt. Thành phố này được người Việt Nam ḿnh biết đến với tên Hoa Thịnh Đốn.
Washington, D.C được thành lập do đạo luật mang tên “Residence Act” (Luật cư trú) ngày 16 tháng 6 năm 1790. Luật này cho phép xây dựng thủ đô nước Mỹ bên bờ sông Potomac ở vùng bờ biển miền Đông Hoa Kỳ.
Theo hiến pháp, thủ đô Mỹ là một đặc khu dưới quyền cai trị của Quốc Hội, không thuộc một tiểu bang nào cả. Theo tiếng Việt district có nghĩa là quận, nhưng nếu các bạn dịch tên District of Columbia là quận Columbia th́ dễ nhầm lẫn với quận Columbia của tiểu bang Washington. Phải dịch district ở đây là đặc khu.
Theo Wikipedia hai tiểu bang Maryland và Virginia đă tặng đất cho Liên Bang để xây dựng thủ đô. Lúc đó thủ đô nằm trong đặc khu Colombia (District of Colombia).
Thủ đô bao trùm hai vùng định cư đă có từ trước là Georgetown và Alexandria. Thủ đô được đặt tên Washington để vinh danh người lănh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập. Thủ đô được bắt đầu xây đựng từ năm 1791. Năm 1846 Quốc Hội trả lại phần đất do bang Virginia đóng góp. Năm 1871 Quốc Hội tạo một chánh quyền duy nhất lănh đạo vùng đất liên bang và thủ đô.
Diện tích của Washington, D.C. là 177.0 cây số vuông (km2), dân số ước lượng của năm 2012 là 632,323 người. Nếu tính số người ở vùng lân cận vô đây làm việc trong tuần, dân số ở đây lên đến trên một triệu trong những ngày làm việc.
Khu đô thị Washington (Washington Metropolitan Area) có dân số 5.7 triệu người. Như vậy thành phố Washington, D.C. đông dân hạng 24 ở Mỹ, nhưng khu đô thị lại đông dân hạng 7.
Theo Wikipedia tiếng Việt, nếu Washington D.C. là một tiểu bang, nó sẽ đứng hạng chót về diện tích, nó đứng hạng nh́ từ dưới đếm lên về dân số, đứng nhất từ dưới lên về mật độ dân số, đứng thứ 35 về tổng sản lượng nội địa của tiểu bang, và đứng nhất về phần trăm số người da đen.
Washington D.C là nơi đặt trụ sở của 3 ngành chánh quyền liên bang, Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp. Ở đây cũng là nơi có những đài tưởng niệm và bảo tàng viện quốc gia.
Khoảng 175 đại sứ quán các nước cũng đặt trụ sở ở đây. Cuối cùng đây cũng là thành phố nơi nhiều cơ quan đặt trụ sở như các tổ chức quốc tế, các liên đoàn lao động, các nhóm vận động hành lang, và các hội đoàn nghiệp vụ.
Những cơ quan quốc tế đặt trụ sở ở đây là Ngân hàng Thế giới (World Bank) , Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS), Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, và Tổ chức Y tế Liên Mỹ (PAHO).
Người Việt Nam sống trong vùng thủ đô Washington DC rất đông, khoảng 70,000 người.
Phố Sài G̣n Nhỏ đầu tiên nằm ở khu Clarendon thuộc quận Arlington. Sau khi trạm xe điện ngầm ở đây được xây cất, v́ tiền thuê nhà cao quá, nên nhiều người Việt Nam đă đóng cửa tiệm dọn về khu "Eden" (Vườn Địa Đàng) gần đó.
Nếu có dịp thăm viếng thủ đô nước Mỹ, mời các bạn đến đây ăn uống và giải trí. Thức ăn Việt Nam ở đây ngon lắm. Mỗi lần đi Washington DC tôi đều ghé ngang qua đây. Mỗi lần lái xe đi Florida, tôi đều dừng chân ăn trưa ở đây.
Nhiều nhà hàng Việt Nam lớn, nhiều vũ trường và pḥng trà ca nhạc nằm lần quẩn khu này. Thời c̣n trẻ, chúng tôi cùng đám bạn gọi là nhóm "Giang hồ miền Đông Bắc Hoa Kỳ" thường hẹn nhau ở đây những dịp nghỉ dài ngày, cùng nhau vui hưởng cuộc đời. Thời đó vui quá..."
Orlando có một khu chợ Việt Nam với nhiều nhà hàng và tiệm tùng thực phẩm rất vui, tuy không bằng Little Saigon ở Cali hay chợ Việt Nam ở Houston, nhưng có nhiều triển vọng phát triển.
Đối với du khách người Việt Nam, ở đây có Phố Sài G̣n Nhỏ, có chợ Tết Việt Nam vui lắm. Florida có 40,000 người Việt sanh sống, nên Cộng đồng khá mạnh, mạnh hơn Cộng đồng người Việt vùng New York nơi tôi ở.
Orlando là một thành phố lớn miền Trung Florida (Central Florida), thủ phủ của quận Orange (Quận Cam). Với dân số 262,372 người (theo thống kê dân số năm 2014), đây là thành phố lớn nhất Florida trong đất liền, và lớn hạng 5 tiểu bang nầy, 4 thành phố kia đều nằm trên bờ biển.
Khu đô thị Orlando rất đông dân, dân số ở đây lên đến 2,387,138 người (theo thống kê dân số năm 2016). Đây là khu đô thị lớn hạng 24 ở Mỹ, và hạng 6 ở miền Nam nước này.
Orlando được biết đến với nhiều biệt danh, quan trọng nhất là "Thành Phố Đẹp" (The City Beautiful), và "Thủ Đô Công Viên Giải Trí Thế Giới" (The Theme Park Capital of the World).
Ở đây có nhiều công viên giải trí nhất; các bạn có thể đến đây vui chơi giải trí với gia đ́nh cả tuần, nếu không muốn nói là cả tháng không biết chán. Trong số này quan trọng nhất là công viên giải trí Epcot, Magic Kingdom, Phim trường Hollywood, Phim Trường Universal, Islands of Adventure, Sea World, và Animal Kingdom.
Năm 2014 Orlando thu hút 62 triệu du khách đến thăm viếng. Và năm 2009 Orlando đứng nhất, đông du khách đến thăm viếng nhất nước Mỹ.
Cũng năm nầy Orlando đứng hạng 4 trong số những thành phố dân Mỹ thích đến sống nhất, theo kết quả nghiên cứu của Trung Tâm Khảo Cứu Pew (Pew Research Center study).
Hầu hết những công viên giải trí và những điểm vui chơi ở đây đều nằm trên đường International. Con tôi có nhà cách đó khoảng vài phút lái xe. Năm nào cả gia đ́nh chúng tôi cũng tựu hợp về đây trốn lạnh mùa Đông, vui lắm.
New York mùa đông rất lạnh, trời u ám rất buồn. Những ngày hưu trí rảnh rỗi, trong lúc New York và miền Bắc Hoa Kỳ trở lạnh, nhiều tuyết, vợ chồng tôi thường bay đến Orlando trốn lạnh.
Về Sài G̣n mùa Giáng Sinh và Năm Mới là hay nhất. Nhưng gia đ́nh tôi đông con, con cháu sống rải rác nhiều nơi ở Mỹ, nên về Sài G̣n không tiện.
Trong nhiều năm, chúng tôi cùng con cháu tựu hợp đến Orlando mùa Giáng Sinh và Năm Mới, cùng nhau rong chơi các công viên giải trí, vui lắm.
Thành phố Orlando được biệt danh là “Thủ đô công viên giải trí trên thế giới“. Ở đây có nhiều công viên giải trí. Các bạn có nghe nói tới những công viên giải trí sau đây của thành phố Orlando chưa: Epcot, Magic Kingdom, Phim Trường Hollywood, Phim Trường Universal, Islands of Adventure, Sea World, và Animal Kingdom. Đó là những công viên giải trí lớn. Ngoài ra ở đây c̣n nhiều công viên giải trí nhỏ hơn, và nhiều Show ăn uống và tŕnh diễn rất hay. Con cháu của tôi đến đây chơi một tuần. Vợ chồng tôi ở đây vài tháng, đến lúc New York bớt lạnh mới trở về..."
Tại Mỹ, nơi nào có nhiều người Việt Nam sanh sống, nơi đó có chợ Việt Nam, qui tụ nhiều quán ăn, tiệm cà phê bánh ḿ Sài G̣n, và nhiều cơ sở thương mại của người Việt Nam.
Chợ Việt Nam thường được gọi là "Little Saigon" hay Phố Sài G̣n Nhỏ. Ở New York không có một Phố Sài G̣n Nhỏ riêng biệt, nên các cơ sở thương mại của người Việt Nam, như pḥng mạch bác sĩ, nha sĩ, các quán ăn và chợ Việt Nam đều nằm rải rác trong chợ Tàu.
Người Việt Nam không thích sống ở New York. Trong số hơn 2 triệu người gốc Việt sanh sống ở Mỹ, chỉ 13,387 người sống ở đây, theo thống kê năm 2010.
Trong danh sách những thành phố ở Mỹ trên 10,000 người Việt Nam sanh sống, New York đứng hạng 10, sau San Jose (100,486), Garden Grove quận Cam (47,331), Westminster (36,058), Houston bang Texas (34,838), San Diego (33,149), Santa Ana tại quận Cam (23,167), Los Angeles (19,969), Anaheim ở quận Cam (14,706) và Philadelphia (14,431).
Có lẽ v́ thành phố này ít người Việt Nam nên ở đây không có một chợ Việt Nam riêng biệt, không có một khu phố ḿnh có thể hănh diện gọi đó là Phố Sài G̣n Nhỏ.
Người Việt Nam ở New York phải sống bám vào chợ Tàu nên những quán ăn và tiệm tùng của người Việt Nam ở đây đều nằm trong phố Tàu, ở các quận (borough) Manhattan, Flushing và Brooklyn. Cộng đồng người Hoa ở New York rất đông, cả triệu người, so với hơn 13,000 người gốc Việt.
Tại bảng chỉ dẫn cho du khách đến tham quan chợ Tàu Manhattan có ghi rơ một con đường nhiều quán ăn Việt Nam, là đường Baxter. Tuy nhiên nếu các bạn đi một ṿng tham quan phố Tàu New York (Manhattan) các bạn sẽ thấy các quán ăn và tiệm tùng Việt Nam nằm rải rác khắp chợ Tàu.
Người Việt Nam không thích sống ở New York. Ngược lại ở đây có nhiều người Việt gốc Hoa.
Sau ngày 30 tháng Tư, Cộng Sản tổ chức đuổi người Việt gốc Hoa ra khỏi nước, nên tổ chức cho họ đổi vàng cứu mạng, vượt biên trong phong trào Thuyền Nhân. Nhờ đó ở chợ Tàu hiện nay có nhiều tiệm tùng và quán ăn Việt Nam, đặc biệt lắm.
Mặc dầu ở New York chánh quyền chưa chánh thức công nhận một Phố Sài G̣n Nhỏ, nhưng một cách không chánh thức ai cũng biết một vài đường trong chợ Tàu ở đây có nhiều tiệm tùng và quán ăn Việt Nam, tạo một sắc thái độc đáo cho chợ Tàu ở đây. Những cơ sở thương mại này đều do người Việt gốc Hoa làm chủ.
Thỉnh thoảng một vài bạn ở xa đến thăm New York có hỏi tôi quán ăn nào ăn được và ở đâu. Để giúp các bạn biết một vài quán ăn quê hương khi đến thăm viếng thành phố New York nơi tôi đang sống, tôi xin chia sẻ với các bạn một vài h́nh ảnh quán ăn Việt Nam tại đây, và một số địa chỉ cùng số điện thoại.
Danh sách quán ăn này chắc chắn không đầy đủ. Tuy nhiên đây cũng là một bước khởi đầu để các bạn khám phá. Chúc các bạn những ngày vui tại New York.
Những tiệm Phở ở New York bán nhiều thức ăn Việt Nam, chớ không phải chỉ bán phở như ở bên nhà. Ngoài phở ở đây c̣n bán cơm sườn, bún chả gị thịt nướng, và nhiều món ăn quê hương khác, như cơm gia đ́nh chẳng hạn.
Danh sách một vài quán ăn Việt Nam tại chợ Tàu Manhattan New York:
“Bo Ky Restaurant 78-80 Bayard St 212-406-2292
Bún 143 Grand St 212-431-7999
Công Lư 124 Hester St 212-343-1111
Doyers Vietnamese 11 Doyers St 212-693-0725
Kiên Tường 83 Chrystie St 212-966-2878
Nam Sơn (Nam Sơn) 245 Grand St 212-966-6507
New Pasteur 85 Baxter St 212-608-3656
Nha Trang 87 Baxter St 212-233-5948
Nha Trang Centre 148 Centre St 212-941-9292
Phở 89 89 E Broadway 212-766-8898
Phở Bằng 157 Mott St 212-966-3797
Phở Bằng 3 Pike St 212-233-3947
Phở Grand 277 Grand St 212-965-5366
Phở Sai Gon 52 Bowery 212-226-3751
Phở Tự Do – Phở Tự Do 119 Bowery 212-966-2666
Phở Việt Hương 73 Mulberry St 212-233-8988
Thái Son – Thái Sơn 89 Baxter St 212-732-2822
Thanh Hồng 30 E Broadway 212-431-8811“
New England được người Việt Nam ḿnh dịch là Tân Anh hay Tân Anh Cát Lợi. Đây là 6 tiểu bang thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, bao gồm Connecticut, Maine, Massachusetts, New Hampshire, Rhode Island, và Vermont.
Tại sao Tân Anh, Anh Mới? Ngày xưa di dân người Anh định cư đông ở đây, nên họ đặt tên vùng đất này là Anh Mới. Tâm trạng di dân người Anh giống như người Việt Nam ḿnh. Họ nhớ nhà, thương yêu quê hương bỏ lại, nên nơi nào họ sống, họ đặt tên vùng đó là Tân Anh, hay Anh Mới.
Giống như các Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon) ở Mỹ. Nơi nào đông người Việt Nam sanh sống, nơi đó có Phố Sài G̣n Nhỏ.
Người Anh sống đông ở vùng New England, và đă đánh bại người di dân gốc Pháp cùng các bộ lạc da đỏ thân họ.
Cuộc cách mạng chống lại Anh giành độc lập cũng bắt đầu ở đây, bắt đầu bằng chống lại thuế do chánh quyền Anh quyết định không được sự đồng ư của dân ở đây, nhưng sau từ từ trở thành đấu tranh vỏ trang, đến cuộc cách mạng toàn diện của 13 thuộc địa cũ giành độc lập, lập nên nước Mỹ ngày nay.
Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ là một trong 4 vùng thống kê ở Mỹ. Đây là vùng đất giáp ranh với Canada ở phía Bắc, biển Đại Tây Dương ở phía Đông, miền Nam Hoa Kỳ (Southern States) ở phía Nam, và vùng Trung Tây ở phía Tây. Vùng Đông Bắc là vùng đất giàu nhất nước Mỹ, dân cư sống đông nhất, và văn hóa đa dạng nhất ở Mỹ. Vấn đề đô thị hóa ở đây đứng hạng nh́, sau miền Tây.
Lúc ban đầu khi người Anh đến đây sanh sống, họ sống nhờ nghề nông, câu cá và thương mại.
Cuộc cách mạng công nghiệp (Industrial Revolution) đă biến vùng này thành một khu công nghiệp. Nhiều nhà máy được xây cất ở đây.
Suốt thế kỷ 20, nền kinh tế ở đây biến đổi từ công nghiệp thành dịch vụ. Hiện nay bang Massachusetts đang dẫn đầu thế giới về nhiều địa hạt như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, tài chánh, giáo dục bậc cao và giao thương hàng hải.
Massachusetts ảnh hưởng mạnh đến lịch sử và văn hoá nước Mỹ.
Năm 1786-1787 cuộc nổi loạn của Shay (tiếng Mỹ là Shay’s Rebellion) bùng nổ ở đây, bị đàn áp.
Chánh quyền liên bang thắng, tuy nhiên cuộc nổi loạn này làm cho giới lănh đạo Mỹ đă triệu tập Hội Nghị Hiến Pháp (Constitutional Convention) trao nhiều quyền hành cho chánh quyền Liên Bang hơn để cai trị đất nước.
Thế kỷ 18 phong trào Grand Awakening (Đại Tỉnh Thức) lan rộng các nước quanh Đại Tây Dương, đă bắt nguồn từ đây.
Thế kỷ 18 cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đă bắt nguồn từ thành phố Boston ở đây. Lịch sử ghi nhận Boston là cái nôi của cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ, “Cradle of Liberty” (Cái nôi của Tự Do).
Trước cuộc nội chiến Nam-Bắc, Massachusetts là nơi bắt đầu phong trào băi bỏ chế độ nô lệ, cấm uống rượu mạnh, phong trào triết học tôn giáo tên Transcendental (phong trào thuyết tiên nghiệm).
Cuối thế kỷ 19 những môn thể thao như bóng chuyền và bóng rổ được khai sanh ở tiểu bang này.
Năm 2004 Massachusetts là tiểu bang đầu tiên chấp nhận hôn nhân người đồng tính (same sex marriage).
Đại học Harvard là đại học lâu đời nhất nước Mỹ, đào tạo nhiều Tổng Thống và Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện.
Cả hai đại học Harvard và MIT đều được thế giới nh́n nhận là đại học hàng đầu trên thế giới hiện nay.
Một vài người Việt Nam đang học ở đây. Tôi mừng dùm cho dân tộc ḿnh. Nhiều gia đ́nh nổi bật ở Mỹ như gia đ́nh Adams và Kennedy hiện đang sống ở tiểu bang này..."
Pennsylvania có tên chánh thức là "Thịnh vượng chung Pennsylvania" (Commonwealth of Pennsylvania). Nó thuộc miền Đông Hoa Kỳ và nhóm "Các tiểu bang Trung-Đại Tây Dương". Ngoài ra nó c̣n thuộc Nhóm "Các tiểu bang thuộc Ngủ Đại Hồ". Dăy núi Appalachian chạy dọc chính giữa tiểu bang này.
Hiện có gần 44 ngàn người gốc Việt sanh sống ở đây. Vợ chồng tôi đă cùng con cháu đến đây nhiều lần. Phố Sài G̣n Nhỏ ở thành phố Philadelphia rất vui.
Pennsylvania giáp ranh với tiểu bang Delaware ở phía Tây-Nam, Maryland phía Nam, West Virginia ở phía Tây-Nam, Ohio phía Tây, hồ Erie và tỉnh bang Ontario của Canada ở phía Tây-Bắc, tiểu bang New York ở phía Bắc và New Jersey ở phía Đông.
Pennsylvania rộng hạng 33 ở Mỹ, đông dân hạng 6 và mật độ dân số hạng 9.
Năm thành phố đông dân nhất tiểu bang là Philadelphia (1,560,297 người), Pittsburgh (305,801), Allentown (118,577), Erie (100,671), và Reading (89,893). Nó thuộc nhóm 13 tiểu bang lúc ban đầu đă họp nhau lại để chống Anh, giành độc lập. Thủ phủ tiểu bang là thành phố Harrisburg.
Do đâu có tên Pennsylvania? Theo Wikipedia, từ này có nghĩa tiếng Anh, khu rừng của Penn. Mấy trăm năm trước ở đây chỉ có rừng. Đô đốc cha của William Penn là anh hùng dân tộc, nên Vua Charles II đă chọn tên khu rừng của Penn (Pennsylvania) để đặt tên cho tiểu bang này, vinh danh ba của William Penn, chủ đất đầu tiên của nơi này.
Pennsylvania là một trong 13 tiểu bang nguyên thủy của nước Mỹ. Năm 1681 Vua nước Anh đă bán vùng đất này cho William Penn, con của một đô đốc Anh, anh hùng dân tộc.
Đây là tiểu bang thứ nh́ đă phê chuẩn Hiến Pháp Liên Bang Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 12 năm 1787.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Hiến Pháp của Mỹ đă được thảo luận và soạn thảo ở đây. Independence Hall (Sảnh Độc Lập) nơi các dân biểu soạn thảo hai văn kiện căn bản này nằm ở thành phố Philadelphia ngày nay.
Trong suốt thời chiến tranh giành độc lập, trận đánh lịch sử tên Trận Gettysburg (Battle of Gettysburg) đă diễn ra ở miền Nam trung tâm tiểu bang này. Trận này xoay chiều cuộc chiến, giống như trận Điện Biên Phủ đối với Việt Nam.
Theo thống kê dân số năm 2013, tiểu bang Pennsylvania có 43,953 người Việt Nam sanh sống, trong số này có khoảng trên 17,335 người sống ở thành phố Philadelphia.
Philadelphia là Thủ đô 10 năm độc lập đầu tiên của nước Mỹ. Đây là một trong năm thành phố đông dân nhất Hoa Kỳ, sau New York và Los Angeles. Phila có nhiều chợ Việt Nam (Shopping Mall), mổi Shopping Mall có nhiều tiệm ăn, tiệm bán video, nhạc Việt Nam, uốn tóc, du lịch, khai thuế v.v.., rất vui.
Phố Sài G̣n Nhỏ nằm ở đường Washington, trong khu chợ Ư ngày xưa, phía Nam thành phố. Ngoài ra người Việt Nam cũng sống ở một vài khu khác như vùng Tây-Nam (Southwest) và Đông-Bắc (Northeast) thành phố Philadelphia.
Khu Tây-Nam (Southwest Philadelphia) ngày xưa có nhiều người gốc Ái Nhĩ Lan (Irish) sống. Ngày nay đây là một khu da đen. Khu Đông-Bắc (Northeast Philadelphia) đông người da trắng thiểu số sanh sống, như người Ba Lan, Do Thái, Đức, Ư và Nga. Cả 3 khu người Việt Nam sống và mở tiệm kể như khu nghèo của thành phố.
Theo nhận định của nhiều người, người Việt Nam ở Mỹ rất hay. Họ đến những khu xuống cấp, người địa phương không muốn ở, dọn đi, giá thuê nhà rẽ, người Việt dọn vô mở tiệm tùng, quán ăn, cơ sở thương mại làm cho khu nầy sống lại, và phồn thịnh.
Phố Sài G̣n Nhỏ ở Philadelphia cũng theo khuôn mẫu này. Ở đây vui lắm, cho nên vợ chồng tôi cùng con cái thỉnh thoảng đến đây ăn uống, nghe nhạc, dự tiệc đám cưới, khiêu vũ v.v... Nhờ vậy mà cuộc đời vui hơn.
Người Việt Nam bắt đầu mở tiệm tùng và quán ăn ở đây trong thập niên 1990. Lúc ban đầu người ta mở hai chợ thực phẩm lớn là Chợ Hoà B́nh (Hoà B́nh Plaza) và chợ Wing Phat (Wing Phat Plaza). Nhiều tiệm tùng bán thức ăn thức uống, băng dĩa nhạc được mở lẩn quẩn hai khu chợ này.
Năm 1998 người ta mở hai chợ mới lớn hơn là chợ “New World” (New World Plaza, chợ Thế Giới Mới), và chợ “1st Oriental Market” (chợ Đệ Nhất Đông Phương).
Điểm đặc biệt là khu chợ Việt Nam ở đây không được xây cất với kiến trúc riêng biệt giống Việt Nam hay Tàu. Nh́n sơ qua tôi thấy giống như một khu chợ Mỹ nghèo. Mặc dầu vậy, ở đây vui lắm..."
Các bạn ngày nay may mắn hơn tôi. Các bạn đến thăm viếng nước Mỹ, thăm gia đ́nh và bạn bè, làm việc, kiếm tiền, hoặc du học, các bạn c̣n đất nước để trở về.
Các bạn có một cộng đồng người Việt ở đây, muốn ăn món Việt Nam nào cũng có, muốn mua món Việt Nam nào cũng được. Các bạn không cô đơn, cực khồ, tuyệt vọng và sống dưới đáy xă hội Mỹ như chúng tôi năm 1975.
Lúc đó Cộng Sản mạnh lắm, gần như cai trị phân nửa thế giới, nên chúng tôi đến Mỹ với tâm trạng đi không trở về, chọn nơi này làm quê hương, cố quên quá khứ ở Việt Nam, và dấn thân hội nhập, tranh đấu để sống và chết ở đây.
Năm 1975 khi chúng tôi ra đi, tôi chỉ biết ḿnh phải đi, không biết đi đâu và làm ǵ, cuộc đời sẽ ra sao. Lúc đó Cộng Sản bao vây Sài G̣n và chuẩn bị tấn công.
Chúng tôi tránh lằn bom lửa đạn, t́m đường sống cho các con, thế thôi.
Vợ tôi làm việc cho ngân hàng Chase ở Sài G̣n, nên chúng tôi đi New York nơi có Trụ Sở Trung Ương của ngân hàng nầy, và sống ở đây 41 năm trước khi dọn nhà về Florida sống quăng đời c̣n lại.
Chase sponsor (bảo trợ) chúng tôi, nhưng cử một Vice President nhà băng Host (tiếp đăi) chúng tôi trong những bước đầu sống ở Mỹ.
Sự khác biệt văn hóa giữa người Việt và Mỹ quá lớn, nên ở nhà Host một thời gian giúp chúng tôi nói tiếng Mỹ khá hơn, hiểu rơ hơn cách người Mỹ sống, giúp chúng tôi thích nghi dễ dàng hơn..."
"... Tôi vẫn nhớ ḿnh đă từng dạy học, viết văn và làm sách ở Sài G̣n. Thời tuổi trẻ tôi cũng nhiều lư tưởng, nên đă theo các đàn anh Giáo Sư Nguyễn Văn Bông và GS Nguyễn Ngọc Huy chống đối chánh phủ, mong muốn một chế độ tốt hơn cho quê hương. Thời ấy đă qua rồi.
Tôi cố gắng quên quá khứ đó, để thích nghi với cuộc sống mới.
Nhiều bạn cũ của tôi thời dạy học rất nổi tiếng, khi tôi may mắn gặp lại lúc đến Cali, đều ngạc nhiên thấy tôi thay đổi, hoàn toàn thay đổi.
Thân xác vẫn là tôi, tâm hồn hoàn toàn khác, đặc biệt những hiểu biết tôi học được ở Mỹ hoàn toàn khác thời c̣n ở Sài G̣n. Lúc đó tôi mới ư thức ḿnh đă thật sự trở thành một con người khác, và thật sự đă từ bỏ quá khứ oanh liệt ở Sài G̣n rồi.
Qua Mỹ, các bạn tôi vẫn c̣n làm báo tiếng Việt, viết văn, dịch sách, và liên hệ với giới văn nghệ hải ngoại. Họ nổi tiếng. Khi gặp lại họ, tôi cảm thấy mắc cở, như đă làm điều ǵ tội lỗi vậy.
Tôi thấy họ hay quá. Tôi đă bỏ cuộc, chịu thua, và thật sự bắt đầu lại. Thay v́ tiếp tục sống như một người Việt Nam thời ở Sài G̣n xa xưa, tôi đă đổi mới, đă thích nghi, đă sống như một người Mỹ trung b́nh.
Quyết định bỏ hết quá khứ để bắt đầu lại không phải dễ.
Bỏ hết quá khứ có nghĩa bỏ hết những ǵ làm nên giá trị cá nhân ḿnh trong quá khứ. Lúc sống ở Sài G̣n, đi đâu người ta cũng chào hỏi, thưa Thầy. Đi đâu cũng có người nhận ra tôi, là ông Quê Hương Mến Yêu, là chương tŕnh TV tôi làm MC. Đi đâu người ta cũng nói về sách vở, và nhà xuất bạn Trẻ do tôi chủ trương. Bỏ hết, bắt đầu lại.
Sau hơn 42 năm (bây giờ 49) cố quên quá khứ và đám con tinh thần ngày xưa, lần đầu tiên tôi cầm lại trong tay một cuốn sách do tôi dịch, viết và xuất bản, là vừa rồi về thăm quê hương ăn Tết, một vài bạn FB của tôi ở Hà Nội và Sài G̣n đă gởi tặng một vài quyển sách cũ.
Đám con tinh thần của tôi đă tự sống tự chết 42 năm qua (bây giờ 49), tôi không quan tâm và không để ư tới chúng nữa. Tôi quên hết, để bắt đầu lại. Tôi đă sống dưới đáy xă hội Mỹ, nhưng tôi đă đi lên..."
"... Năm 1975 chúng tôi đến Mỹ với quyết tâm sống, làm lại cuộc đời, nuôi con, dạy dỗ con thành người, sống cuộc đời hạnh phúc.
Chúng tôi bắt đầu lại, sống dưới đáy xă hội, nhưng chúng tôi quyết tâm đi lên, cần cù làm việc, vừa làm vừa học. Chúng tôi cực khổ, nhưng nh́n nụ cười của đám con, tôi thấy ḿnh đă đi đúng đường.
Trong lúc bên nhà Cộng Sản xúi dục con cái chống lại cha mẹ, ŕnh rập xem cha mẹ có nói xấu ǵ Đảng và Chế Độ không, ở đây cha mẹ và con cái yêu thương nhau, sống trong t́nh thương, thay v́ hận thù.
Chúng tôi nhất quyết thích nghi với đời sống mới, tranh đấu ngoi lên. Muốn thích nghi với cuộc sống mới ở Mỹ, điều cần thiết là quên quá khứ. Quên được quá khứ, con tim mới vui trở lại, như lời một bài ca.
Bây giờ muốn nhớ quá khứ, tôi thấy có một rào cản trong tâm linh muốn đè nén và chôn đi quá khứ, không cho tôi nhớ.
Lạ thật. 42 năm trước (bây giờ 49) khi chúng tôi vừa đặt chân đến Mỹ, tôi cũng ở trong tâm trạng này, muốn quên quá khứ, để bắt đầu lại. Phải quên quá khứ mới có thể thích nghi được với cuộc sống hiện tại, và xây dựng tương lai.
Nói th́ dễ, nhưng phải hơn 7 năm sau khi đến Mỹ, tôi mới quên được quá khứ, và xây dựng được cuộc sống ổn định trên đất nước này.
Chúng tôi may mắn đến Mỹ rất sớm. Chúng tôi thuộc đợt người Việt Nam đầu tiên đến New York vào năm 1975.
Sài G̣n mất (được giải phóng) ngày 30 tháng Tư. Ngày 2 (hay 5 ?) tháng 5 chúng tôi đă có mặt ở New York. Vợ tôi làm việc cho ngân hàng Chase Manhattan ở Sài G̣n. Chase đă gởi một phó Giám Đốc ở Bangkok qua Sài G̣n đưa tất cả nhân viên ở đây di tản. Từ Sài G̣n chúng tôi bay qua phi trường Clark bên Phi Luật Tân, từ đó đi Guam, California, và rốt cuộc New York. Nếu không có ngân hàng Chase giúp đỡ, cuộc đời tôi sẽ khổ lắm.
Lúc chúng tôi đến đây, chưa có Cộng Đồng Việt Nam.
Về điểm này, tôi không được như các bạn đến sau này, hoặc các cháu đến đây du học. Các bạn có một cộng đồng người đồng hương qua trước. Họ có kinh nghiệm sống ở đây. Những việc dễ như mua gạo, nước mắm, mua thức ăn Việt Nam ở đâu họ đều biết. Họ sẽ hướng dẫn các bạn.
Khi chúng tôi đến, phải gần 2 tháng sau một người Việt Nam mới khám phá được nơi bán nước mắm, và gạo. Cô đă thông báo cho cả đoàn biết. Ai cũng mừng..."
.......
"... Thỉnh thoảng, tôi muốn trở về Sài G̣n t́m lại quá khứ, t́m lại gia đ́nh, t́m lại t́nh người Việt Nam. Tôi bắt đầu trở về thăm lại quê hương sau khi Tổng Thống Clinton bỏ lệnh cấm vận. Lúc ban đầu, cứ mỗi hai năm tôi trở về một lần. Sau này, có lúc tôi trở về mỗi năm. Lần cuối cùng tôi đă ở lại 3 tháng.
Những trải nghiệm và kỷ niệm lần cuối cùng về thăm lại quê hương sẽ được ghi lại trong sách "Lần Cuối Cùng về Thăm Lại Quê Hương”. Mấy năm sau này sức khỏe tôi suy yếu, nên lần trở về đó có lẽ là lần cuối cùng. Năm nay (8 năm trước) tôi muốn trở về ăn đám cưới một đứa cháu, thường gọi tôi là Ông Hai, nhưng sức khỏe không cho phép. Chưa tới lúc nói lời vĩnh biệt. Nhưng cũng gần tới giờ ra đi rồi.
Thú thật với các bạn, quá khứ và những kỷ niệm ngày xưa ở Sài G̣n thật là khó t́m.
Thành phố c̣n đó, nhưng nhà cửa đă khác xưa, những con đường, những góc phố đă thay đổi. Phe Thắng Cuộc đă đập phá gần hết Phố Cổ Sài G̣n. Những con đường cũng đă đổi tên. Đường Tự Do ngày xưa bây giờ là Đồng Khởi. Đường Thống Nhất bây giờ là Lê Duẩn. Không c̣n ǵ của Sài G̣n thời tuổi trẻ của tôi.
Rốt cuộc, mỗi lần về Sài G̣n tôi chỉ c̣n lại Gia đ́nh, và t́nh người Việt Nam mà thôi. T́nh người Việt Nam trong Nam, cũng như miền Trung và ngoài Bắc. Rất cảm động.
Lần sau cùng tôi về thăm lại quê hương, có hai bạn FB của tôi một ở Sài G̣n, và một ở Hà Nội, chỉ là bạn FB, nhưng họ đă gởi tặng tôi vài quyển sách của tôi xuất bản trước năm 1975, thuộc nhà xuất bản Trẻ thời đó do tôi chủ trương, c̣n sống sau cơn hồng thủy bị tịch thu, bị đốt ngoài đường phố, và bị cấm đọc cho tới nay. Thật cảm động. Tôi tin tưởng ở t́nh người Việt Nam..."
New Jersey là một tiểu bang miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Nó thuộc nhóm "Các tiểu bang Trung-Đại Tây Dương" (Mid-Atlantic States). Phía Bắc và Đông nó giáp ranh với bang New York. Phía Đông-Nam và Nam nó giáp ranh với biển Đại Tây Dương. Phía Tây nó giáp ranh với tiểu bang Pennsylvania, và phía Tây-Nam nó giáp ranh với bang Delaware.
New Jersey rất nhỏ về diện tích, được xếp nhỏ hạng 4 ở Mỹ. Về phương diện đông dân, nó được xếp hạng 11. Về phương diện mật độ dân số (density) nó được xếp hạng nhất, với 438 người mỗi cây số vuông (km2).
Tôi có hai đứa con và nhiều bạn bè sống ở đây, nên đến đây thường xuyên, gần như mỗi cuối tuần, hay ít nhất cũng mỗi tháng.
Cộng đồng người Việt ở đây vui lắm, có Công Giáo, Phật Giáo, và nhiều hội hè. Theo thống kê năm 2014, New Jersey được xếp hạng 3 toàn quốc Mỹ trên phương diện lợi tức trung b́nh tính theo đầu người (per capita Income).
Con người đă sống ở đây từ mấy ngàn năm trước. Người thổ dân châu Mỹ đă sống ở đây từ trên 2,800 năm trước. Thổ dân Lenape đă từng sống dọc theo bờ biển Đại Tây Dương tiểu bang này. Vào thế kỷ 17, người Ḥa Lan (Hà Lan) và người Thụy Điển đă bắt đầu định cư ở đây, chiếm vùng đất này làm thuộc địa. Người Anh đến sau, nhưng giành được chủ quyền cai trị, và đặt tên vùng này là Tỉnh New Jersey (Province of New Jersey). Suốt thời chiến tranh cách mạng của Mỹ vào thế kỷ 18, nhiều trận đánh ác liệt đă xảy ra ở đây.
Suốt thế kỷ 19, trong thời kỳ cách mạng công nghiệp (Industrial Revolution), nhiều nhà máy được xây cất tại các thành phố như Camden, Paterson, Newark, Trenton, và Elizabeth.
Do vị trí của tiểu bang New Jersey nằm ngay trung tâm của hành lang khu đông dân cư miền Đông-Bắc Hoa Kỳ (Northeast megalopolis) nên tiểu bang nầy mọc lên nhiều thành phố, đông dân đến ở.
New Jersey nằm cạnh những thành phố lớn như New York và Boston ở phía Đông-Bắc, Philadelphia, Baltimore, và Washington D.C. ở phía Tây-Nam. Cuối thế kỷ 20 dân chúng ở các thành phố lớn nếu có tiền, thường muốn ra ngoại ô sống, hiện tượng nầy gọi là suberbanization (đổ xô ra sống ở ngoại ô). Do hiện tượng này ở New Jersey có nhiều người lương cao làm việc ở các thành phố lớn đến mua nhà.
Tiểu bang New Jersey có trên 20,628 người Việt Nam sanh sống, theo thống kê dân số năm 2010. Người Việt Nam ở đây sống rải rác, không tập trung đông ở một nơi nào, nên không thấy có một Phố Sài G̣n Nhỏ hay Việt Nam Nhỏ.
Mặc dầu vậy người Việt Nam ở đây cũng sống hợp đoàn với nhau, xuyên qua nhiều hội hè và cộng đoàn Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo. Cộng Đồng người Việt New Jersey cũng hoạt động mạnh lắm, rất vui. V́ con của tôi sống ở tiểu bang này, nên thỉnh thoảng vợ chồng tôi đến đây tham dự sinh hoạt người Việt Nam ở đây, vui lắm.
Ở quận Middlesex có một vài tiệm Việt Nam, nên người ḿnh quen gọi đây là chợ Việt Nam, hay Phố Sài G̣n Nhỏ, mặc dầu người Mỹ chưa bao giờ công nhận chánh thức cách gọi này. Khoảng 2,849 người Việt Nam định cư tại quận này, so với 4,260 người ở quận Camden, và 3,267 ở quận Atlantic.
Nếu tính tỷ lệ gia tăng dân số trong khoảng thời gian 30 năm từ năm 1980 đến năm 2010, dân số người Việt Nam tiểu bang nầy tăng 615%. Tuy nhiên với dân số trên 20 ngàn người, cộng đồng người Việt ở đây chỉ chiếm 2.8% dân số người Á Châu ở đây.
Theo thống kê dân số năm 2010, dân Việt Nam ở đây đứng áp chót, trên cộng đồng người Nhật (13,146), nhưng thua nhiều cộng đồng người Á Châu khác, như người Ấn Độ (292,256), người Hoa (134,442), Phi Luật Tân (110,650), Đại Hàn (93,679), và Pakistan (26,006).
Mặc dầu không có một phố Sài G̣n Nhỏ riêng biệt, nhưng bù lại ở tiểu bang New Jersey có nhiều quán ăn tên Little Saigon Restaurant, Sài G̣n Nhỏ.
Chủ những quán ăn này là thuyền nhân đă tới đây sau sự kiện ngày 30 tháng Tư, nên đặt tên Sài G̣n Nhỏ để tưởng nhớ đến quê hương họ đă bỏ lại, đặc biệt thành phố Sài G̣n đă bị Cộng Sản xoá tên, lấy tên một lănh tụ Cộng Sản để đặt tên thành phố..."
New York là một tiểu bang ở miền Đông-Bắc Hoa Kỳ. Đây là tiểu bang rộng lớn hạng 27 ở Mỹ, đông dân hạng 4, và mật độ dân số hạng 7. Theo ước lượng dân số năm 2015, tổng số cư dân tiểu bang nầy khoảng 19.8 triệu người.
Tiểu bang New York tiếng Mỹ là New York State. Thành phố New York là New York City. Đây là thành phố đông dân nhất tiểu bang, số cư dân khoảng 8.5 triệu người. Khu đô thị New York (Metropolitan area) là một trong những khu đô thị đông dân nhất thế giới, dân số lên đến trên 20 triệu.
Tiểu bang New York được người Việt Nam ḿnh dịch là Tiểu bang Nữu Ước, hay Tiểu bang Niu Oóc. Nó giáp ranh với hai tiểu bang New Jersey và Pennsylvania ở phía Nam, và 3 tiểu bang Connecticut, Massachusetts, và Vermont ở phía Đông. Nó giáp ranh ngoài biển với tiểu bang Rhode Island. Đặc biệt nó giáp ranh với hai tỉnh của Canada là Quebec ở phía Bắc, và Ontario ở phía Bắc, và Tây-Bắc.
Tiểu bang New York có nhiều điểm đến nổi tiếng thế giới. Năm 2013 New York có 4 trong số 10 điểm đến được ưa chuộng nhất thế giới. Đó là Times Square (Quảng Trường Thời Đại), Central Park (Công Viên Trung Tâm), Niagara Falls (Thác Niagara thuộc New York và Ontario), và Grand Central Terminal (Nhà ga Grand Central).
New York là nhà của tượng Nữ Thần Tự Do (Statue of Liberty). Tượng này nằm ở thành phố New York, biểu tượng của nước Mỹ và những lư tưởng Mỹ đeo đuổi. Đó là Tự Do, Dân Chủ và Cơ Hội.
Sinh viên Việt Nam đến New York học rất đông. Hệ thống đại học ở đây bao gồm 200 trường đại học, cao đẳng và Viện Đại Học. Các viện đại học nổi tiếng ở đây là Viện Đại Học Columbia, Cornell, New York Univertity và Rockefeller. Các đại học này lọt vô danh sách 35 đại học tốt nhất thế giới. Đại học công lớn nhất New York là State University of New York at Buffalo (Viện đại học công lập của New York ở Buffalo). Viện đại học này do một Tổng Thống Mỹ thành lập (Millard Fillmore).
Thành phố lớn nhất tiếu bang này là New York. Theo ước lượng dân số năm 2015, thành phố New York có 8.55 triệu cư dân trong nội thành.
Khu đô thị New York (metropolitan area) đông dân hơn (trên 20 triệu), là một trong những khu đô thị lớn nhất thế giới. 40% cư dân tiểu bang New York sống trong nội thành New York, và 2/3 cư dân New York sống trong khu đô thị New York.
Đây là thành phố nơi đặt trụ sở Liên Hiệp Quốc. Đây là trung tâm ngoại giao của thế giới, và được thế giới nh́n nhận là thủ đô văn hóa và tài chánh của thế giới. New York là một thành phố toàn cầu hạng nhất trên nhiều phương diện, đặc biệt ảnh hưởng mạnh đến thế giới trên phương diện kinh tế và tài chánh.
New York là một thành phố toàn cầu tiên phong, và ảnh hưởng nhiều đến thế giới trên nhiều phương diện như: thương mại, tài chánh, truyền thông, nghệ thuật, thời trang, nghiên cứu (Research), kỹ thuật (Technology), giáo dục và giải trí.
Thành phố New York được xây dựng bên bờ một trong những hải cảng tự nhiên lớn nhất thế giới. Nó có 5 quận: Manhattan, Bronx, Brooklyn, Queens và đảo Staten (Staten Island). Dân số thành phố New York khoảng 8,336,697 người sống trên diện tích 783.8 cây số vuông (km2). Khu đô thị New York có số dân khoảng 19.8 triệu người.
Thành phố New York được người Ḥa Lan (Dutch hay Hà Lan) bắt đầu xây dựng vào năm 1.624. Lúc đó nó chỉ là một trạm mậu dịch thương mại tên New Amsterdam (Amsterdam Mới hay Tân Amsterdam), Amsterdam là thủ đô của nước Ḥa Lan. Năm 1,664 người Anh chiếm New York. Vua Anh tặng đất ở đây cho người em của ông là “Duke of York”. Do đó người ta đặt tên thành phố này là New York (tức là York Mới).
New York là thủ đô của Hoa Kỳ từ năm 1,785 đến năm 1,790. Từ năm 1,790 đến nay nó vẫn luôn luôn là thành phố lớn nhất nước Mỹ. Những danh lam thắng cảnh của New York được cả thế giới biết đến. Hiện mỗi năm có hơn 50 triệu du khách đến đây thăm viếng.
Thành phố New York có khoảng 13,387 người Việt sanh sống. Ở đây có nhiều hội hè, đ́nh đám, có Cộng Đồng Người Việt Tự Do, có Việt Cộng, có chùa chiền, nhà thờ Công Giáo, và nhiều Hội hè khác.
Nhưng rất tiếc chưa có một Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon) hay Phố Việt Nam Nhỏ, như ở Cali, Texas, Philadelphia hay Washington DC.
Mặc dầu vậy ở chợ Tàu quận Manhattan, có vài đường phố nhiều quán ăn Việt Nam, nên nhiều người đă gọi đây là Phố Sài G̣n Nhỏ, mặc dầu đây chỉ là chợ Tàu.
Ở New York không có Phố Sài G̣n Nhỏ, nhưng người Việt Nam đă mở tiệm Phở khắp nơi. Chẳng hạn ở chợ Tàu Flushing quận Queens người ta đă mở 3 tiệm Phở. Gần đây tôi thấy ở Phố Đại Hàn Flushing cũng vừa mở một tiệm Phở nữa."
Maine là một tiểu bang miền Đông-Bắc Hoa Kỳ. Maine rộng hạng 39 ở Mỹ, và đông dân hạng 42. Maine là một trong 6 tiểu bang gộp lại thành Vùng New England (Anh Quốc Mới hay Tân Anh Cát Lợi).
Đây là nơi người Anh đến định cư lâu đời nhất, nên họ đặt tên là New England. Cũng giống như người Sài G̣n ở Mỹ. Nơi nào có người Việt Nam sống, nơi đó có Phố Sài G̣n Nhỏ.
Sáu tiểu bang của New England (Anh Quốc Mới hay Tân Anh Cát Lợi) là: Maine, New Hampshire, Vermont, Massachusetts, Đảo Rhode (Rhode Island), và Connecticut.
Mấy năm trước vợ chồng tôi đă đến đây tham quan nhiều nơi, đặc biệt Vườn Quốc gia Acadia, một trong 10 Vườn Quốc gia nổi tiếng nhất nước Mỹ.
Maine gia nhập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1820. Đây là tiểu bang thứ 23 gia nhập Liên Bang Mỹ. Maine có nhiều thành phố và thị trấn được đặt tên theo các thành phố lớn trên thế giới, như Rome, Moscow, Madrid, Paris, Vienna, Stockholm v..v...
Maine nằm ở vùng cực Đông của nước Mỹ, và cực Bắc của vùng Ngủ Đại Hồ. Nó giáp ranh với biển Đại Tây Dương ở phía Đông và Nam, giáp ranh với tiểu bang New Hampshire ở phía Tây, giáp ranh với tỉnh bang Quebec của Canada ở phía Tây-Bắc và tỉnh bang New Brunswick ở phía Đông-Bắc. Maine nổi tiếng về cảnh vật núi rừng và biển đảo. Lobster (tôm hùm) và Ṣ ở đây hạng nhất.
Maine nổi tiếng với vùng bờ biển lởm chởm nhiều đá, đẹp lắm.
Lúc tới đây vợ chồng tôi đă lấy tàu cruise đi thăm viếng bờ biển này, đẹp tuyệt vời. Bên trong đất liền Maine có nhiều rừng trùng trùng điệp điệp, cảnh vật sông rạch và rừng đẹp lắm, đặc biệt mùa Thu. Maine cũng nổi tiếng nhờ đồ biển ở đây như ṣ và tôm hùm. Đặc biệt khí hậu ở đây là khí hậu đại lục, mùa hè nóng, mùa đông lạnh, dù ở vùng ven biển.
Tới viếng Maine, các bạn nên ăn lobster (tôm hùm) rất ngon, tôm vừa bắt dưới biển đem hấp thật ngọt, mùi vị ngon hơn ăn ở New York nhiều.
Tôm hùm Maine ngon nổi tiếng. Lợi tức trung b́nh tính theo đầu người (per capita income) cũa người dân Bar Harbor trên 24,000 đô la một năm. Lợi tức một ngư dân bắt lobster trên 300,000 đô la một năm, đa số chỉ làm việc từ tháng 4 đến tháng 12, nghỉ 4 tháng.
Con người đă sống ở đây từ mấy ngàn năm trước. Vào thế kỷ 17 khi người Âu Châu đầu tiên đến, họ đă gặp người da đỏ bộ lạc Algonquian đang sống ở đây. Người Pháp đến trước tiên vào năm 1604, định cư ở đảo St Croix. Người Anh đến đây từ năm 1607. Bắt đầu từ năm 1620 nhiều người Anh đă đến đây định cư.
Maine là tiểu bang có nhiều trận đánh và tranh giành trong hai cuộc chiến, thứ nhất là cuộc kháng chiến giành độc lập, và thứ hai là cuộc chiến tranh giành đất đai giữa phe Mỹ và phe Anh (với sự tham gia của thuộc địa Canada của Anh, và các nhóm da đỏ ủng hộ Anh). Cuộc chiến thứ hai này được mệnh danh Cuộc Chiến năm 1812..."
California là tiểu bang ven biển miền Tây Hoa Kỳ. Nó được người Việt Nam ở đông nhất, và được người ḿnh gọi ngắn gọn là bang Cali.
Cali đông người Việt Nam sống nhất thế giới, ngoài nước Việt Nam. Nơi nào có người Việt Nam, nơi đó có Little Saigon. Phố Sài G̣n Nhỏ ở đây rất đặc biệt, cái ǵ Việt Nam ở đây cũng có, vui lắm.
California là tiểu bang đông dân nhất nước Mỹ. Ở Mỹ cứ mỗi 8 người dân có một người sống ở bang Cali nầy. Cứ hai người Mỹ gốc Việt, một hiện đang sống ở tiểu bang này. Chính v́ vậy nhiều người Việt Nam nói, Cali đi dễ khó về. Ở đây cái ǵ cũng có, đặc biệt nhiều t́nh người Việt Nam.
Tổng số dân Cali lên đến 39 triệu người. Cali là bang lớn hạng 3 ở Mỹ sau hai bang Texas và Alaska. Nếu so sánh với Việt Nam Cali ít dân hơn. Tổng số cư dân ở Cali chỉ có 39,536.653 người, trong lúc đó Việt Nam có đến 99.272.793 người.
Việt Nam đông dân, nhưng diện tích nhỏ hơn Cali nhiều. Diện tích Cali là 423,970 cây số vuông (km2), so với Việt Nam 331,230.8 cây số vuông (km2). Về lợi tức, median income của người dân Cali là $63,636 USD một năm, có nghĩa là phân nữa dân Cali kiếm nhiều hơn số này, và phân nữa ít hơn.
Theo Wikipedia tiếng Việt, trên phương diện GDP (PPP) Việt Nam năm 2016 có B́nh quân đầu người là $6.421 USD (hạng 126 trên thế giới), và trên phương diện GDP (danh nghĩa) B́nh quân đầu người năm này là $2.164 USD (hạng 134).
Các bạn thử so sánh GDP per capita của Việt Nam và tiểu bang Cali năm nầy xem sao. Ở Cali b́nh quân đầu người năm nầy khoảng $94,000 cho vùng vịnh San Francisco. Với lợi tức như vậy, mà mấy cô gái ở Sài G̣n ngày nay có người nói, Việt Kiều nghèo hơn Việt Cộng. Có lẽ chỉ nghèo hơn mấy ông lănh tụ tham nhũng của Cộng Sản mà thôi.
Cali có hai vùng đô thị lớn. Vùng đô thị Los Angeles lớn hạng 2 và vùng đô thị San Francisco lớn hạng 5 ở Mỹ. Cali có 8 thành phố trong danh sách 50 thành phố đông dân nhất Hoa Kỳ. Đó là: Los Angeles, San Diego, San Jose, San Francisco, Fresno, Sacramento, Long Beach, và Oakland. Sacramento là thủ phủ của Cali.
Những thành phố sau đây có đông người Việt Nam sanh sống: San Jose có 100,486 người, Milpitas (gần San Jose) có 10,356, Garden Grove (Little Saigon) có 47,331 người, Westminster (Little Saigon) có 36,058, Santa Ana (Little Saigon) có 23,167, Los Angeles (gần Quận Cam tức Little Saigon) có 19,969 người, Anaheim (Quận Cam tức Little Saigon) có 14,706, Fountain Valley (Quận Cam) có 11,431 người, San Diego (cách Little Saigon 2 tiếng lái xe) có 33,149, và San Francisco có 12,871 người.
Quận Los Angeles đông dân nhất trong các quận ở Mỹ. Quận rộng lớn nhất ở Mỹ trên phương diện diện tích là quận San Bernardino. Cali nằm ở miền Tây nước Mỹ, bên bờ biển Thái B́nh Dương. Nó giáp ranh với tiểu bang Oregon ở phía Bắc, Nevada ở phía Đông và tiểu bang Arizona ở phía Đông-Nam. Cali giáp ranh với biên giới Mexico ở phía Nam, và biển Thái B́nh Dương ở phía Tây. Thủ phủ của Cali là thành phố Sacramento ở phía Bắc tiểu bang...
... Cali là một tiểu bang với địa lư đa dạng, từ dăy núi Sierra Nevada ở phía Đông đến bờ biển Thái B́nh Dương ở phía Tây, từ những khu rừng cù tùng (Redwood) ở Tây-Bắc đến sa mạc Mojave ở phía Đông-Nam.
Trung tâm của tiểu bang này là vùng đồng bằng mang tên Central Valley (Đồng bằng trung tâm). Đây là vùng nông nghiệp của Cali.
Cali có núi cao nhất nước Mỹ. Ngọn núi Whitney trong dăy Sierra Nevada cao 4421.0 m (thước). Cali cũng có vùng đất thấp nhất nước Mỹ. Thung lũng Chết (Death Valley) thấp 86 m (thước) dưới mực nước biển.
Cali nằm trên Vành đai lửa Thái B́nh Dương (Pacific Ring of Fire) nên thường xảy ra động đất. Mỗi năm ở đây xảy ra khoảng 37,000 trận động đất được ghi nhận, tuy nhiên v́ động đất nhẹ nên không ai để ư. Một điểm đặc biệt khác của khí hậu ở đây là hạn hán, mùa hè thiếu mưa, nên thường xảy ra cháy rừng.
Thủ đô điện ảnh của Mỹ là Hollywood nằm ở Cali, nên tiểu bang này ảnh hưởng mạnh đến văn hóa b́nh dân toàn cầu. Cali là nơi sanh của phim ảnh, nền văn hóa hippie, Internet và máy vi tính (personal computer)."
Ở Mỹ nơi nào có đông người Việt Nam sanh sống, nơi đó có một phố Sài G̣n Nhỏ với nhiều quán ăn, tiệm tùng và văn pḥng bác sĩ, nha sĩ, tiệm vàng, tiệm bán thực phẩm, dĩa nhạc v.v.
Tuy nhiên khi nói Phố Sài G̣n Nhỏ, mà không nói rơ ở nơi nào, chẳng hạn New York, Houston hay Orlando, người ta nghĩ ngay đến Phố Sài G̣n Nhỏ ở quận Cam.
Đây là "Litttle Saigon" đầu tiên và lớn nhất trong số nhiều "Little Saigon" khác mọc lên như nấm khắp nước Mỹ. Phố Sài G̣n nhỏ ở Quận Cam là khu phố đầu tiên được chánh quyền địa phương chánh thức nh́n nhận là “Little Saigon“.
Ở đây có bảng chỉ đường đến Little Saigon, có trụ bên đường mừng các bạn đến Little Saigon, và có đường Saigon nữa. Đa số người Việt Nam sống ở đây đến từ thành phố Sài G̣n bị Cộng Sản xóa tên, nên cái ǵ ở đây cũng nhắc lại kỷ niệm xưa về Sài G̣n, đặc biệt hơn ở chính thành phố Sài G̣n bên Việt Nam.
Đến đây sống 5 ngày, tôi chỉ nói tiếng Việt, nghe nhạc Việt, ăn cơm Việt, và giao du với người Việt, quên ḿnh là công dân Mỹ đă sống ở Mỹ hơn 43 năm (bây giờ 49).
Ở đây cái ǵ cũng có, đặc biệt có 200 quán ăn Việt Nam, đến đây tha hồ ăn như ở Sài G̣n, hương vị Sài G̣n ngày xưa c̣n đậm đà hơn ở Sài G̣n ngày nay nữa.
Ca sĩ Việt Nam ở đây rất đông. Hầu như tất cả ca sĩ hải ngoại đều sống ở đây. Đi ăn, đi mua sắm, thỉnh thoảng các bạn đụng đầu ca sĩ, vui lắm.
Khi nói về dân số người Việt sống ở khu Little Saigon, người ta thường chia ra các vùng ở đây như vùng Los Angeles, Orange, San Bernardino v.v…
Nếu phân chia theo lối phân định hành chánh của người Mỹ, "Little Saigon" ở Nam Cali không đông bằng San Jose. Nhưng nếu hiểu Little Saigon theo nghĩa rộng là “Greater Little Saigon” (Khu Little Saigon mở rộng) dân số người Việt Nam ở đây lên đến 367,628 người theo thống kê năm 2011.
Pháp đô hộ miền Nam 100 năm, Trung Hoa đô hộ Việt Nam 1,000 năm, nhưng ở hai nước này, không có được một cộng đồng người Việt sống quây quần với nhau đông như vậy.
Sau đây là băng chi tiết dân số người Việt Nam trong khu Little Saigon (Phố Sài G̣n Nhỏ Nam Cali), theo tài liệu thống kê dân số năm 2011.
County VA Population
Los Angeles 85,487
Orange 189,455
San Bernardino 14,097
Riverside 16,026
San Diego 59,824
Ventura 2,739
TOTAL 367,628
Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon) ở Nam Cali rất vui. Đến đó cũng vui như về thăm lại quê hương.
Ở đây cái ǵ cũng có, quán ăn ngon, tiệm vàng nữ trang, tiệm bán quần áo, dĩa nhạc, trái cây Việt Nam, chè, phở, bánh cuốn, bánh xèo. Thức ăn Nam Trung Bắc ǵ ở đây cũng có, đặc biệt lắm.
Những đầu bếp giỏi của thành phố Sài G̣n hoa lệ ngày xưa đều đă qua đây sống, nên thức ăn ở đây có tiếng c̣n ngon hơn ở Sài G̣n ngày nay nhiều, v́ c̣n mang được nhiều bản chất Sài G̣n năm xưa hơn.
Cả một khung trời quá khứ gói ghém trong hương vị những thức ăn bán tại đây. Cái ǵ Việt Nam ở đây cũng có, kể cả bà con gia đ́nh và bạn bè đă từng quen biết ở Sài G̣n ngày xưa. Rất vui và nhiều t́nh người.
Tại sao gọi nơi đây là Little Saigon (Phố Sài G̣n Nhỏ)? Tại v́ người Việt Nam ở đây đa số đến từ thành phố Sài G̣n sau sự kiện năm 1975.
Ở đây có nhiều người Hà Nội, Hải Pḥng và nhiều vùng khác ở miền Bắc và Trung, nhưng họ đă di cư vô Nam sau năm 1954.
Trước khi có bang giao giữa hai nước Việt Nam và Mỹ, Mỹ từ chối không chấp nhận những người tỵ nạn từ miền Bắc đi thẳng đến Mỹ. Mặc dầu vậy tôi vẫn thấy có một vài người tôi quen đi thẳng từ miền Bắc đến đây, chưa bao giờ đặt chân lên đất Sài G̣n. Nhưng họ rất hiếm.
Little Saigon (Phố Sài G̣n Nhỏ) ở nghĩa hẹp có nghĩa là cộng đồng người Việt Nam ở quận Cam (Orange County) bao gồm khu Bolsa, Westminster và Garden Grove. Theo nghĩa nầy Phố Sài G̣n Nhỏ chỉ có 169,182 người. Ở Westminster 37.1% dân số là người Việt, ở Garden Grove có 31.1%. Sau đây là bảng dân số người Việt vùng này lấy từ thống kê dân số năm 2011.
City VA Population
Garden Grove 54,029
Westminster 33,819
Santa Ana 23,215
Fountain Valley 11,289
Irvine 11,024
Anaheim 10,830
Huntington Beach 7,802
Stanton 5,501
Orange 4,768
Tustin 4,600
Costa Mesa 1,268
Cypress 1,037
TOTAL 169,182..."
Florida là một tiểu bang miền Đông-Nam Hoa Kỳ, phía Tây giáp Vịnh Mexico, phía Bắc giáp hai tiểu bang Alabama và Georgia, phía Đông giáp với Đại Tây Dương, và phía Nam giáp với eo biển Florida (Straits of Florida). Ở đây mùa Đông không lạnh nên từ ngày hưu trí năm nào vợ chồng tôi cũng xuống đây trốn lạnh mùa Đông.
Florida 3 mặt giáp biển, hướng Đông giáp Đại Tây Dương, phía Tây giáp Vịnh Mexico, và hướng Nam giáp eo biển Florida. Vùng bờ biển ở đây dài nhất trong các tiểu bang khác của Mỹ, dài khoảng 2,170 cây số (km). Đây là tiểu bang duy nhất hai mặt giáp biển Đại Tây Dương và Vịnh Mexico.
So sánh với các tiểu bang khác của Mỹ, Florida rộng hạng 22, và đông dân hạng 4. Trên phương diện mật độ dân số nó được xếp hạng 8 ở Mỹ. Thủ phủ của nó là Tallahassee, thành phố lớn nhất bang này là Jacksonville, và khu đô thị lớn nhất ở đây là khu đô thị Miami.
Ba nhà văn lớn của Mỹ đă chọn sống ở đây: Marjorie Kinnan Rawlings, Ernest Hemingway và Tennessee Williams. Nhiều nhà giàu Mỹ đă mua nhà nghỉ mát ở đây.
Người Mỹ già thích sống những ngày hưu trí cuối đời ở tiểu bang Florida. Tuy nhiên người Mỹ trẻ, kể cả trẻ con lại thích thăm viếng thành phố Orlando nơi tôi đang sống. Orlando nổi tiếng là thủ đô công viên giải trí, có gần 7 công viên giải trí lớn của thế giới, mỗi năm thu hút 62 triệu du khách đến thăm viếng.
Orlando là thành phố của những người tim không già, "The young at heart", những người tim vẫn c̣n trẻ. Tôi sống ở đây gần ba năm (bây giờ nay.
Tại sao đặt tên Florida cho bang này? Người đầu tiên đặt tên cho vùng đất này là Ponce de León. Ông đến đây năm 1513, thấy bông hoa nở đầy nên đặt tên cho vùng này là “Florida“. Tiếng Tây Ban Nha “Florida” có nghĩa là “Flowery Land“, tiếng Việt là “Vùng Đất Đầy Hoa“. Từ năm 1513 người ta gọi đây là bang Florida.
Trước khi trở thành một tiểu bang Hoa Kỳ, Florida có một lịch sử nhiều sóng gió. Nhiều cường quốc Âu Châu tranh giành vùng đất này. Tây Ban Nha khám phá ra nơi nầy đầu tiên. Nhưng Anh muốn chiếm lại vùng đất này từ tay người Tây Ban Nha. Rồi người Mỹ chống lại người Anh, để giành độc lập. Đây là nơi duy nhất cuộc chiến dai dẳng chống lại người da đỏ Seminoles (Seminoles Wars) đă xảy ra.
Cuộc chiến Seminoles rất ác liệt, xảy ra 3 lần, khốc liệt hơn cuộc chiến Anh-Mỹ năm 1812. Cuộc chiến chống người da đỏ Seminoles xảy ra lần thứ nhất năm 1816-1819, lần thứ nh́ nằm 1835-1842, và lần thứ ba năm 1855-1858.
Khí hậu Florida biến đổi từ cận nhiệt đới ở miền Bắc (Subtropical) đến nhiệt đới ở miền Nam. Nhờ khí hậu nhiệt đới giống như ở Việt Nam, nên nhiều người Việt sống ở đây có trại trái cây và rau cải Việt Nam rất thành công.
Ngày nay Florida sống nhờ du lịch, nông nghiệp và giao thông.
Tiểu bang nầy nổi tiếng có nhiều công viên giải trí, nhiều Vườn cam, và Trung Tâm Không Gian Kennedy tại Cap Canaveral. Ft Lauderdale và Miami là thủ đô du thuyền, nhiều triệu người đến đây lên du thuyền đi thăm viếng vùng biển Caribe.
Thành phố Orlando có nhiều amusement park (Công viên giải trí) nên thu hút rất đông du khách. Với dân số hơn 200,000 người, Orlando thu hút hơn 62 triệu du khách hàng năm.
Với khí hậu ấm áp, vùng Miami (bao gồm Ft Lauderdale, Miami Beach và Miami) thu hút nhiều người già trốn lạnh mùa Đông. Lúc tôi đến đây vào mùa Đông, ở đây có rất nhiều người đến từ Canada, và miền Đông Bắc Hoa Kỳ."
Đối với người gốc Việt, cái ǵ hấp dẫn ở Tampa? Phố Sài G̣n Nhỏ ở đây ra sao? Vợ chồng tôi cùng các con đă thăm viếng nơi này, vui lắm.
Khác với cộng đồng Việt Nam ở Cali, Texas, Washington DC, Phila v.v.., có một Phố Sài G̣n Nhỏ tập trung, ở Tampa và St Petersburg không có một nơi được đặt tên Litttle Saigon. Chỉ có nhiều tiệm Việt Nam mở rải rác trong thành phố mà thôi.
Đến Tampa rong chơi vài ngày, vợ chồng tôi đă thăm viếng nhiều quán ăn và khu chợ Việt Nam ở đây. Rất vui mừng đồng hương càng ngày càng làm ăn khá, đời sống vững vàng hơn..."
"Tampa là một thành phố lớn nằm bên bờ Tây của tiểu bang Florida, bên bờ Vịnh Tampa (Tampa Bay), ngó ra Vịnh Mexico (Gulf of Mexico). Nó là quận ly của quận Hillsborough.
Đây là thành phố lớn nhất vùng Vịnh Tampa. Trước chuyến du hành lịch sử đi Cuba, gia đ́nh tôi tựu hợp về đây rong chơi 2 ngày, rất vui. Chúng tôi đă đi tắm biển Clearwater cát trắng mịn, và thăm viếng nhiều khu Việt Nam ở Tampa và St Petersburg, vui lắm.
Tampa có nhiều quán ăn và tiệm tùng Việt Nam, mặc dầu thua nhiều thành phố khác ở Cali, Texas, New York, và Philadelphia.
Năm 2008 tạp chí Forbes xếp Tampa đứng hạng 5 trong số những thành phố có đời sống ngoài trời tốt nhất.
Năm 2009 trung tâm khảo cứu Pew (Pew Research Center) xếp Tampa hạng 5 trong số những thành phố dân chúng muốn đến sống.
Năm 2012 viện đại học Loughborough xếp Tampa vô danh sách thành phố toàn cầu (Gamma+ world city).
Năm 2015 tạp chí Money xếp Tampa hạng nhất trong số những thành phố đáng sống nhất vùng Đông-Nam nước Mỹ.
Tampa là thành phố trung tâm của khu đô thị Tampa-St Petersbug-Clearwater. Thành phố Tampa có hơn 377,000 dân cư. Gần 3 triệu người sống trong khu đô thị này. Tampa mở rộng (Tampa Greater area) có khoảng 4 triệu dân sanh sống. Khu đô thị Tampa lớn hạng 4 miền Đông-Nam Hoa Kỳ sau Miami, Washington D.C., và Atlanta.
Cái ǵ hấp dẫn du khách đến Tampa? Công viên, băi biển, công viên giải trí, đặc biệt đây là bến đổ của nhiều tàu cruise vùng Vịnh Mexico và biển Caribe.
Tampa có 165 công viên và băi biển. Tampa có nhiều tṛ giải trí và công viên giải trí, nổi tiếng nhất là Busch Gardens Tampa, Adventure Island, Lowry Park Zoo, và Florida Aquarium..."
Tháng 7 năm 1975, hai tháng sau khi đặt chân đến Mỹ, vợ chồng tôi đă mướn nhà sống riêng, bắt đầu cuộc đời độc lập và tự do ở đây.
Tôi đi t́m việc làm, xong vừa làm vừa học, xong làm việc Phố Wall, cần cù làm việc suốt đời. Ngày hưu trí tôi ở không chu du thiên hạ. Con cái của tôi đều sống riêng. 42 năm nh́n lại thấy cuộc đời ở đây hay quá. Giấc mơ Mỹ đă đến với tôi.
Nếu các bạn chỉ nh́n điểm bắt đầu và kết thúc, các bạn thấy tôi sướng quá. Nhưng vấn đề khó là quá tŕnh làm việc và tranh đấu để đạt được ngày hôm nay. Một người nào đó đă nói rất đúng. Đời là một hành tŕnh. Thú vị nằm ở hành tŕnh, ở những việc làm hàng ngày, không phải ở điểm bắt đầu, hay điểm kết thúc.
Lúc ra riêng gia đ́nh tôi nghèo lắm. Tôi đă ra đi với hai bàn tay trắng. Lúc dọn nhà, tôi vẫn chưa có việc làm. Xin việc làm đầu tiên thật gian nan. Đi tới đâu cũng bị chê. Xin việc lao động, cũng bị chê, "Over-educated", ăn học nhiều quá thiếu kinh nghiệm làm việc tay chân. Không dám xin việc văn pḥng, v́ chưa đủ ngôn ngữ, kinh nghiệm.
Tuyệt vọng quá, tôi đi xin "Welfare" và "Food Stamps". Đó là những món tiền cho người nghèo nhất trong xă hội, giúp họ sống qua ngày, chờ lúc có việc (có job). Tuy nhiên khi tôi được chấp nhận những phúc lợi an sinh xă hội này, tôi đă t́m được Job (việc làm). Đó là một việc làm lương tối thiểu, làm nhiều, lương ít, làm việc rất cực khổ.
Tôi làm việc cho một công ty bảo vệ (security guards). Nói cho oai, chớ thật ra chúng tôi đâu có sức bảo vệ ai.
Chỉ mặc đồng phục rất oai vệ, đứng gác hăng bánh, bến tàu, các cao ốc ở đăo Manhattan mà thôi.
Khổ nhất là những lúc đi gác bến tàu. Lúc đó tôi phải làm việc một ngày 12 tiếng. Đi từ New York qua bến tàu ở tiểu bang New Jersey là 2 tiếng. Trở về cũng 2 tiếng. Mỗi ngày tôi chỉ ở nhà có 8 tiếng, để tắm rửa, ăn uống, và ngủ. Lúc tôi đi, ở nhà không có ai, vợ đi làm, con đi học. Lúc tôi về, ai cũng đă ngủ.
Ngồi gác bến tàu, mỗi ngày tôi ngó lưng của bà Nữ Thần Tự Do, nên những lúc chán nản, tôi thường nói Nữ Thần nầy ngó về phía Âu Châu, thiên vị người da trắng, không bao giờ chịu ngó về phía một người Việt Nam xấu số, do t́nh cờ của lịch sử được sanh ra và lớn lên ở Sài G̣n, nên phải đến đây chịu cực khổ như vầy.
(Bây giờ Cộng Sản gọi chúng tôi là khúc ruột ngàn dặm, nhưng lúc mới vô, họ coi chúng tôi như Mỹ-Ngụy, gia đ́nh nào con cái cũng đấu tố cha mẹ, cũng có người đi trại tập trung cải tạo, cũng mất hết tiền xuyên qua các đợt đổi tiền, đánh tư sản).
Hăng tôi làm có nhiều trí thức các nước khác, đặc biệt những nước Đông Âu.
Những lúc chán nản, tôi nói chuyện với họ. Người nào cũng kỷ sư bác sĩ hay giảng sư đại học, cũng như tôi đang vừa làm vừa học lại.
Anh chàng tôi thích nhất đă từng là giảng sư ở Tiệp Khắc, đă đậu bằng PhD Tâm Lư Học. Anh học cao hiểu rộng, lại giỏi về môn tôi từng dạy ở Sài G̣n, nên tâm đầu ư hợp.
Nhờ nói chuyện với họ, tôi mới đủ can đảm mạnh dạn tiếp tục làm việc. Vừa làm vừa học như họ.
Hai năm đầu tiên ở Mỹ, tôi chưa dứt khoác hẳn với quá khứ. Tôi vẫn c̣n luyến tiếc thời dạy học, viết văn, làm sách ở Sài G̣n. Nên tôi đă học hơn 60 credit PhD Triết học ở đại học CUNY.
Ngồi trong cḥi canh ở bến tàu, tôi có nhiều thời giờ đọc sách. Học đại học ở đây đọc sách rất nhiều, nhất là môn Triết Học.
Ngày nay, hơn 38 năm bỏ Triết Học (bây giờ 49 năm), tôi đă quên gần hết những ǵ đă học, chỉ c̣n nhớ ḿnh vất vả với Triết học Mỹ, hoàn toàn chú trọng đến những vấn đề về logic và ngôn ngữ (philosophy of language), tôi chưa bao giờ nghe nói tới ở Sài G̣n..."
Seattle có một cộng đồng Việt Nam khá đông. Theo thống kê dân số năm 2010, thành phố này có 13,252 người Việt sanh sống, đứng hạng 11 trong số những thành phố lớn ở Mỹ có hơn 10,000 người Việt Nam sanh sống. Tiệm tùng người Việt tập trung lẩn quẩn ở đường 12 và đường Jackson, phía Đông của chợ Tàu thành phố..."
Mấy năm trước vợ chồng tôi muốn t́m hiểu nước Mỹ và Canada, nên lấy tour du lịch gọi là “Những Vườn Quốc Gia Tây-Bắc” (Northwest National Parks).
Chúng tôi bay đến thành phố Seattle thuộc tiểu bang Washington, tham quan thành phố này vài ngày, gặp đoàn du khách quốc tế qui tụ về đây, và khởi đầu hành tŕnh chuyến du lịch nầy.
Seattle là một hải cảng lớn hạng 4 vùng Bắc Mỹ, bao gồm Mỹ và Canada, quan trọng trong giao dịch với Thái B́nh Dương, đặc biệt Á Châu.
Đây cũng là cửa ngỏ tàu cruise đi Alaska, mỗi năm gần 900,000 du khách đến đây lên tàu cruise, đông hơn thành phố Vancouver của Canada.
Seattle là thành phố lớn nhất tiểu bang Washington, và vùng Tây-Bắc Thái B́nh Dương của Mỹ.
Dân số thành phố nầy ít hơn Sài G̣n và Hà Nội nhiều, chỉ vào khoảng 713,700 cư dân, theo ước tính dân số năm 2017. Vùng đô thị thành phố nầy đông khoảng 4,160.000 dân.
Tháng 7 năm 2013 Seattle được xếp hạng phát triển mau lẹ nhất ở Mỹ. Năm 2015 nó được xếp hạng 5 thành phố phát triển mau lẹ nhất. Và năm 2106 nó dẫn đầu trở lại, thành phố phát triển mạnh nhất ở Mỹ.
Trước đây thành phố Seattle là thành phố nhiều da trắng ở nhất nước Mỹ.
Theo thống kê dân số năm 1940 ở đây số người da trắng lên đến 96.1%, so với người gốc Á Châu 2.8%. Năm 2010 tỷ lệ da trắng rớt xuống c̣n 69.7%, tỷ lệ dân gốc Á Châu lên đến 13.8%.
Nếu phân chia cộng đồng dân gốc Á Châu, tỷ lệ người Hoa đông nhất khoảng 4.1%, tỷ lệ người gốc Việt được 2.2%, đứng sau người Hoa và người Phi Luật Tân (chiếm 2.6%).
Khắp nước Mỹ hiện tượng người da trắng càng ngày càng ít, so với người di dân các nước khác càng ngày càng đông, làm cho một số người da trắng sợ, muốn chận đứng t́nh trạng này, làm mọi cách để tỷ lệ da trắng càng ngày càng trắng hơn. Vấn đề da trắng da màu ở Mỹ xin bàn cải ở một bài khác, tỉ mỉ hơn.
Seattle là hải cảng quan trọng của Mỹ nằm trên bờ biển Thái B́nh Dương, thuận lợi cho việc giao thương và buôn bán với Á Châu. Đây là hải cảng được xếp hạng 4 vùng Bắc Mỹ trên phương diện số container (thùng đựng hàng) bóc dở ở đây.
Seattle nằm trên một dăy đất hẹp giữa eo biển Puget (thuộc Thái B́nh Dương) và hồ Washington, cách biên giới Canada-Hoa Kỳ khoảng 183 cây số (km). Tên Seattle được lấy từ tên của Tù Truởng Sealth (Chief Sealth) của hai bộ lạc da đỏ đă từng sanh sống ở đây mấy ngàn năm nay, là hai bộ lạc Duwamish và Suquamish.
Seattle là nơi huyền thoại Jimi Hendrix được sanh ra. Đây cũng là nơi yên nghĩ của huyền thoại Bruce Lee và con trai của ông Brandon Lee.
Seattle là nơi đặt trụ sở của nhiều công ty lớn của Mỹ, đáng kể nhất là hăng cà phê Starbucks và hăng máy bay Boeing. Seattle là thành phố có giáo dục nhất nước Mỹ, v́ ở đây 52.5 phần trăm số dân trên 25 tuổi được bằng cử nhân hay cao hơn.
Từ năm 1869 đến năm 1982 Seattle c̣n được biết đến với tên “Queen City” (Nữ Hoàng Phố).
Đó là tên công ty bất động sản “Russell and Ferry” ở Seattle đă gọi thành phố này. Tuy nhiên kể từ năm 1982, Seattle được biệt danh chánh thức là “Emerald City” (Thành Phố Xanh). Màu xanh là màu của cây cối ở vùng này xanh mướt rất đẹp.
Ngoài ra thành phố Seattle c̣n được biết đến với tên “Gateway to Alaska” (Cửa ngơ đi Alaska), “Rain City” (Thành phố nhiều mưa) và “Jet City” (Thành phố máy bay phản lực, ư muốn ám chỉ đây là thành phố nơi Boeing đặt đại bản doanh).
Tại sao cửa ngơ đi Alaska? Tại v́ bến tàu cruise đi Alaska nằm ở đây, các bạn phải tới đây lên tàu đi thăm viếng miền đất lạnh lẽo nầy. Vợ chồng tôi không đi Alaska, nhưng đến đây gia nhập đoàn du lịch quốc tế thăm viếng các Vườn Quốc Gia miền Tây-Bắc Hoa Kỳ và Canada. Mặc dầu đây là thành phố nhiều mưa, nhưng lúc tôi đến đây trời nắng ấm rất dễ chịu và đẹp.
Seattle có một cộng đồng Việt Nam khá đông. Theo thống kê dân số năm 2010, thành phố này có 13,252 người Việt sanh sống, đứng hạng 11 trong số những thành phố lớn ở Mỹ có hơn 10,000 người Việt Nam sanh sống. Tiệm tùng người Việt tập trung lẩn quẩn ở đường 12 và đường Jackson, phía Đông của chợ Tàu thành phố.
Mặc dầu chánh quyền chưa chánh thức nh́n nhận đây là Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon), nhưng hiện nay có một vài bảng tên đường viết Little Saigon.
Người Mỹ gọi khu này là Khu Quốc Tế, International District, hay I.D. Tên chánh thức của khu này là Chinatown-International District, Chợ Tàu-Khu Quốc Tế. Không phải chỉ nước Việt Nam lệ thuộc Tàu mà thôi. Một vài cộng đồng Việt Nam hải ngoại vẫn c̣n yếu, chưa độc lập nổi với Tàu..."
West Palm Beach là một đảo chạy dài dọc theo bờ biển Florida, rất đẹp. Gia đ́nh Kennedy có nhà nghỉ mát ở đây. Nhà cửa ở đây được gọi là mansion, lâu đài, đồ sộ, trong đời phải đến đây một lần xem nhà giàu Mỹ sống mới được.
Vợ chồng tôi chạy xe dọc bờ biển mê qua, muốn ngừng xe chụp một số h́nh, nhưng không có chỗ đậu xe. Đường rất nhỏ. Không biết cố ư hay vô t́nh, những nơi này không có chỗ đậu xe công cộng.
Khi t́m ra được chổ đậu xe, th́ đây là băi biển công cộng, không đẹp bằng khu nhà giàu, nhà cửa như lâu đài, cửa trước là biển, sau nhà là biền, biển sau nhà nhỏ hơn phía trước, ngó thẳng ra biển cả Đại Tây Dương.
Thành phố West Palm rất lớn, dân số trên 107,000 người, 55% là da trắng, da vàng ḿnh chỉ 1.50% mà thôi. Người Việt Nam ḿnh chỉ có vài người tôi biết.
Trong thành phố, có nhiều cao ốc rất đẹp.
Vùng West Palm mỗi năm có tổ chức những đại nhạc hội ở bờ biển tên là SunFest, mỗi lần tổ chức có hơn 270,000 người tham dự, rất vui.
Sau đây là danh sách các ca sĩ nổi tiếng đă tŕnh diễn tại đây: Harry Connick, Live, John Mayer, Jon Secada, Ray Charles, Keb Mo, Lenny Kravitz, Dizzy Gillespie, Bob Dylan, Bonnie Raitt, No Doubt, Kenny G, Earth Wind and Fire, Cyndi Lauper, Rick Braun, Peter White, Noel Lorica, Pink Floyd và The Wailers..
Vùng West Palm này c̣n nhiều tổ chức giải trí khác, như đại hội phim ảnh thế giới (Palm Beach International Film Festival) mỗi năm, thu hút gần 40,000 người, các diễn viên, giám đốc sản xuất, đạo diễn v.v. từ khắp thế giới đến tham dự.
Đối với người b́nh dân du khách như các bạn và tôi, mỗi tuần ở dưới phố tại đường Clementis, có tổ chức lễ hội ca nhạc nhiều tṛ giải trí, gọi là Clementis về đêm (Clementis by night), rất vui.
Cũng tại đường Clementis nầy, mỗi năm, ngày thứ bảy trước lễ Halloween, có tổ chức MoonFest, lễ hội chị hằng, cả khu nhộn nhịp lể hội vui lắm.
Nhớ lúc về thăm quê hương đi Hội An, Việt Nam ḿnh cũng có tổ chức tắt đèn sống lại không khí của thế kỷ 17 ngoài đường toàn lồng đèn, nhà nào đèn điện cũng tắt hết, vui quá..
Các bạn hăy theo dơi loạt bài này, sẽ thấy Miami Beach vui hơn và thơ mộng hơn nhiều, xứng đáng là băi biển hàng đầu của Mỹ và thế giới suốt 100 năm nay.
Tại Miami Beach, vợ chồng tôi ở tại một resort rất đẹp, hiện đoàn phim đài truyền h́nh Fox đang quay thu h́nh loạt phim ngắn trường kỳ sẽ chiếu trong năm tới, The Art of a Genius..."
Người gốc Việt tại Mỹ làm việc cần cù, nhưng lợi tức thấp hơn người Mỹ.
Theo một công tŕnh nghiên cứu năm 2007, khoảng 64.9% người lớn hơn 16 tuổi t́m được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của người Việt Nam khoảng 5.4% so với tỷ lệ của người Mỹ nói chung là 6.3%. Đây là một điểm son của người Việt chúng ta, cần cù và cố gắng làm việc, không chấp nhận sống nhờ phúc lợi xă hội (Welfare). Thu Nhập b́nh quân (Average Income) của người Việt là $22,074 USD mỗi người một năm, tương đối thấp hơn của người Mỹ.
Mặc dầu cần cù làm việc, nhưng lợi tức của người Việt tương đối thấp.
Median Income (Lợi tức điểm giữa) của một gia đ́nh Việt Nam ở Mỹ là $59,831 đô la một năm. Median Income là lợi tức điểm giữa, có nghĩa là phân nửa số gia đ́nh người Việt có lợi tức trên $59,831 USD và phân nửa có lợi tức thấp hơn số này. Số nầy tuong đối thấp hơn xă hội Mỹ nói chung, ở đó Median Income là $61,173 USD.
Theo một nghiên cứu năm 2012, Median Income (Lợi tức điểm giữa) của một gia đ́nh Việt Nam được $55,736 USD. Nếu so sánh gia đ́nh người Việt với gia đ́nh những di dân khác nói chung, chúng ta tương đối khá hơn. Median Income của di dân khác ở Mỹ là $46,983 USD.
Hầu hết người Việt tại Mỹ đă đến đây sau cuộc chiến, với tánh cách tỵ nạn chánh trị.
Đa số họ đă sống dưới chế độ Cộng Sản từ 3 năm trở lên, nên sự ăn học và khả năng chuyên môn sau năm 1975 rất lôi thôi. Do đó có thể nói họ thua di dân các nước khác rất xa trên phương diện học vấn, kiến thức, và tài chánh. Di dân nhiều nước khác tại Mỹ đến đây với nhiều khả năng chuyên môn (bác sĩ, Y tá, chuyên viên Kế toán v.v..), và một số đến đây với nhiều tiền theo dạng kinh doanh (di dân từ Hồng Kông và Đài Loan chẳng hạn).
Mặc dầu điểm khởi đầu thua, người gốc Việt đă chứng tỏ khả năng của ḿnh, trở thành một trong những cộng đồng thiểu số "đi lên" mau nhất từ dưới đáy của xă hội.
Phân tách các dữ kiện thống kê dân số, chúng ta thấy ǵ?
Năm 1989 34% số dân gốc Việt sống dưới mức nghèo (Poverty line). Mười năm sau vào năm 1999, tỷ lệ này chỉ c̣n 16%, so với 12% cho người Mỹ nói chung.
Thống kê cho thấy những người từng bị Cộng Sản kỳ thi và phân biệt đối xử, không được học đại học, không có nghề nghiệp chuyên môn ǵ đáng kể khi tới Mỹ, người Việt đă cố gắng hơn, cần cù hơn, và đi lên mau hơn xă hội Mỹ nói chung.
Sự hội nhập của người Việt vào xă hội, lợi tức và hoạt động kinh tế của họ tùy thuộc vào tầng lớp của họ ở Việt Nam trước khi tới Mỹ.
Nh́n chung, họ thuộc hai tầng lớp, số người có học, và ít học. Năm 1975 phần lớn số người Việt đến đây đều có khả năng chuyên môn. Họ bắt đầu cuộc đời bằng những việc làm chân tay, lao động với lương tối thiểu.
Tuy nhiên sau khi họ học lại hoặc thi lại, bằng cấp được nh́n nhận (hoặc bằng cấp của Mỹ nếu họ học lại môn chuyên môn mới), họ có chứng chỉ hành nghề, họ đă làm giàu mau chóng. Đây là giới thượng lưu của người Việt. Lợi tức của thế hệ nầy khoảng hơn $100,000 USD mỗi năm. Các bác sĩ và nha sĩ thu nhập từ vài trăm ngàn đến cả triệu đô la một năm.
Những đợt tỵ nạn thứ hai và ba, đến đây sau năm 1978, khó khăn hơn. Sống càng lâu với chế độ Cộng Sản, họ càng gặp nhiều khó khăn hội nhập hơn.
Họ đến Mỹ không có học vấn cao, không nghề nghiệp chuyên môn, không biết ǵ nhiều về xă hội Mỹ. Do đó họ chỉ t́m được việc làm chân tay, sống quay quần với người Việt tại các Phố Sài G̣n Nhỏ, khó hội nhập vô xă hội Mỹ rộng lớn.
Nhiều người Việt thế hệ này thường nói họ ra đi là v́ tương lai con cháu. Lời nói này đúng. Thế hệ con cháu của họ được giáo dục đàng hoảng, giỏi tiếng Mỹ, hiểu rơ xă hội Mỹ, nên t́m được việc làm lợi tức cao, hoặc đi làm việc cho các xí nghiệp Mỹ, hoặc phục vụ Cộng Đồng, với tư cách chuyên viên như Kế Toán Viên, Luật sư, Bác sĩ, Nha sĩ, Dược sĩ v.v...
Đa số thế hệ tỵ nạn thứ 2 và 3 đến đây ít học đều mở quán ăn Việt Nam, với những thức ăn thuần túy Việt Nam, hay pha lẫn với một số món Hoa. Họ cũng mở nhiều tiệm tùng ở chợ Tàu. Quan trọng nhất họ học làm móng tay (Nails) và Uốn tóc (Hair), và mở tiệm Nails và Uốn tóc (Nails and Hair salons), hoặc làm việc ăn chia với chủ nhân Việt Nam đến trước họ.
Ở Mỹ người gốc Việt làm bá chủ nghề Nails.
Ở tiểu bang Cali khoảng 80% thợ Nails là người gốc Việt. Trên toàn quốc, số thợ Nails gốc Việt chỉ chiếm 43% thôi. Đây cũng là một con số khá lớn. Nghề Nails và Uốn tóc đ̣i hỏi sự cần cù và khéo tay, nhưng ngược lại không đ̣i hỏi học vấn, hay khả năng ngôn ngữ, rất hợp cho người Việt Nam ḿnh.
Một điểm son của người gốc Việt tại Mỹ là biết chuyển bại thành thắng. Như trên đă nói đợt tỵ nạn thứ 2 và 3 ít học.
Do đó họ mở tiệm Nails và nhiều quán ăn, tiệm tạp hoá và thực phẩm, những tiệm phục vụ như sửa máy, sửa xe, bán băng nhạc v.v.. Theo thống kê trong khoảng thời gian 8 năm từ năm 1997 đến năm 2002 số tiệm của người gốc Việt tăng lên 50%.
Với hoạt động kinh doanh thành công này, người gốc Việt đă biến những khu hoang tàn và xuống dốc của xă hội Mỹ thành những Phố Sài G̣n Nhỏ mọc lên như nấm khắp nước Mỹ, thu hút du khách đến tham quan.
Đặc biệt người Việt Nam các nước khác thường đến Mỹ du lịch cũng ghé thăm Phố Sài G̣n Nhỏ (Little Saigon) ở đây. Nhờ đến đây thăm viếng, người Việt ở Canada và Anh đă rút kinh nghiệm về nước học và mở nhiều tiệm Nails và Uốn Tóc ở nước họ định cư.
Một thiểu số người gốc Việt định cư ở vùng Vịnh Mexico đă sống nhờ nghề đánh cá và bắt tôm. Các tiểu bang vùng Vịnh có nhiều người Việt sanh sống là Louisiana, Texas, Mississippi và Alabama. Người Việt ở đây chiếm khoảng từ 45 đến 85% nghề cá và tôm.
Tuy nhiên họ bị tôm rẻ của Việt Nam cạnh tranh, nên chịu ảnh hưởng nặng. Bảo Katrina đă tàn phá nghề này. Sau cơn bảo nhiều người sạt nghiệp và bỏ nghề..."
Tiểu bang Washington:
Mấy năm trước vợ chồng tôi bay đến thành phố Seattle, từ đó đi bus từ vùng bờ biển Thái B́nh Dương phía Tây, đến tận biên giới Washington-Idaho ở phía Đông, hay lắm.
Washington là một tiểu bang thuộc vùng Tây-Bắc Thái B́nh Dương (Pacfic NorthWest) của Hoa Kỳ. Thủ phủ của bang này là Olympia, và thành phố lớn nhất và đông dân nhất là Seattle. Đây là tiểu bang duy nhất ở Mỹ mang tên vị Tổng Thống đầu tiên của Mỹ.
Gần 60% dân cư tiểu bang này sống trong khu đô thị Seattle. Đi sâu vô đất liền từ phía Tây đến Đông, lúc ban đầu cây cối rừng núi xanh um, v́ có nhiều mưa, đi càng về phía Đông, cây cối càng ngày càng ít, phía Đông tiểu bang này khô cằn hơn phía Tây.
Diện tích tiểu bang này là 184,827 km2 (cây số vuông). Dân số là 7,170,351 người, theo dữ liệu năm 2015. Lợi tức điểm giữa của một gia đ́nh sống ở đây (Median Household Income) là $58,078 đô la một năm, đứng hạng 11 ở Mỹ.
Vợ chồng tôi bay qua Seattle gia nhập đoàn du lịch quốc tế ở đây, cùng nhau thăm viếng tiểu bang này, và nhiều tiểu bang miền Tây-Bắc Hoa Kỳ khác như Idaho và Montana, cùng tham quan nhiều Vườn Quốc Gia vùng núi Rocky (Rặng Thạch Sơn) của Mỹ và Canada, cảnh vật đẹp tuyệt vời.
Tiểu bang Washington giáp ranh với bang Oregon ở phía Nam, Idaho ở phía Đông, tỉnh British Columbia của Canada ở phía Bắc, và giáp ranh với biển Thái B́nh Dương ở phía Tây.
Đây là tiểu bang thứ 42 đă gia nhập Hiệp (Hợp) Chủng Quốc Hoa Kỳ vào năm 1889.
Đất của tiểu bang trước đó thuộc Lănh Thổ Washington (Washington Territory), nước Anh đă nhường lại cho Mỹ xuyên qua hiệp định Oregon.
Lănh thổ Oregon Anh nhường lại rất lớn, bao gồm nhiều tiểu bang ngày nay của Mỹ, là Washington, Oregon, Idaho, Montana và Wyoming.
Để khỏi nhầm lẫn giữa tiểu bang Washington và thủ đô Washington của nước Mỹ, người ta thường nói thêm Tiểu bang Washington để ám chỉ tiểu bang, và Washington D.C. để ám chỉ thủ đô. D. C. có nghĩa là District of Columbia, ư muốn nói thành phố Washington ở vùng Columbia.
Tiểu bang Washington cũng có vùng đất sông Columbia chảy ngang, nhưng đây chỉ là một quận của tiểu bang. District of Columbia là vùng đất Columbia ở thủ đô nước Mỹ.
Tiểu bang Washington rộng lớn hạng 18 và đông dân hạng 13 ở Mỹ. Hơn 60% dân cư bang nầy sống lẩn quẩn khu đô thị Seattle. Đây là một trung tâm giao thông, thương mại và kỹ nghệ nằm trong Vịnh Puget của biển Salish, thuộc vùng bờ biển Thái B́nh Dương.
Đi từ miền Tây hướng về phía Đông và Nam, tiểu bang này có nhiều rừng, dăy núi, và đồng bằng trồng trọt, đẹp lắm. Ngồi xe bus đi từ Seattle về hướng tiểu bang Idaho, ngắm nh́n cảnh vật đồi núi tuyệt đẹp. Đây là tiểu bang đông dân hạng nh́ vùng bờ biển miền Tây Hoa Kỳ, sau bang California.
Tiểu bang Washington dẫn đầu nước Mỹ về gỗ. Ở đây có nhiều rừng bát ngát, nên kỹ nghệ đốn rừng lấy gỗ phát triển mạnh nhất. Ngoài ra ở đây đất đai ph́ nhiêu, nên nông nghiệp và trồng trọt phát triển mạnh. Tiểu bang này có nhiều táo (apple), lê (pear), trái mơ (apricot), anh đào (cherries), raspberries v.v...
Khi du lịch xuyên tiểu bang, vợ chồng tôi dừng chân thăm viếng một trại trồng anh đào (cherries) ở đây, ngon và ngọt không thể tưởng. Ngoài ra ở đây người ta cũng sống nhờ chăn nuôi, đặc biệt nuôi gà, và câu cá như cá hồi (salmon) cá halibut và nhiều loài cá khác.
“Năm 2004: tổng sản phẩm của tiểu bang là 262 tỷ đô la, thu nhập đầu người là 33.332 đô la. Buôn bán thương mại trong tiểu bang phải kể đến là: Boeing, Microsoft, Amazon.com, Nintendo, điện tử, công nghệ sinh học, nhôm, gỗ, than đá và du lịch.” (Wikipedia)..."
Xă hội Mỹ khác với xă hội Cộng Sản.
Trước khi Cộng Sản giải phóng (chiếm) Sài G̣n, nhà nào ở đây cũng có tiền. Năm 1975 Cộng Sản vô, đấu tố, đổi tiền, đánh tư sản, chiếm tài sản nhân dân ở đây, ai cũng nghèo, ăn bo bo mà sống.
Ngày nay thời đổi mới, chỉ người Cộng Sản mới được quyền nắm giữ chức vụ chỉ huy, có quyền, và có tiền.
Xă hội Mỹ tạo cơ hội đồng đều cho dân chúng. Xă hội Cộng Sản có lợi cho đảng viên Cộng Sản, gia đ́nh họ, và nhóm bạn bè quen biết và làm ăn với họ. Họ nắm hết quyền, và nhờ có quyền họ nắm hết tiền.
Trong hơn 2 tháng sống với Host, tôi học được nhiều kỹ năng sống, để có thể ra riêng sống cuộc đời độc lập.
Tôi hiểu tiếng Mỹ nhiều hơn, nói nhiều hơn. Tôi hiểu nhiều hơn cách cư xử ở Mỹ, phép lịch sử tối thiểu để sống chung với nhau.
Tôi biết ăn “hot dog” và “hamburger”, là hai thức ăn phổ biến, ở đâu cũng có bán. Tôi biết cách mua vé xe lửa, xe subway v.v... Tôi biết xếp hàng đứng chờ tới phiên ḿnh, biết nhường nhịn người già, người tật nguyền v.v…
Văn hóa của Mỹ khác với văn hóa Việt Nam hay Trung Quốc. Vừa rồi tôi mổ cột sống, phải cầm gậy mà đi. Tới cửa, người Mỹ mở cửa nhường tôi đi trước. Một vài người có lẽ du khách từ Trung Quốc tới, chen lấn với tôi. Đó là sự khác biệt lớn lao về văn hóa của người dân Mỹ, và dân nước khác.
Người Mỹ không xả rác ngoài đường. Người Trung Quốc đến đây du lịch xả rác tùm lum, dơ dáy.
Đi xem hoa, người Mỹ tôn trọng bông hoa, chỉ ngắm vẻ đẹp của hoa. Người Trung Quốc bẻ hoa, chà đạp lên hoa mà đi. Hai nền văn hóa Mỹ và Trung Quốc rất khác biệt. Nhờ sống chung với gia đ́nh Host 2 tháng, chúng tôi sẵn sàng hơn trên con đường sống trên đất Mỹ.
Và chúng tôi dọn nhà về thành phố New York, để bắt đầu cuộc sống ở đây 42 năm nay (bây giờ 49 năm).
Nói theo kiểu Kim Dung, chúng tôi đă được các Sư Phụ truyền dạy Cửu Âm Chân Kinh. Và bây giờ đă tới lúc chúng tôi xuống núi, hành hiệp giang hồ, tranh giành một địa vị khả quan trên đất Mỹ.
Nói đúng hơn, định nghĩa cho thế giới biết thế nào là một người Mỹ gốc Việt.
Chúng tôi là thế hệ đầu tiên đến đây. Chúng tôi có bổn phận sống ra hồn, cho thế giới nể phục chúng ta.
New York là một thế giới thu nhỏ, di dân tứ xứ đến đây sanh sống. Như lời trong một bài ca về New York, nếu các bạn thành công ở đây, các bạn có thể sống được bất cứ đâu trên đất Mỹ..."
Đại lộ Hollywood là con đường chánh của khu điện ảnh Hollywood. Con đường này và khu Hollywood bao quanh được thế giới biết đến như là thủ đô điện ảnh của nước Mỹ, và thế giới.
Hiện nay nhiều dịch vụ và cơ sở điện ảnh đă di chuyển qua những khu vực gần đó như Burbank và Westside. Mặc dầu vậy một số dịch vụ vẫn c̣n ở lại khu Hollywood nầy, như biên tập, kỹ xảo, ánh sáng và hậu sản xuất.
Đại lộ Hollywood ngày nay là một khu phố du lịch, du khách đến đây đông không thể tưởng.
Ai cũng muốn đến đây chụp một số h́nh rạp hát “Grauman’s Chinese Theater“. Rạp hát này là nơi tổ chức lễ trao giải thưởng điện ảnh Oscar trước đây.
Trước sân rạp hát này có dấu vết bàn tay, chữ kư hoặc vết chân của những ngôi sao quan trọng của nền điện ảnh Hollywood như Clark Gable, Marilyn Monroe v.v…
Các bạn có biết tại sao khu nầy tên Hollywood không?
Theo nhật kư của H. J. Whitley, người Cha Già Hollywood, đă xây dựng khu này, lúc ông đứng trên đồi cao nh́n về thung lũng phía dưới, có một anh chàng người Hoa đi tới. Ông hỏi anh đi đâu? Người Hoa này trả lời bằng tiếng Mỹ ba xí ba tú đại khái “I hollywood”, có nghĩa là “hauling wood”, là đi chở cây (gổ).
Ông mua mảnh đất rộng 480 mẫu Anh ở đây. Sau này ông bán lại cho gia đ́nh Wilcox 120 mẫu Anh vào tháng 2 năm 1887. Tháng 8 năm đó chính Wilcox là người đầu tiên chánh thức gọi vùng này là Hollywood trong chứng từ mua đất và xây dựng vùng này.
Một điểm du lịch quan trọng của đại lộ này là con đường danh vọng “Walk Of Fame“, ghi dấu tất cả ngôi sao sáng của Hollywood.
Trên đại lộ danh vọng này, nhiều người hơi giống các ngôi sao như Marilyn Monroe, Spiderman, Superman v.v… đang mặc quần áo và cải trang rất giống họ đang đứng chụp h́nh với du khách.
Nếu các bạn muốn chụp h́nh với các ngôi sao giả này đề kỷ niệm chuyến viếng thăm Hollywood, các bạn chỉ cần “tip” cho họ một đô la là đủ. Nhiều du khách thích chụp h́nh với ngôi sao ḿnh ngưỡng mộ.
Một điểm du lịch khác là rạp hát Kodak nơi tổ chức lễ trao giải thưởng Oscar hàng năm.
Ngoài những nơi du khách thich chụp h́nh, đại lộ này rất vui với nhiều quán ăn, tiệm tùng, và tṛ giải trí khác, như Bảo tàng xáp (Wax Museum) của Madame Tussaud, bảo tàng lịch sử của Hollywood, những tṛ giải trí khác như “Ripley’s Believe It Or Not“, “The Guinness World Records Exhibition” (Triển lăm những kỷ lục thế giới được ghi trong sách Guinness) v.v…"
Có thể bạn không quan tâm tới nước Mỹ, coi người Mỹ như kẻ thù, th́ Mỹ vẫn ảnh hưởng chi phối rất nhiều đến mọi sinh hoạt b́nh thường của bạn đấy.
Câu thơ vui của dân mạng nói rằng:
"Cái ǵ không biết th́ tra Google"; mà Google là một phát minh vĩ đại của Mỹ.
Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đă có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford, California. Mỹ.
Mạng internet bạn đang dùng hiện nay cũng là một phát minh của Mỹ. Internet khởi nguyên từ năm 1960 bởi quân đội Mỹ.
Họ giữ kín dùng riêng suốt 20 năm, măi đến những năm 1980 th́ bắt đầu thương mại hóa và 1990 trở đi th́ bắt đầu phủ kín toàn cầu.
Mỗi ngày bạn nhận và gửi email cho người khác.
Trời ơi… lại đụng tới Mỹ luôn.
Email được phát minh ra từ năm 1971 bởi lập tŕnh viên Ray Tomlinson của Bộ Quốc pḥng Mỹ nhằm giúp nhân viên trong cơ quan trao đổi thông qua một mạng lưới liên kết thay cho việc trực tiếp cầm thư từ văn bản "giao tận nơi".
Đang đi đường mà thấy đèn xanh đèn đỏ là của Mỹ đó. Đây là phát minh được tạo ra vào năm 1912 của người Mỹ nhằm giúp giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông cũng như nạn ùn tắc xe cộ.
Nóng quá bật máy lạnh lên cái nào. Chiếc máy điều ḥa nhiệt độ đầu tiên được chế tạo bởi kỹ sư người Mỹ Willis H. Carrier vào năm 1902.
Về nhà bật ḷ vi sóng lên để hâm đồ ăn. Thôi rồi cũng lại gặp Mỹ. Năm 1945, kỹ sư Percy Spencer đă chế tạo ra một thiết bị phát cao tần cho radar cho công ty Raytheon, nhằm giúp radar nhạy hơn qua các bước sóng khác nhau. Cuối cùng ông vô t́nh nhận ra thanh chocolate bị biến dạng và nấu chảy khi được đặt bên trong thứ mà sau này chúng ta gọi là ḷ vi sóng.
Nếu trên tay của bạn đang dùng iPhone th́ cũng là của Mỹ. Chiếc Smartphone đầu tiên được hăng IBM chế tạo năm 1992 với tên Simon Personal Communicator.
Chiếc điện thoại di động cầm tay đầu tiên trên thế giới là chiếc Motorola DynaTAC 800x được chế tạo năm 1983 tại Mỹ. 15 năm sau, iPhone mới ra đời ở Mỹ.
Nếu bạn không dùng iPhone v́ nó là của Mỹ mà chuyển qua dùng Samsung của Hàn Quốc... nhưng cách này cũng không thoát Mỹ được v́ Samsung phải sử dụng hệ điều hành Android của Mỹ đó. Android là một hệ điều hành dựa trên nền tảng Linux thiết kế dành cho các thiết bị di động có màn h́nh cảm ứng như điện thoại thông minh và máy tính bảng. Ban đầu, Android được phát triển bởi Android Inc một công ty của Mỹ với sự hỗ trợ tài chính từ công ty lớn khác của Mỹ là Google và sau này Android Inc được chính Google mua lại vào năm 2005. Chiếc điện thoại đầu tiên chạy Android được bán vào năm 2008 tại Mỹ.
Các kênh truyền h́nh và TV màu bạn đang xem là phát minh của người Mỹ à nha. Hệ thống truyền h́nh màu đầu tiên thiết kế bởi công ty Radio Corporation of America bắt đầu phát sóng ngày 17.12.1953.
Chiếc TV màu đầu tiên cũng được chế tạo bởi hăng này được xuất ra thị trường năm 1954 tại Mỹ.
Bạn giải trí bằng cách xem video nghe nhạc trên nền tảng Youtube cũng là của Mỹ luôn nè…
Soạn thảo văn bản bằng Word, Excel, tŕnh chiếu Power Point trong bộ Microsoft Office cũng là của Mỹ đó nha.
Đi đường bị lạc bấm Google Maps lên cũng là đang dùng sản phẩm người của Mỹ luôn.
Các bộ phim, video bạn đang xem đa số đều dùng phần mềm Adobe Premiere của Mỹ để dựng… à nha
Photoshop để chỉnh sửa ảnh cũng của Mỹ luôn đó nghe.
Bất kể chiếc máy tính bạn dùng nhăn hiệu ǵ, sản xuất ở đâu th́ "bộ năo" CPU của nó chỉ có thể là sản phẩm của Intel hoặc AMD, hai hăng điện tử của Mỹ. Nếu không có nó th́ bó tay.
Bạn đi máy bay là nhờ phát minh của ngườ Mỹ. Vào năm 1903 hai anh em nhà Wright sống tại Dayton, bang Ohio, Mỹ đă làm thay đổi lịch sử thế giới bằng sự phát minh ra chiếc máy bay đầu tiên.
Đèn điện mà bạn đang thắp là phát minh của ông Thomas Edison một người Mỹ. Chính phát minh này đă mang lại ánh sáng và sự văn minh cho cả thế giới loài người, đồng thời đă khai sinh cho ngành công nghiệp điện của thế giới.
Kể chừng đó thôi... vẫn c̣n rất nhiều cái của Mỹ nữa.
Nga là dân tộc cũng vĩ đại lắm chứ. Nhưng bạn thử thống kê xem Nga đă cống hiến cho nhân loại những phát minh nào.
Trung Quốc là đất nước vĩ đại. Điều này không ai căi. Nhưng để nền kinh tế Trung Quốc phát triển vượt bậc như ngày nay th́ người Tàu cực giỏi trong việc đi chôm phát minh và sản phẩm của các quốc gia khác. Không tin, bạn cứ thử liệt kê mà xem. Bạn nên phân biệt 2 khái niệm phát minh và phát triển nhé.
"Các bạn trẻ muốn tới Mỹ học hoặc làm việc, các bạn có biết ưu điểm và điểm yếu của người Mỹ gốc Việt là ǵ không?
Ưu điểm của chúng ta là cần cù, cố gắng làm việc, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết ḿnh, không so đo, cải cọ hay bực bội với sếp hay đồng nghiệp.
Ưu điểm của người Mỹ gốc Việt thế hệ tôi ra đi năm 1975, là chúng tôi đă có sẵn một mớ kiến thức đại học, nên dễ dàng học lại ở Mỹ. Học xong MBA, tôi c̣n học thêm nhiều "Advanced Certificate" về Tài Chánh (Finance), và Business Economics (kinh tế học áp dụng trong quản trị xí nghiệp) v.v.., nên khả năng chuyên môn được quí trọng ở Phố Wall lúc đó.
Yếu điểm của chúng ta là khả năng ngôn ngữ. Chúng ta diễn đạt dở hơn người Mỹ được sanh ở Mỹ. Chúng ta không ḥa đồng dễ dàng với người khác, như đám con cháu chúng ta được sanh ra và lớn lên ở Mỹ.
Biết được ưu và khuyết điểm nầy, nên nhiều người Việt thế hệ già như chúng tôi cố gắng học những chuyên môn không đ̣i hỏi khả năng giao tiếp nhiều.
Nói dễ hiểu tôi để người Mỹ trắng làm xếp, ăn nói, chỉ huy. Tôi là chuyên viên quan trọng trong nhóm. Tôi là người làm việc. Những việc ǵ khó cũng cần ư kiến của tôi, cần tôi làm.
Nhờ biết người biết ta, tôi sống sót mấy chục năm ở Phố Wall, cho đến ngày về hưu.
Ở Mỹ nếu các bạn t́m được việc làm đúng khả năng, lương bổng ở đây thoải mái lắm.
Làm việc ở Phố Wall vài năm, lần vui nhất là tôi được hăng Consultant (Cố vấn, chuyên viên) nơi tôi làm việc thưởng một chuyến du lịch Âu Châu cho vợ chồng. Lúc đó họ nói là tặng chúng tôi "A trip for two" (Một chuyến du hành cho 2 người), hay lắm.
Từ đó cuộc đời tôi đă đổi khác. Thú vui du lịch, đi, thấy, và hiểu thế giới bao la ngoài Việt Nam và Mỹ, bắt đầu nảy nở từ chuyến đi này. Từ Mỹ tôi bay qua London thăm viếng thành phố này, sau đó đi Pháp, Bỉ, Tây Đức, Áo, Ư Đại Lợi, và Paris, sau đó bay trở về Mỹ. Thật là một chuyến du hành mở mang kiến thức về thế giới.
Bây giờ nghĩ lại tôi thấy nước Mỹ không phải thiên đàng, nhưng cũng không phải địa ngục.
Nước Mỹ hay nhất thế giới ở chỗ chấp nhận những người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù. Đặc biệt họ đăi ngộ những chuyên viên, giúp đất nước nầy khá hơn.
Các bạn nghe nói nhiều về một vài người Việt Nam thành công ở Mỹ, giàu có, tiếng tăm, quyền lực. Tôi chỉ là một người Mỹ trung b́nh, không quyền lực, không tiếng tăm, không giàu có.
Nhưng tôi cũng sống được không khí tự do như mọi người. Đó là điểm son của xă hội Mỹ..."
(Trích sách "42 năm sống ở Mỹ: Được ǵ, Mất ǵ?" của Lê Thanh Hoàng Dân, đă phát hành, có bán trên Amazon và BookBaby).
Người Việt ở Pháp.
Hiện có khoảng 300,000 người gốc Việt sanh sống ở Pháp. Đây là cộng đồng gốc Việt đông hạng nh́ trên thế giới, sau Mỹ (2 triệu), đồng hạng với Úc (300,000) và hơn Canada (250,000).
Đa số người Việt Nam đă đến đây sau sự kiện năm 1975. Tuy nhiên, khác với các Cộng Đồng Việt Nam ở Mỹ, Canada, và Úc, người Việt đă định cư ở đây từ những năm 1850. Lúc đó Pháp đă chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Tuy nhiên đợt người Việt Nam đến Pháp đông nhất là sau năm 1975.
Chỉ riêng 4 năm sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Pháp đă giúp 51,515 người Việt định cư ở đây. Từ khoảng thời gian 1975-1989, Pháp đă đón nhận khoảng 150,000 người ty nạn.
Ngày nay khoảng 80% người Pháp gốc Việt là dân ty nạn chánh trị, đă bỏ nước ra đi sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam, và đổi tên thành phố Sài G̣n thành Hồ Chí Minh.
Người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất Pháp là Hoàng Từ Nguyễn Phước Cảnh. Ông đă tới đây vào cuối thế kỷ 18. Ông theo Giám Mục Bá Đa Lộc cầm đầu một phái đoàn sang Pháp cầu viện. Ông chỉ ở lại Pháp vài năm.
Hơn 100 năm sau khi Phái đoàn của Phan Thanh Giản đến Pháp vào năm 1863 để xin chuộc lại Nam Kỳ, ông đă ghi nhận sự hiện diện của một số người Việt định cư ở đây. Số nầy đếm được trên đầu ngón tay.
Người Việt đến Pháp đông đảo vào đầu thế kỷ 20. Lúc đó do nhu cầu chiến tranh (Đệ Nhất Thế Chiến) dân Pháp phải ra mặt trận đánh giặc, Pháp đă tuyển một số lính từ thuộc địa Đông Dương, nhờ đó một số người Việt Nam đă đến đây.
Hậu phương nước Pháp lúc đó cần thợ, nhờ đó người Việt lại đến Pháp làm thợ. Sau chiến tranh khoảng 3,000 người lính và thợ Việt Nam này đă quyết định ở lại Pháp thay v́ về nước. Thời đệ nhị thế chiến cũng vậy.
Suốt thời thuộc địa, người Việt Nam đến đây học, và nhiều du học sinh, lính và thợ gốc Việt đă lựa chọn ở lại và sống vĩnh viễn ở đây, thay v́ về nước.
Sau hiệp định Geneve, nước Việt Nam độc lập, nhiều người Việt dân Pháp đă lựa chọn về Pháp sống, thay v́ sống ở Việt Nam. Và trong suốt hai chục năm nội chiến Nam-Bắc, nhiều sinh viên Việt Nam đă qua Pháp du học, và chọn ở lại thay v́ về nước.
Tuy nhiên đa số người Việt Nam ở Pháp hiện nay đă đến đây từ sau năm 1975, trong phong trào bỏ nước ra đi sau khi Cộng Sản chiếm Sài G̣n bằng vỏ lực, và thiết lập chế độ vô sản chuyên chế theo mô h́nh Cộng Sản Nga-Tàu.
Đa số người Pháp gốc Việt hiện đang sanh sống ở thủ đô Paris, và một vài thành phố lớn khác như Marseille, Lyon và Toulouse. Trước năm 1975, có một số người gốc Việt đă định cư ở những thành phố Bordeaux và Lille.
Người Pháp rất hănh diện với cộng đông người Việt ở đây. Theo họ người Việt ở Pháp là một cộng đồng thiểu số gương mẫu, hơn tất cả những cộng đồng thiểu số khác.
Ở đây dân Việt Nam ḿnh cố gắng ăn học, nên nhiều người đă nổi tiếng là chuyên viên ở nước này. Nếu tính tới trước năm 1975 thôi, đây là cộng đồng Việt Nam học giỏi nhất, và đào tạo nhiều trí thức đáng nể nhất.
Mặc dầu đa số người Việt ở Pháp tới đây sau năm 1975, do đó chống Cộng mạnh mẽ, ở Pháp có một cộng đồng người Việt theo Cộng Sản.
Do đó đây là một trong một vài nước trên thế giới, cộng đồng người Việt chia rẽ nhất, hai cộng đồng không liên lạc và nói chuyện với nhau, 40 năm sau cuộc chiến (bây giờ 49 năm), hiện tượng này vẫn c̣n.
Phe Thân Cộng là ai? Họ thuộc nhóm người Việt Nam đă đến Pháp từ trước năm 1975, và con cái của họ.
Họ có việc làm ổn định, có học vấn cao, nên được quan niệm là thành phần ưu tú của cộng đồng người Việt ở Pháp trước đây. Họ theo Hà Nội, và ủng hộ lập trường chánh trị của Hà Nội. Họ nằm dưới sự lănh đạo của Hội Người Việt Nam tại Pháp (UGVF, Union General des Vietnamiens de France). Nhiều thành viên của UGVF cũng là đảng viên của đảng Cộng Sản Pháp.
Sau năm 1975, những trí thức trong hội này xung phong về giúp quê hương, nhưng bị chế độ Cộng Sản ngược đăi và nghi kỵ. Mặc dầu vậy họ cũng không chống Cộng.
Hội nầy hiện đang thành lập nhiều hội đoàn khác, để t́m cách dấu diếm thân phận theo Công Sản của họ, hầu mập mờ lôi kéo người Việt chống Cộng theo họ.
Âm mưu này chưa thành công. Thế hệ Trẻ trong UGVF hiện đang ngấm ngầm chống đối lại thế hệ già, đă quá lệ thuộc vào Hà Nội, và thiếu khách quan.
Phe chống Cộng là ai? Họ là những người Việt Nam đă bỏ nước ra đi sau sự kiện năm 1975.
Họ không được Sứ Quán Việt Nam giúp đỡ như nhóm UGVF. Trước năm 1975 nhóm chống Cộng rất yếu. Sau năm 1975, nhóm này đông, mạnh hơn, nhưng vẫn chưa thống nhất dưới sự lănh đạo của một Hội như UGVF.
Mặc dầu vậy, mỗi lần có tổ chức chống Cộng, các hội hè này lại đoàn kết với nhau, tạo sức ép dư luận quan trọng chống Cộng Sản Việt Nam. Theo Wikipedia, hầu hết các thành viên Hội Hướng Đạo Việt Nam tại Pháp, và các tổ chức Công Giáo đều chống Cộng..."
Người Việt ở Úc Đại Lợi (Australia)
Cộng đồng người gốc Việt ở Úc đông hạng nh́ trên thế giới sau Mỹ (2 triệu), đồng hạng với Pháp (300,000), và trên Canada (250,000). Đa số đă đến đây sau sự kiện ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Đây là một trong những Cộng đồng Việt Nam chống Cộng mạnh nhất thế giới.
Theo ước lượng của Bộ Ngoại Giao số dân gốc Việt ở đây lên đến 300,000 người. Theo Wikipedia tiếng Mỹ, số này là 221,114 người tính đến năm 2011.
Đa số người Úc gốc Việt sống quây quần ở hai tiểu bang New South Wales (63,788 người hay 39.9% dân số), và Victoria (58.878 người hay 36.8% dân số).
Tại thành phố Melbourne, thủ đô của tiểu bang Victoria, người Việt Nam sống tập trung ở những vùng ngoại ô Richmond, Footscray, Springvale, Sunshine và St Albans.
Nếu các bạn đến Melbourne mở cuốn điện thoại niên giám ở đây, các bạn sẽ thấy họ Nguyễn nhiều hạng nh́ trong sách này, sau tên Smith của người Anh, đủ cho thấy sức mạnh của người Việt ở đây, so với nhiều chủng tộc khác.
Tại thành phố Sydney thủ đô của tiểu bang New South Wales, người Việt Nam sống tập trung ở những vùng ngoại ô Bankstown, Cabramatta, Canley Vale, và Fairfield.
Nhiều người nói khu Việt Nam ở Cabramatta là Saigonmatta, hay Phố Sài G̣n Nhỏ, không biết đúng không.
Cộng đồng người Việt ở Úc có nhiều người thành công rực rỡ.
Điều đáng hănh diện là thế hệ Trẻ đến đây vào năm 1975, hoặc thế hệ được sanh ra ở đây có nhiều người học rất giỏi, tỷ lệ tốt nghiệp đại học khá cao.
Mặc dầu vậy, cũng có một thiểu số người Việt Nam thiếu may mắn, học không được, nên sanh ra thất nghiệp, bán x́ ke ma túy, gây tiếng xấu cho cộng đồng. Số này rất ít.
Thập niên 1990, ở Cabramatta, ngoại ô Sydney, nơi khoảng 40,000 người Việt Nam sanh sống, một số thanh niên thuộc các băng đảng Việt Nam đă bán ma túy. Lúc đó Cộng Đồng người Việt ở đây bị mang tiếng là "Cộng Đồng Ma Tuư".
Đêm đêm các băng đảng thanh thiếu niên tựu hợp lại ở nhà ga xe lửa ở đây để bán x́ ke. Tuy nhiên tệ nạn này đă bị dẹp bỏ. Ngày nay Cộng Đồng Việt Nam ở đây rất vui. Người Việt ở đây đă biến khu này thành một khu buôn bán trù phú. Mừng cho người Việt Nam ở Úc.
Theo Wikipedia người Việt Nam thích đến Úc sanh sống và lập nghiệp. Ngược lại rất ít dân Úc gốc Việt chịu trở về sống ở Việt Nam.
Hiện nay có 3,950 công dân Úc sống ở Việt Nam, 3,000 trong số này đang sống ở miền Nam Việt Nam. Trong số này không biết chắc chắn bao nhiêu là Việt Kiều trở về, bao nhiêu là dân Úc thuộc các chủng tộc khác.
Tuy nhiên nếu Việt Kiều Úc trở về với con số vài ngàn đi nữa, th́ đó cũng không phải là con số đáng kể, so với cộng đồng người Úc gốc Việt khoảng 300,000 người.
Người Việt ở Úc theo đạo ǵ? Theo kết quả thống kê năm 2004, 30.3% người Việt ở đây theo đạo Công Giáo (Catholic), 0.4% theo đạo Tin Lành (Anglican), 3.1% theo Cơ Đốc Giáo (Christian), và đại đa số 55.2% theo đạo Phật hoặc thờ ông bà.
Tiếng Việt được trong vọng ở Úc. Đây là ngôn ngữ được nói nhiều hạng 6 ở đây, sau tiếng Anh, Hoa, Ư, Hy Lạp và Á Rập.
Ở đây người Việt sống đoàn kết với nhau giữ ǵn truyền thống văn hóa dân tộc, vui lắm. Những dịp Tết nguyên Đán, các khu Phố Việt Nam ăn Tết rộn ràng, với hàng trăm ngàn người tham dự..."
Hơn 40 năm đă trôi qua kể từ khi tôi giă biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng”.
Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lư khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không c̣n đáng đi vào kịch trường của sự phi lư nữa. Nó đă được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.
Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.
Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những băi ḿn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đă hoạt động trở lại và các băi ḿn đă được tháo gỡ. Nhưng đến đây th́ sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đă lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu t́nh và phản kháng ôn ḥa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lănh tụ Xô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác v́ sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xă hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến tŕnh này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đă diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng”. Điều này đặt ra một câu hỏi: GIẢI PHÓNG CÁI G̀ VÀ CHO AI?
Có phải miền Nam đă được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?
Một cái thứ giải phóng ǵ đă làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đă buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài G̣n thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn tŕnh diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đă bị tổn thương sọ năo lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đă chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Vơ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive quy định th́ “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân”.
Thực tế không phải như vậy. Đă có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đă bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đă bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Đài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đă ngă xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong ṿng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đă bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đă di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm t́nh viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đă khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đă hoạt động ở miền Bắc hay không?Không.
Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không?
Không.
Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lănh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không?Không.
Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không?
Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự ǵ đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, ḷng tôi đă từng và vẫn c̣n đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Ḷng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính t́nh rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ v́ muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, c̣n hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng c̣n lại, ḷng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi ḷ sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không c̣n một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đă chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn c̣n phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài G̣n thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đă chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, ḷng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước ǵ có dịp tỏ ḷng kính trọng năm vị tướng lănh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đă có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).
Khi tôi viết đoạn kết này, một kư giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài G̣n bị thất thủ, đă tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đă có mặt trong phiên ṭa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài G̣n đă làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận v́ không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?
Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc ḥa tấu?
Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác th́ bị giam cầm tại Hà Nội?
Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đă được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại v́ đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường ṃn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.
Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong ḷng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gă sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó ḷng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và tṛ chuyện với họ th́ mới khám phá ra cái cốt lơi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn c̣n quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ư kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền h́nh New York hay các trường đại học Ivy League th́ không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ư về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đă kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Vơ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đă xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi đă đánh bại ông, thưa Đại tá!”
Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đă đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đă nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố”.
Vơ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lư để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đă trở thành trụ cột trong chiến lược của Vơ Nguyên Giáp. Hắn đă đúng và hắn đă thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ư đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn c̣n bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:
Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đă mệt mỏi về ḷng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đă chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó c̣n thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đă được đưa ra mặt trận.
Điều này đă xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đă ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ v́ cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xă hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.
Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng t́m ra phương cách ôn ḥa và các lănh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.
Trong ư nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi c̣n lại ǵ nữa ngoài niềm hy vọng?
Vào chiều ngày 23/03, một chương tŕnh vinh danh các nhà văn, nhà báo gốc Việt và gây quỹ hỗ trợ các hoạt động bảo tồn văn hoá truyền thống Việt Nam đă được tổ chức ở ngoại ô thủ đô nước Mỹ, thu hút hàng trăm người tới tham dự.
Chương tŕnh là một trong những nỗ lực của Nhà Việt Nam, một tổ chức thiện nguyện được biết tiếng trong vùng để tạo ra nguồn lực tài chính và hướng tới thành lập một trung tâm văn hoá Việt ở khu vực thủ đô nước Mỹ...
1103130421022287
Nguyễn Đ́nh Bin: Nghị quyết 36 về Cộng đồng Người Việt Nam ở Nước ngoài, một mốc son trong đời công tác của tôi
Thấm thoắt thế mà đă tṛn 20 năm, một phần năm thế kỷ, kể từ khi Bộ Chính trị Đảng CSVN ban hành nghị quyết công khai đầu tiên về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN), Nghị quyết 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004. Cho đến thời điểm đó, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác này đều là “MẬT”.
Nghị quyết 36-NQ/TW là bước cụ thể hóa và triển khai Nghị quyết 7 của Trung ương Đảng (khóa X) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đối với đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài, một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nay đă hơn 5 triệu. Là một văn kiện có ư nghĩa lịch sử, mở ra một thời kỳ mới, có giá trị cơ bản, to lớn, toàn diện và lâu dài, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách… của Đảng hay Nhà nước đều có một quá tŕnh ra đời riêng, không giống nhau.
Hôm nay, 26-3-2024, kỷ niệm 20 năm ban hành, tôi xin chia sẻ với quư bạn đọc quá tŕnh ra đời cụ thể của văn kiện lịch sử này, một mốc son trong cuộc đời trên 40 năm làm lính Cụ Hồ của tôi trên mặt trận ngoại giao.
Tôi bồi hồi nhớ lại quá tŕnh nẩy sinh ư tưởng, thai nghén, đề xuất, rồi xây dựng và hoàn thiện dự thảo; những chặng đường gian nan, vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, kiên tŕ bảo vệ lư lẽ của ḿnh, vận động, tranh luận thẳng thắn, thuyết phục…, để tranh thủ sự đồng t́nh, ủng hộ; không hề nản chí, t́m mọi cách, mọi cơ hội thúc đẩy để cuối cùng, sau 4 năm ṛng ră, đă được Bộ Chính trị chấp thuận và ban hành.
Đầu năm 2000, sau khi nhận quyết định của Thủ tướng Phan Văn Khải bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy ban (nay là Ủy ban Nhà nước) về người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN), tôi khẩn trương t́m hiểu công việc, nắm các tư tưởng chỉ đạo của lănh đạo Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực công tác này, để định hướng cho ḿnh và xây dựng chương tŕnh công tác tổng thể cho nhiệm kỳ Chủ nhiêm của tôi.
Tôi nghiên cứu lại Nghị quyết 08-NQ/TƯ, ngày 29/11/1993 của BCT (khóa VII), một văn kiện đă thể hiện nhiều quan điểm đổi mới chủ yếu của Đảng. Nhưng, đến thời điểm ấy, Nghị quyết ban hành đă được gần 7 năm, t́nh h́nh trong nước, cộng đồng NVNONN, cũng như thế giới đă có nhiều điểm rất mới. Tôi thấy cần phải tiến hành tổng kết việc thực hiện nghị quyết quan trong này, từ đó đề xuất những kiến nghị đáp ứng những đ̣i hỏi của t́nh h́nh mới.
Sau khi báo cáo, được lănh đạo Đảng chấp thuận, việc tổng kết thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TƯ đă được triển khai.
Quá tŕnh thực hiện tổng kết cho thấy: Nhận thức chung của lănh đạo các ngành, các cấp về cộng đồng NVNONN và công tác cộng đồng c̣n nhiều điểm quá lạc hậu và lệch lạc nữa. Thậm chí nhiều người c̣n không biết đă có NQ – 08/TƯ. Điều này hiểu được, v́ đó là một nghị quyết MẬT, và ban hành đă gần 7 năm. Trong khoảng thời gian này, rất nhiều lănh đạo các ngành, các cấp đă thay đổi. Các nghị quyết, chỉ thị MẬT th́ chỉ được phổ biến và quán triệt trong diện đă được chỉ định. Sau khi được phổ biến, quán triệt th́ lưu trữ trong hồ sơ MẬT. Ngoại trừ cơ quan chuyên trách, các cơ quan ban, ngành khác, và các cấp, mấy khi lănh đạo cũ lại bàn giao đầy đủ cho người thay thế ḿnh.
Chính thực tế này đă làm cho tôi nảy sinh ư tưởng cần kiến nghị BCT ra một Nghị quyết mới và phải là CÔNG KHAI, bởi tôi nghĩ: Để có thể làm tốt công tác đối với cộng đồng NVNONN trong thời kỳ mới th́, điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất là phải tạo được một nhận thức chung, thực sự đổi mới, đúng đắn và thống nhất, không chỉ trong cán bộ lănh đạo, các cấp ủy đảng, đảng viên, cán bộ công chức các cơ quan chuyên trách và liên quan, mà phải là tất cả các cơ quan, bộ, ngành, các cấp trong toàn bộ hệ thống chính trị, từ trung ương đến tận cơ sở. Ngoài ra, toàn thể nhân dân ta, và đăc biệt là cộng đồng NVNONN, cũng phải được biết và hiểu tư duy mới đó của Đảng và Nhà nước ta.
Hơn nữa, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với cộng đồng NVNONN là hoàn toàn quang minh, chính đại, không hề có ǵ trái với lợi ích của các nước, nơi bà con ta đang làm ăn, sinh sống, mà ngược lại, c̣n góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước đó với nước ta. Bởi vậy, cũng rất cần phải tuyên truyền rộng răi cho thế giới biết và hiểu.
Biện pháp khả thi và hiệu nghiệm nhất để đạt được các mục tiêu nói trên là BCT ra một nghị quyết mới CÔNG KHAI. Bởi v́, không chỉ nhân dân ta mà cả thế giới đều biết rơ: Ở nước ta, Đảng CSVN là đảng duy nhất cầm quyền, và BCT là cơ quan uy quyền thực sự của Đảng, nên NGHỊ QUYẾT CỦA BCT thực tế LÀ PHÁP LỆNH CAO NHẤT.
Tôi xác định đây là nhiệm vụ chủ yếu, có tầm quan trọng quyết định trong chương tŕnh công tác tổng thể của Ủy ban VNVNONN, trong thời kỳ tôi làm Chủ nhiệm. Nhưng khi họp cán bộ, nhân viên cơ quan để xây dựng chương tŕnh này, gọi là "Đề án tăng cường công tác vận động cộng đồng", tôi nêu ư tưởng này ra th́ đă có một số ư kiến phản đối ngay trong số cán bộ chủ chốt, v́ cho rằng đây là một lĩnh vực rất phức tạp, nhậy cảm; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng lâu nay đều là MẬT, Nghị quyết 08 cũng là MẬT, BCT không thể ra nghị quyết CÔNG KHAI được.
Tôi đă cho thảo luận, tranh luận thật sự dân chủ, thẳng thắn. Cuối cùng, ư tưởng đổi mới này đă đạt được nhất trí hoàn toàn. Tôi vui mừng, tập trung lực lượng khẩn trương xây dựng Đề án theo các ư kiến chỉ đạo cụ thể của tôi, kiến nghị 8 giải pháp tổng thể, mà điểm then chốt nhất, quyết định nhất là BCT ra một Nghị quyết mới CÔNG KHAI.
Nhận thức rơ đây là một công việc rất quan trọng và nhạy cảm, tôi đă tranh thủ tŕnh trước 2 Ủy viên BCT (Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, phụ trách đối ngoại, là Thủ trưởng trực tiếp cũ của tôi, và Trưởng Ban kinh tế Trung ương Trương Tấn Sang, mà tôi rất quen biết) để cho ư kiến sơ bộ. Tôi rất mừng được cả hai ông bật đèn xanh - ông Trương Tấn Sang c̣n khen là đề án tốt.
Rà soát kỹ lại, sửa sang lần chót văn bản, ngày 28/7/2000, tôi đă kư Tờ tŕnh Đề án lên Thường vụ BCT (Khóa VIII, Trung ương Đảng không có Ban Bí thư) và Thủ tướng Chính phủ.
Tiếp đó là những ngày tháng hồi hộp chờ đợi. Qua các mối quan hệ công tác, tôi cố gắng thúc đẩy việc đưa Đề án ra tŕnh xin ư kiến Lănh đạo. Nhưng, thời điểm đó, có thể lănh đạo Đảng đang tập trung vào việc chuẩn bị tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, vào tháng 4-2001, nên chưa xem xét.
Khi ấy, tôi đang là Ủy viên Trung ương Đảng (khóa VIII), nên mặc nhiên sẽ tham dự Đại hội IX như đại biểu chính thức. Đây là một cơ hội rất tốt, để tŕnh bầy rơ và tranh thủ sự đồng t́nh của hơn 1000 đại biểu, gồm các lănh đạo cao nhất cấp trung ương, các bộ, ban, ngành, các tỉnh thành và đại diện ưu tú của toàn Đảng, đối với đề xuất chính sách có tính đột phá này của chúng tôi. Nên tôi đă đề nghị được tham luận tại Đại hội về công tác đối với cộng đồng NVNONN.
Được chấp thuận, tôi liền đưa nội dung đă thai nghén cho nghị quyết CÔNG KHAI của BCT vào bài tham luận, rồi gửi lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tôi được biết đây là bài tham luận đầu tiên về công tác Việt kiều tại một Đại hội toàn quốc của Đảng. Tôi mừng [khi] nhận được thông báo là tham luận tôi tŕnh đă được chấp thuận nguyên văn, không phải điều chỉnh, bổ sung ǵ cả. Sau Đại hội, càng mừng hơn [khi] tham luận của tôi đă được đánh giá là một trong vài tham luận mới mẻ, ấn tượng nhất tại Đại hội IX.
Có lẽ bài tham luận ấy đă góp phần thúc đẩy Lănh đạo xem xét Tờ tŕnh tôi đă gửi lên ngày 28/7/2000. Nửa năm sau Đại hội IX, đầu tháng 10/2001, tôi thật vui mừng nhận được công văn của Văn pḥng Chính phủ thông báo ư kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phan Văn Khải đối với "Đề án tăng cường công tác vận động cộng đồng", trong đó Thủ tướng chỉ thị "Ban cán sự Bộ Ngoại giao chủ tŕ, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chuẩn bị Đề án tŕnh Bộ Chính trị có Nghị quyết (hoặc Chỉ thị) về lĩnh vực công tác này".
Thế là tôi hăm hở cùng mấy cán bộ hữu quan của Ủy ban, bắt tay vào xây dựng đề cương, rồi đề cương chi tiết và cuối cùng là dự thảo văn kiện mà chúng tôi vẫn kiên tŕ kiến nghị là "Nghị quyết CÔNG KHAI của BCT", theo các ư cụ thể tôi đă nghiền ngẫm kỹ.
Tiếp đó là quá tŕnh trao đổi, lấy ư kiến đóng góp của Mặt trận Tổ quốc và các Bộ, ngành liên quan, như Thủ tướng đă chỉ đạo. Quả thực, đây là một công việc khá gian truân. Nhưng, qua kiên tŕ trao đổi cởi mở, tranh luận thẳng thắn, ra sức thuyết phục…, cuối cùng, ngoại trừ một cơ quan c̣n phân vân giữa "Nghị quyết" hay "Chỉ thị", c̣n 12 Bộ, cơ quan, ban, ngành liên quan khác đều nhất trí với chúng tôi là kiến nghị BCT ra" Nghị quyết CÔNG KHAI ".
Sau khi rà soát lại lần cuối dự thảo Nghị quyết, ngày 20/5/2002, tôi thật sự vui mừng kư Tờ tŕnh dự thảo Nghị quyết lên BCT và Thủ tướng Chính phủ. Tiếp đó, lại là những tháng ngày cố gắng thúc đẩy việc xem xét kiến nghị này, nhưng vẫn chưa có thông tin ǵ khích lệ.
May thay, gần 10 tháng sau, ngày 12/3/2003, taị hội nghị toàn thể lần thứ 7, TƯ Đảng khóa IX ra Nghị quyết về "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, v́ dân giầu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tôi như mở cờ trong bụng: Thời cơ đă đến để làm sống lại kiến nghị tâm huyết mà tôi đă kiên tŕ đeo đuổi suốt 3 năm qua.
Bởi, BCT ra nghị quyết mới này chính là cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương nói trên đối với cộng đồng NVNONN, một bộ phận không thể tách rời của toàn dân tộc Việt Nam. Thế là tôi lại rà soát, điều chỉnh lại các văn bản. Và, một tháng sau khi ban hành Nghị quyết TƯ 7, ngày 14/4/2003, tôi kư một Tờ tŕnh mới lên BCT, nhắc lại và nhấn mạnh kiến nghị của chúng tôi, nói rơ là để cụ thể hóa Nghị quyết TƯ 7, trong bối cảnh t́nh h́nh và yêu cầu mới.
Để tạo thêm cơ sở tiếp tục thúc đẩy lănh đạo xem xét kiến nghị mới này, tôi nghĩ cần phải kiến nghị cử một đoàn liên ngành, gồm lănh đạo môt số ngành quan trọng hữu quan, và phải có đại diện xứng đáng của miền Nam, thăm Canada và đặc biệt là Hoa Kỳ, hai nước có cộng động người Việt đông đảo nhất, đa dạng nhất, mà đa số ra đi từ miền Nam, để tiếp xúc với tinh thần mới chủ động tiến công, thực sự cởi mở, thẳng thắn, chân t́nh, và cố gắng tiếp xúc được với một số cựu lănh đạo chính quyền Sài G̣n và nhân vật bất đồng chính kiến nổi bật, để nắm và báo cáo lănh đạo t́nh h́nh cộng đồng NVNONN mới nhất. Cho đến thời điểm đó, tôi đă có một số lần đi thăm, tiếp xúc với cộng đồng ở các địa bàn khác nhau, nhưng chỉ với danh nghĩa đoàn của Ủy ban về NVNONN.
Tôi rất mừng, kiến nghị đó đă được chấp thuận. Tôi đă được cử làm Trưởng đoàn, gồm lănh đạo các ngành quan trọng liên quan như ông Nguyễn Tiến Vơ, Ủy viên thường trực Đoàn Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ông Trịnh Xuân Giới, Phó Trưởng ban thường trực Ban Dân vận Trung ương. Về đại diện miền Nam, lúc đầu là ông Nguyễn Thiện Nhân, Phó Chủ tịch thường trực UBND thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng sau, do ông Nhân có việc cần đột xuất nên ông Trần Văn Tạo, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Thành Phố Hồ chí Minh, nguyên Ủy viên TV Thành ủy, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa và Giám đốc Sở Công an của Thành phố đă tham gia đoàn.
Tôi đă họp đoàn, trao đổi ư kiến về Đề án chuyến đi. Tôi nêu ư kiến cá nhân về mục đích yêu cầu, phương châm chuyến đi như đă nói trên. Nhưng đă không được đồng t́nh. Tôn trọng các thành viên trong đoàn, tôi đành kư Tờ tŕnh Đề án theo ư kiến đồng thuận. Sau khi được Ban Bí thư phê duyệt, tôi nghĩ nếu chỉ triển khai theo tinh thần Đề án th́ chuyến đi sẽ không thể đem lại kết quả như tôi mong muốn. Bởi vậy, tôi đành “ lách”, xin gặp Bí thư TƯ Đảng, Phó Thủ tướng phụ trách đối ngoại Vũ Khoan, đă nhiều năm là đồng nghiệp, rất quen biết và hiểu nhau mà tôi kính trọng (đầu năm 2000, ông được đề bạt Bộ trưởng Thương mại th́ tôi thay ông làm Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao).
Tôi báo cáo, tại sao tôi đă kư tŕnh một Đề án chuyến đi như vậy và tŕnh bầy thẳng thắn ư kiến riêng của tôi, xin được triển khai với tinh thần mới thực sự chủ động, tiến công, cởi mở, thẳng thắn…; cụ thể là cho phép thăm ḍ, nếu được th́ cho gặp gỡ một số cựu lănh đạo chính quyền Sài G̣n cũ như cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ… và một số người bất đồng chính kiến nổi bật. Nếu qua gặp gỡ thấy thuận th́ cho phép tôi lấy danh nghĩa Chủ nhiệm Ủy ban về NVNONN, không phải Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, mời về thăm đất nước, một đề xuất, theo như tôi biết, lần đầu tiên được nêu ra.
Tôi rất mừng là những đề xuất đó đă được ông Vũ Khoan chấp thuận. Tôi đă họp, quán triệt tinh thần mới đó trong toàn đoàn. Các thành viên phấn khởi, nhưng cũng tỏ [ra] rất lo lắng trước trách nhiệm mới nặng nề.
Trong chuyến đi này, ngoài các cuộc làm việc chính thức với các quan chức hữu quan nước sở tại, một trọng tâm là gặp gỡ, đối thoại với các thành phần khác nhau trong cộng đồng kiều bào. Tôi không bao giờ có thể quên không khí thực sự cởi mở, thẳng thắn, chân t́nh, trên tinh thần ḥa giải dân tộc, cũng như những giây phút xúc động trong các cuộc gặp gỡ đó. Có một số kiều bào, sau bao năm tháng bị bưng bít, tác động bởi tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch, đă khóc khi nghe tôi thông báo t́nh h́nh đất nước và trả lời thẳng thắn, chân t́nh các câu hỏi, làm sáng tỏ các chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước nói chung và đối với đối với cộng đồng nói riêng.
Điểm đặc biệt nhất trong chuyến đi này, như tôi vừa nói trên, là lần đầu tiên gặp một số cựu lănh đạo chính quyền Sài G̣n cũ hoặc bất đồng chính kiến nổi bật, trong đó có cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, ông Đỗ Ngọc Yến, Tổng Giám đốc Công ty Báo Người Việt, ông Nguyễn Ngọc Hải, "Chủ tịch Ủy ban bảo vệ chính nghĩa quốc gia" chống cộng nối tiếng ở thành phố Houston, nhạc sĩ Phạm Duy...
Tôi c̣n nhớ như in: Sáng 14/6/2003, tôi cùng Tổng Lănh sự nước ta lúc đó tại San Francisco Nguyễn Mạnh Hùng đă chơi golf với vợ chồng ông Nguyễn Cao Kỳ. Sân golf được lực lượng an ninh bảo vệ nghiêm ngặt. Chỉ có một Flight duy nhất 4 người chúng tôi chơi. Sau lời chào hỏi nhau theo phép xă giao thông thường, ông Kỳ liền nói với tôi: “Có lẽ chúng ta nên gọi nhau là anh”. Tôi giơ tay xiết chặt tay ông, đáp: “Tôi cũng nghĩ như anh”.
Dạo được mươi bước, ông Kỳ dừng lại, nh́n tôi:
- Anh có biết hồi kháng chiến chống Pháp, v́ sao tôi lại về thành (Hà Nội) không?
- Không. Tôi làm sao biết được!
- Tôi bị sốt rét rất nặng, phải xin phép về nhà chạy chữa. Một đêm, đang sốt mê man, tỉnh lại, tôi thấy ḿnh đang nằm trên một thuyền nhỏ giữa sông Hồng. Tôi hỏi mẹ tôi: “Mẹ đưa con đi đâu đấy?”. “Con sốt nặng thế này, phải đưa về thành chữa trị”. Lúc ấy, tôi đă cố lấy hết sức b́nh sinh để nhẩy xuống sông bơi về. Nhưng không thể. Sau đó thế nào, chắc anh hiểu.
Tôi nh́n ông, tỏ thông cảm:
- Cảm ơn anh đă cho tôi biết sự thật. Tôi rất hiểu.
Đi tiếp mấy bước, tôi dừng lại, nh́n vào mắt ông, thân t́nh:
- Anh Kỳ à. Anh lớn tuổi hơn tôi nhiều; từng trải qua bao thời cuộc, cảnh đời bể dâu; bôn ba khắp nơi trong, ngoài nước... Giờ chúng ta đều đă ở chặng cuối đời… Tôi muốn nghe ư kiến, nh́n nhận chân t́nh của anh về t́nh h́nh đất nước, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước hiện nay. Anh cứ nói thẳng, đừng ngại ǵ.
Thế là suốt gần 5 tiếng đồng hồ, chúng tôi vừa đánh golf vừa chuyện tṛ, trao đổi ư kiến, có lúc tranh luận nữa, nhưng thật sự cởi mở, thẳng thắn, chân t́nh…, đề cập đến cả thời cuộc ở khu vực Đông Nam Á và thế giới, theo ḍng chẩy lịch sử.
Cựu cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ đă bày tỏ đồng t́nh đối với các chủ trương đổi mới của Đảng CSVN; nói rơ không tán thành các hoạt động chống đất nước và ư kiến của một số cá nhân, nhóm phái trong cộng đồng đ̣i áp đặt mô h́nh dân chủ phương Tây vào đất nước ta...
Chơi xong lỗ đầu tiên, bà Kim, phu nhân ông Kỳ nói với tôi: “Anh Bin à. Chúng ta thi nhá. Mỗi lỗ 5 đô la”. Tôi bắt tay bà vui vẻ: “Đồng ư. Dù tôi chơi rất dở”. Vợ chồng ông Kỳ đánh golf th́ khỏi nói rồi. Phía chúng tôi, Tổng lănh sự Mạnh Hùng chơi tốt. C̣n tôi chơi rất kém, do cánh tay phải bị sai khớp, đă thành tật từ nhỏ, không thể gập lại và cử động như b́nh thường. Học và đánh golf chỉ là do yêu cầu phục vụ ngoại giao. Vợ chồng ông Kỳ liên tục dẫn điểm, khi nhiều, khi ít. Chúng tôi rượt đuổi. Đến lỗ thứ 17, áp chót, điểm số là 8-9, vẫn nghiêng về phía vợ chồng ông Kỳ. Thật may mắn, kết quả lỗ cuối cùng là 9-9. Bà Kim reo lên “Thế là huề nhá! Anh Bin”. “Thật không thể đẹp hơn!”, tôi cười đáp, bắt chặt tay hai vợ chồng ông Kỳ. Rồi cả bốn chúng tôi cùng vỗ tay kết thúc cuộc chơi golf.
Tôi đă dặn trước đoàn t́m một tiệm ăn đàng hoàng, nhưng không phải loại sang nhất, để tiết kiệm ngân sách. Cả đoàn sẵn sàng chờ tôi. Nếu cuộc gặp thuận, tôi sẽ mời vợ chồng ông Kỳ cùng về ăn trưa với đoàn. Tôi liền hoan hỉ mời vợ chồng ông Kỳ về gặp gỡ và cùng dùng cơm trưa với toàn đoàn chúng tôi. Vợ chồng ông đă hồ hởi nhận lời ngay.
Bên bàn ăn, tôi và ông Kỳ tiếp tục tṛ chuyện. Kết thúc bữa cơm trong không khí ḥa giải, cởi mở, vui vẻ, tôi đứng lên, xúc động, bầy tỏ cảm tưởng chân thành của tôi về cuộc gặp gỡ; cảm ơn ông Kỳ và phu nhân. Với danh nghĩa Chủ nhiệm Ủy ban về VNVNONN, tôi mời vợ chồng ông Kỳ về thăm quê hương. Một thoáng ngỡ ngàng, rồi niềm vui và xúc động đă lộ rơ trên nét mặt dày dạn phong sương của ông. Ông đă cảm ơn và sau đó bày tỏ với tôi mong muốn được Nhà nước cho phép đưa một đoàn doanh nhân về làm ăn, hợp tác với đất nước, như một cử chỉ ḥa giải.
Nửa năm sau, đầu tháng 1-2004, khi vừa tới Paris nhận nhiệm vụ Đại sứ tại Pháp được ít ngày, tôi rất mừng nhận được tin cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ đă về thăm quê hương, sau nửa thế kỷ xa cách, bể dâu. Sự kiện này đă gây chấn động dư luận trong và ngoài nước, đặc biệt là cộng đồng NVNONN, cho thấy tinh thần đổi mới thực sự mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Tôi cũng không thể nào quên cuộc gặp gỡ tối 9/6/2003 với vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Hải tại nhà ông. Ông Hải là con một Tri huyện thời Pháp. Vợ chồng ông là người miền Bắc, sau Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 mới di cư vào Nam. Vừa bước vào nhà, tôi có ấn tượng như tới thăm một gia đ́nh trí thức ở Hà Nội, một không gian đầy ắp màu sắc và hương vị văn hóa truyền thống Việt Nam.
Sau phần chào hỏi, ông mời đoàn chúng tôi vừa dùng cơm tối vừa nói chuyện. Vừa ngồi vào bàn ăn, ông Hải đă nói thẳng với tôi: Ông đang là "Chủ tịch Ủy ban bảo vệ chính nghĩa quốc gia" của thành phố Houston. Ông là người chống cộng sản và vẫn kiên quyết chống cộng sản.
Thế là bắt đầu cuộc đối thoại và tranh luận rất thẳng thắn và không ít lúc có thể nói là "nảy lửa" giữa tôi và ông suốt bữa cơm kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ. Ông lư giải và bảo vệ lập luận cơ bản của ông là theo chủ nghĩa cộng sản th́ sẽ mất độc lập dân tộc, rơi vào ṿng thống trị của Nga cộng, Trung cộng. V́ vậy, ông đă đi với Pháp rồi Mỹ; v́ đó là cách duy nhất để chống lại nguy cơ đô hộ của Nga cộng, Trung cộng, bảo vệ độc lập dân tộc (?!).
C̣n tôi, đă lấy những sự thật lịch sử của nước ta, của Đảng ta và quan hệ quốc tế liên quan, đồng thời làm rơ những chủ trương, chính sách đổi mới hiện nay, những thắng lợi lịch sử và thành tựu to lớn để chứng minh cho ông chân lư hiển nhiên là, chỉ có dưới ngọn cờ và sự lănh đạo của Chủ tich Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam th́ đất nước ta mới giành lại được độc lập, thống nhất và đang trên đường xây dựng một xă hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tôi cũng nói với ông thẳng thắn, chân thành: Quá tŕnh lịch sử nào mà chẳng có sai lầm, khuyết điểm, vấp váp. Nhưng, quan trọng là phải nhận ra, rút kinh nghiệm, sửa chữa, khắc phục. Đảng và Nhà nước Việt Nam đă và đang tiếp tục như vậy.
Biết ông Hải là một người tài hoa, giỏi đàn, ca…; được tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Liên hiệp hội ngoại kiều thành phố Houston; trong đoàn chúng tôi, ông Tạo cũng là một cây văn nghệ trong phong trào sinh viên phản chiến, tôi đă chủ động đề nghị chủ nhà và khách biểu diễn mấy tiết mục ca nhạc dân tộc để thay đổi không khí. Mọi người vỗ tay hưởng ứng. Thế là cả hai bên chủ và khách đều biểu diễn. Đang thực sự vui vẻ th́ một thành viên trong đoàn hát một bài phản chiến của Trịnh Công Sơn. Lập tức chủ nhà đứng lên, cầm đàn hát luôn một bài ca ngợi lính VNCH.
Trước t́nh huống đó, tôi đứng lên, chậm răi, trịnh trọng:
“Thưa anh Hải cùng các chị, các anh. Cho phép tôi xưng hô như vậy. Tối nay, tôi thực sự xúc động và cảm ơn anh, chị Hải đă đón tiếp đoàn chúng tôi thật cởi mở, chân t́nh. Bom đạn đă ngừng nổ, đất nước đă thu về một mối gần 30 năm rồi. Quá khứ là đă qua, không thể làm lại. Như những người con của mẹ Việt Nam, chúng ta hăy khép lại quá khứ, cùng nhau chung sức, chung ḷng xây dựng lại và bảo vệ Tổ quốc thân yêu, đă bị chiến tranh bao năm tàn phá. Tôi đề nghị anh Hải và anh Tạo trong đoàn chúng tôi cùng biểu diễn một bài ca dân tộc”.
Thế là cuộc gặp gỡ vợ chồng ông Hải đă kết thúc bằng một bài hát dân tộc, mà ông Hải chủ nhà là người hát và ông Trần Văn Tạo, thành viên đoàn chúng tôi, là người đệm đàn. Khi chia tay, ông Hải phát biểu giọng xúc động: "Tôi không ngờ các anh chị lại là những người thật dễ thương!".
Vợ chồng ông Hải tiễn tôi ra tận cổng. Biết ông quê Hưng Yên, tôi nói: “Anh Hải à, Chúng ta c̣n là đồng hương nữa đấy. Tôi quê Hải Dương. Đă có 3 thập niên 2 tỉnh chúng ta hợp nhất là Hải Hưng mà”. Rồi tôi mời vợ chồng ông về thăm lại quê hương. Xiết chặt tay hai người, tôi nói: “Trăm nghe không bằng một thấy. Anh, chị cứ về đi. Sẽ ngạc nhiên. Quê hương chúng ta đă thực sự thay da, đổi thịt, dù vẫn c̣n nhiều khó khăn, vấn đề phải khắc phục. Anh chị sẽ được đón tiếp như những người con, sau bao năm lưu lạc nơi đất khách, quê người!”
Chỉ vài tháng sau, vào dịp Quốc khánh, tháng 9-2003, ông Hải đă về thăm quê, sau gần 50 năm xa cách. Đầu năm 2007, tôi đang làm Đại sứ tại Pháp, một Phó Cục trưởng dẫn đầu Đoàn Cục Lănh sự Bộ Ngoại giao, thăm Hoa Kỳ, trao giấy miễn thị thực xuất nhập cảnh mỗi khi về nước cho các kiều bào tiêu biểu, về qua Paris cho tôi biết: Ông Hải là một trong số kiều bào đầu tiên ở thành phố Houston được anh trao giấy. Ông ấy rất phấn khởi, đă nói với anh khi nhận giấy: “Ông Bin đă nhuộm đỏ tôi”.
Khi tôi nêu ư định gặp ông Đỗ Ngọc Yến, Tổng Giám đốc Công ty Báo Người Việt, tờ báo lớn nhất của người Việt ở Hoa Kỳ, đă có ư kiến can ngăn mạnh mẽ, cho rằng đây là một nhân vật phức tạp, nguy hiểm. Nhưng tôi vẫn quyết định thực hiện. Cuộc gặp, đối thoại thẳng thắn đă giúp tôi hiểu hơn về ông, một cơ hội tốt để trực tiếp nói rơ đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta cho người có ảnh hưởng lớn trong truyền thông tới cộng đồng.
Tôi cũng không thể nào quên buổi tối đến thăm Nhạc sĩ Phạm Duy tại nhà ông. Ông đă xúc động đón tiếp, cảm ơn tôi là quan chức của Đảng và Nhà nước đầu tiên đến thăm và chuyện tṛ thân t́nh, cởi mở với ông. Nhạc sĩ đă ngồi vào Piano, say sưa biểu diễn một trích đoạn tác phẩm mới về truyện Kiều mà ông đang hoàn thiện. Bữa đó, ca sĩ Ái Vân cũng có mặt. Thật là một diễm phúc, lần đầu tiên trong đời tôi được nghe tiếng đàn dương cầm của người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng biểu diễn sáng tác của chính ông, cùng tiếng hát hút hồn của một ca sĩ nổi tiếng. Tôi rất mừng là nhạc sĩ Phạm Duy đă trở về và được cống hiến tài năng của ông cho quê hương đến tận cuối đời.
Tôi rất mừng về kết quả chuyến thăm; đă khẩn trương làm báo cáo tường tận lên BCT và Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, tôi lại chủ động gặp Bí thư TƯ Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan, để trực tiếp báo cáo và xin tŕnh lại kiến nghị chúng tôi đă tŕnh BCT, đề nghị ông giúp thúc đẩy. Tôi rất mừng đă được ông đồng ư.
Thế là lại một lần nữa, tôi cùng mấy cán bộ hữu quan trong cơ quan khẩn trương rà soát, chỉnh lư lại văn bản đă tŕnh trước đây. Và, chỉ một tuần sau chuyến đi, ngày 25/6/2003, tôi lại kư Tờ tŕnh mới lên BCT, khẩn thiết kiến nghị BCT sớm ban hành Nghị quyết CÔNG KHAI, để đáp ứng yêu cầu trước t́nh h́nh mới, với niềm hy vọng lớn hơn bao giờ hết. Thật là may mắn, ông Vũ Khoan đă dành thời gian đích thân đọc và cho ư kiến chỉ đạo trực tiếp vào văn bản.
Vào thời điểm đó, tôi đă có quyết định của Lănh đạo cấp cao cử làm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền nước ta tại Pháp. Tôi đặt mục tiêu: Phải hoàn thành bằng được công việc then chốt này mà tôi đă tâm huyết, trăn trở thai nghén, xây dựng, theo đuổi, thúc đẩy… từ khi mới nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Uỷ ban VNVNONN, đă gần bốn năm tṛn. Tôi đă dành thời gian, công sức, cùng mấy đồng nghiệp hữu quan, hoàn chỉnh dự thảo. Rồi lại lấy ư kiến đóng góp của các cơ quan, ban, ngành hữu quan một lần nữa. Tôi rất vui đă thực hiện được mục tiêu đề ra: Hoàn chỉnh lần cuối cùng các văn bản và kịp tŕnh Dự thảo nghị quyết lên BCT trước khi lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ mới, tháng 12/2003.
Cũng như các lần trước, trong Tờ tŕnh, tôi đă báo cáo ư kiến mới nhất của tất cả các cơ quan, bộ, ban, ngành liên quan để BCT có đầy đủ cơ sở xem xét. Đáng lưu ư là, lần cuối này, ngoài một cơ quan ngay từ đầu vẫn giữ ư kiến phân vân giữa kiến nghị BCT ra "Nghị quyết" hay "Chỉ thị" th́ có thêm một cơ quan tham mưu rất quan trọng trước đây tán thành, nay không đồng ư với việc kiến nghị BCT ra Nghị quyết CÔNG KHAI nữa.
Ít tháng sau, trong khi đang công tác tại Pháp, tôi vô cùng vui mừng nhận được tin và toàn văn Nghị quyết số 36-NQ/TW, bản Nghị quyết CÔNG KHAI đầu tiên của Bộ Chính trị Đảng CSVN về cộng đồng NVNONN, ban hành ngày 26/3/2004.
Tôi thầm nghĩ: Tiếp theo báo cáo kết quả đoàn liên ngành chúng tôi thăm Canada, Hoa Kỳ (tháng 6-2003), và kiến nghị khẩn thiết lần chót của chúng tôi (tháng 12-2003), việc cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ, đáp lại lời tôi mời, đă về thăm quê hương (tháng 1-2004), như giọt nước tràn ly, cuối cùng đă thúc đẩy Bộ Chính trị Đảng CSVN, ngày 26-3-2004, ra Nghị quyết CÔNG KHAI đầu tiên về cộng đồng NVNONN.
Hôm nay, 26-3-2024, kỷ niệm tṛn 20 năm đi vào cuộc sống, tôi mừng v́ nghị quyết lịch sử này, không chỉ được cộng đồng NVNONN vui mừng đón nhận, dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh, mà đă và đang tiếp tục được triển khai, bằng các chính sách, quyết định, biện pháp cụ thể của Nhà nước, phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mặc dù vậy, tôi vẫn rất buồn v́ mong ước cháy bỏng, mục tiêu chủ yếu tôi đeo đuổi, khi nẩy sinh ư tưởng, thai nghén, đề xuất… nghị quyết 36, là H̉A GIẢI, H̉A HỢP, ĐOÀN KẾT DÂN TỘC thực sự, th́ đến nay, sau 20 nghị quyết được ban hành, và gần nửa thế kỷ chiến tranh đă chấm dứt, vết thương dân tộc vẫn c̣n rỉ máu; người Việt chúng ta, anh em một nhà, vẫn chưa thực sự ḥa giải được với nhau!!! Mà, không ḥa giải được với nhau th́ nói ǵ đến cùng đoàn kết, chung sức, chung ḷng, để khơi dậy, phát huy tốt nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, và kết hợp sức mạnh ấy với sức mạnh thời đại, như Đảng CSVN đă tổng kết rất đúng, đặng xây dựng và bảo vệ thành công một nước Việt Nam thực sự độc lập, tự chủ, toàn vẹn chủ quyền lănh thổ trên đất liền, bầu trời và biển, đảo, dân giầu, nước mạnh, xă hội dân chủ, công bằng, văn minh, có vị trí, vai tṛ quốc tế xứng đáng, trước các khó khăn, nguy cơ, thách thức, cả đối nội và đối ngoại, ngày càng nóng bỏng, đang hiển hiện trước mắt, trong thế giới đầy biến động, cạnh tranh và thách thức quyết liệt này?!
Theo thiển nghĩ của tôi, có nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân chính, cơ bản, cốt lơi, quyết định nhất, như tôi đă lư giải trong bài viết cách đây gần hai năm, ngày 30-4-2022, là do Đảng CSVN, người đang gánh vác trọng trách lănh đạo đất nước, dù đă có nghị quyết về đổi mới toàn diện và đồng bộ, vẫn chưa thực hiện đổi mới thật sự về chính trị, vẫn kiên tŕ níu giữ mô h́nh quản lư đất nước cũ - hệ thống chính trị hiện hành - theo quan điểm Mác - Lênin, XHCN, thực chất là Đảng trị, độc quyền, không dân chủ, đă quá lẻ loi, lạc lơng, lỗi thời trên thế giới.
Đây chính là điều đă và đang ngăn cản dân tộc ta hàn gắn vết thương nội chiến, thực hiện ḥa giải, ḥa hợp, đại đoàn kết.
CHUYỆN ÍT AI BIẾT: VNCH ĐĂ CỨU TRỢ NHÂN ĐẠO CHO MIỀN BẮC TRONG TRẬN LỤT NĂM 1971
Cứu trợ nhân đạo cần vượt qua thể chế, chính kiến, thậm chí "kẻ thù" trong chiến tranh!
Ngày nay chúng ta thường xuyên đọc tin Hàn Quốc viện trợ nhân đạo để cứu đói Bắc Triều Tiên, dù chính quyền Kim Jong Un luôn dùng những lời lẽ thấp kém để nhục mạ cả tổng thống và thể chế chính trị của họ.
Ít người biết chế độ VNCH, ngay trong thời điểm chiến tranh 2 miền khốc liệt, nhưng khi miền Bắc xảy ra lũ lụt cực lớn vào năm 1971, họ đă cho phép báo Tin Sáng (một tờ báo đối lập) lạc quyên ủng hộ đồng bào miền Bắc. Không chỉ vậy, chính quyền VNCH khi đó thông qua Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, cũng trợ giúp người dân thuộc "kẻ thù" của họ. Trang lưu trữ Thời báo New York c̣n ghi:
"SAIGON, Nam Việt Nam, Thứ Ba, ngày 7 tháng 9 — Chính phủ Nam Việt Nam đă cung cấp thực phẩm và tiền bạc cho các nạn nhân của trận lũ lụt nặng nề ở miền Bắc Việt Nam ở khu vực xung quanh Hà Nội, Bộ Ngoại giao Sài G̣n thông báo tối qua.
Đây là lần đầu tiên Chính quyền Sài G̣n viện trợ như vậy cho kẻ thù của họ ở miền Bắc.
Thông cáo của Bộ Ngoại giao đă đề nghị 50.000 đô la cho Hội Chữ thập đỏ Quốc tế để mua “những vật phẩm cần thiết cho việc cứu trợ ở miền Bắc”.
Ngoài ra, Nam Việt Nam c̣n tặng 500 tấn gạo và 1.000 hộp (thùng) sữa đặc nhằm thể hiện sự đồng cảm “t́nh anh em” giữa hai nửa Việt Nam bị chia cắt.".
Tất nhiên đây là tầm của một quốc gia, cá nhân th́ không đáng nói. Nhưng quyên góp nhân đạo là hành vi bất vụ lợi, v́ vậy nếu bạn có ḷng bi mẫn th́ hăy mở ḷng, bất chấp người giúp bạn làm cầu nối với nạn nhân là ai, chính kiến ra sao.
Đó mới thực là Thiện Nguyện!
- Nguyễn Đ́nh Bổn -
...Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cụ Hồ đă bắt tay vào việc "đền bù xứng đáng" cho nông dân bằng cuộc CCRĐ và nửa triệu người "được đền bù" bằng cách cho chết để đỡ khổ dai dẳng. Sau này cụ c̣n đền bù cho dân bằng cách phát tem phiếu thay cho lương thực.
Hồi ấy người ta giải thích rằng có chiến tranh nên mới thế, nhưng cả nước có chiến tranh th́ chỉ có nửa nước là miền Bắc "được phát" tem phiếu, khiến toàn dân đói dài. Trước khi cụ về tiếp quản các thành phố th́ gạo bán ê hề chẳng có người mua, cụ về vài ba ngày th́ gạo đi đâu hết. Trước đó c̣n có giống lúa tám thơm là loại đặc sản duy nhất chỉ có nước ta có. Cụ về th́ hết giống này. Rồi cụ c̣n thi hành chính sách đổi tiền làm dân lao đao. Có điều này là cụ lừa những công chức của chế độ cũ mà không thấy nhà viết sử nào nêu ra: đó là trước khi về tiếp quản thù đô th́ cụ tuyên bố công chức lưu dung được giữ nguyên lương của chế độ cũ, nhưng vài tháng sau th́ cụ cho "hưởng" lương bao cấp của kháng chiến. Cụ là tên lừa đảo số một của nước ta. Không biết có bao nhiêu tác phẩm các loại như văn học, báo chí, nhạc, họa, điêu khắc ca ngợi cụ, nhưng chỉ biết số người chết trong CCRĐ là nửa triệu đă đủ tố cáo tội ác của cụ, hơn cả tất cả các loại h́nh ca ngợi cụ.
Đó là chưa kể đến cụ lừa t́nh. Không biết có bao nhiêu phụ nữ qua tay cụ? Cả tây lẫn ta và tàu, lại có cả phụ nữ dân tộc thiểu số thật thà như đếm, cũng là nạn nhân của cụ. chứng cớ rành rành ra đấy. Cái họa mất nước về tau TRung quốc chính là ở cụ đặt quan hệ t́nh hữu nghị Việt-Trung. Đáng lẽ tiền xây mả nổi cho cụ th́ phài dành để xây nhà hay xây bệnh viện cho dân mới phải.
Thật ra, trong quá khứ, sau 30/5/1975, nhà cầm quyền Bắc Việt Cộng Sản đă từng "buôn người" hợp pháp, mang về cho họ những khoản kếch xù. Mời quư vị theo dơi một phần, được lược trích trong tác phẩm "Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức
ĐI BÁN CHÍNH THỨC HAY PHƯƠNG ÁN II:
Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Cộng ngày càng tăng cao. Trung cộng lên án Việt Nam đàn áp Hoa Kiều và muốn đem Hoa Kiều về nước. Trong khi đó, Trung ương Đảng CSVN coi người Hoa là đạo quân thứ V và muốn “tương kế, tựu kế” để trả người Hoa về với Trung Cộng. Thêm vào đó, chính sách cải tạo công thương nghiệp đă đẩy người Hoa Chợ Lớn đi đến chỗ khánh kiệt và họ quyết định vượt biên thay v́ về với Trung Cộng mà với họ không khác ǵ xuống địa ngục.
Người Hoa ra đi ngày càng nhiều, chết trên biển cả rất nhiều, Việt Nam bị thế giới lên án. Để đối phó, Việt Nam tổ chức cho họ ra đi bán chính thức, người CS gọi là Phương Án II, ban đầu xem ra là một chủ trương thiện chí.
Phương án II là kế hoạch tuyệt mật, phổ biến miệng, chỉ có bí thư, chủ tịch và giám đốc CA thành phố HCM biết, sau này kế hoạch này được thực hiện ở các tỉnh thành phía Nam. Đó là chủ trương “đưa đối tượng ra khỏi điểm nóng”. Đối tượng ở đây là hàng triệu người Hoa chủ yếu sống ở Chợ Lớn. Theo đó, công an thu 8-10 lạng vàng cho một đầu người, rồi dùng tiền để mua tàu hay đóng tàu, tổ chức bến băi rồi đẩy họ ra biển với cam kết không bắt tàu trong lănh thổ Việt Nam.
MẶT TRÁI CỦA PHƯƠNG ÁN II:
Khi những thuyền nhân đă đến các trại tỵ nạn an toàn th́ Phương Án II không c̣n giấu được thế giới. Thủ tướng buộc cho dừng vào tháng 12/1978 rồi phải dời sang tháng 5/1979 do số tàu đă đóng cả trăm chiếc từ vàng thu của các thuyền nhân.
Phương Án II bắt đầu biến tướng. Người Việt với giấy tờ của người Hoa ra đi rất nhiều. Các tỉnh không có bờ biển cũng xin được làm Phương Án II. Thấy Phương Án II ngoài tầm kiểm soát, 20/03/1981 ông Trường Chinh (Chủ tịch nước) đă cho lập Ban Kiểm Tra 69 với mục đích chính là kiểm tra việc thu vàng. Kết quả điều tra của Ban 69 khác xa với báo cáo của Bộ Nội Vụ đă cho thấy Phương Án II đă làm hư hỏng công an CS rất nhanh chóng.
Theo Ban 69, từ tháng 8/78 đến tháng 6/79 có 533 thuyền ra đi mang theo 134,322 người, thu được 16,181 Kg vàng (16 Tấn!) chưa kể ngoại tệ, nhà cửa được đóng thay cho vàng. Có 105 sĩ quan CA bị kỷ luật. Tất cả các tỉnh đều mắc tội gian lận và lập quỹ đen. Nghiêm trọng nhất phải kể đến tỉnh Minh Hải giấu 48, 195 lượng, Cửu Long giấu 27,000 lượng, Nghĩa B́nh giấu 27,000 lượng, Phú Khánh 10,987 lượng…
Công an các tỉnh thu vàng nhưng bội tín làm nhiều người mất cả vàng và cả nhà khi theo đuổi Phương Án II, số người này lên đến 18,435 người. Phương Án II chỉ thực sự phá sản khi công an giao cho các thuyền nhân những con tàu không an toàn và nhét vào đó số lượng vượt quá tải trọng của con tàu. Tàu ch́m ngay khi vừa rời bến làm hàng trăm người chết. Đắm tàu Cát Lái là một trường hợp tiêu biểu của một kiểu buôn người có giấy phép.
TANG THƯƠNG CÁT LÁI:
Một ngày thứ Bảy giữa năm 1979, cảng Cát Lái bất thường với hàng trăm công an canh gác nhiều ṿng trong và ngoài cảng. Bên trong, một con tàu dài 30m, rộng 10m, 3 tầng, sáng bóng vẫn c̣n mùi sơn mới. Tàu này nguyên thủy là một chiếc tàu kéo với khoang chứa đá để giữ thăng bằng được thay bằng khoang chứa nước. Cấu trúc các khoang đươc thay đổi để chứa được nhiều người nhất có thể được. Máy được thay mới để tăng sức kéo. Người đóng tàu dường như chỉ quan tâm đến khả năng nhét đủ số người chứ không tính toán khoa học về tải trọng của tàu và sự cân bằng khi hoạt động.
Đúng giờ hẹn, đám đông đă nằm suốt đêm tại cảng bắt đầu sốt ruột và tiến về con tàu. Người trưởng tàu bắt loa điểm danh, chỉ chờ như vậy đám đông lũ lượt nhanh chóng tràn xuống tàu. Với khoảng 280 người, con tàu ngay lập tức mất ổn định. Những thuyền nhân ngồi khoang dưới không chịu nổi nóng bức, khó thở đă leo lên trên mui ngồi làm cho con tàu thêm chao đảo. Tất cả những người trên thuyền, kể cả thuyền trưởng do không có kinh nghiệm sông nước, bắt đầu hoảng loạn, t́m đường thoát ra khỏi tàu. Con tàu chúi mũi xuống và từ từ cắm sâu vào trong bùn ở đáy sông. Những người ở tầng 1 và 2 không có đường thoát. Tiếng thét gào trên thuyền và tiếng kêu cứu bất lực trên bờ tạo nên một âm thanh thê lương bao trùm một vùng quê yên b́nh, để rồi thoáng chốc chỉ c̣n lại những tiếng khóc nấc nho nhỏ của những cư dân sống rải rác trên bờ sông Cát Lái.
Hết rồi! Chết hết cả rồi!
Nhà cầm quyền lúc đó đă cho điều hai cần cẩu 60 tấn từ Vũng Tàu vào. Sau hai ngày di chuyển và ba ngày vật lộn, cần cẩu đă kéo con tàu xấu số lên khỏi mặt nước và cũng từ đây người ta biết chính xác có 227 người chết và hơn 40 người trở về từ cơi chết nhưng tất cả như những người mất trí trước thảm kịch gia đ́nh. Xác chết nối tiếp xác chết, dăy ḥm gom vội khắp nơi cùng mùi tử thi khiến người ta phải thốt lên: ai đă đem một Tết Mậu Thân nữa đến với người dân Sài G̣n hiền ḥa?
Những người khâm liệm kể rằng trong số xác được vớt lên người ta thấy có 4 người mẹ ôm chặt con ḿnh trong ḷng như những nỗ lực cuối cùng với hy vọng giữ được đứa con thơ để hai mẹ con cùng nhau đoàn tụ ở bên kia thế giới. Trân trọng t́nh mẫu tử thiêng liêng, những người khâm liệm đă để cho hai mẹ con yên nghĩ cùng nhau trong một cỗ quan tài khô lạnh. Tất cả những người xấu số đă được an táng tại một khu đất cách cầu Giồng Ông Tố 500m.
Phương Án II không chỉ có một Cát Lái bi thảm. Theo báo cáo của Ban 69, chỉ trong ṿng 1 năm có 9 tàu ch́m làm chết 902 người khi những con tàu này chưa ra khỏi phao số 0. Thử điểm lại vài trường hợp đau ḷng: Bến Tre có 1 tàu ch́m với 54 người chết, Long An có 1 tàu ch́m với người 38 chết, Nghĩa B́nh 1 tàu ch́m với 78 người chết nhưng khủng khiếp nhất là Tiền Giang có 3 tàu ch́m với 504 người chết.
(Nguyen Tuan Khoa lược trích)
Tham khảo:
Bên Thắng Cuộc - Huy Đức
Buổi sáng một ngày cuối năm 1999 tại quán cà phê của anh Ba N..có một vị khách lạ đầy vẻ bụi bặm phong trần. Anh ta vừa ngồi xuống ghế kêu một dĩa cơm sườn của chị Chín, một chai bia và một gói Hero (chị Chín bán cơm trước quán cà phê).
Anh ăn hết dĩa cơm uống xong chai bia rồi từ từ mở bao thuốc lá hút hết một điếu thuốc như đă cơn thèm xong anh lấy cây tăm xỉa vội cái hàm răng rồi khẽ kêu:
-Mấy chị ơi...
Chị Chín nhanh miệng hỏi:
- Tính tiền hả anh?
Người khách gật đầu:
-Dạ...nhưng tôi không có tiền.
Trong quán ai cũng trố mắt nh́n người khách tưởng anh nói chơi nhưng anh tỉnh bơ nói tiếp:
- Tôi không có tiền thiệt mà.. bây giờ mấy chị mấy anh muốn làm sao tôi cũng chịu.
Thế là mới buổi sáng đă gặp thằng ăn quỵt ...kiểu này ai mà không giận cả quán nhao nhao lên khi nghe tiếng la của chị Chín:
- Bà con ơi ...Mặt mũi sáng láng như vầy ai dè là đồ ăn quỵt.
Cái đồn công an xă Mỹ ḥa kế bên quán nên chỉ vài phút là anh ta được mấy anh công an xă mời về thẩm vấn. Anh Ba L trưởng công an xă nghiêm sắc mặt hỏi:
- Anh tên ǵ?
Anh ta lí nhí trả lời:
- Dạ tôi tên Nguyễn văn A nhà dưới Thốt nốt, mấy hôm nay vô Thoại Sơn cắt lúa mướn nhưng vụ đông xuân năm nay người ta toàn mướn xe liên hợp nên cắt lúa thủ công như tụi tui chẳng ai mướn như mọi năm. Ăn dầm nằm dề chờ thời cả chục ngày nên hết tiền về quê.Thú thiệt là tôi lội bộ 2 hôm rồi mới tới đây, v́ đói quá nên làm liều. Lúc ăn xong tôi cũng tính bỏ chạy rồi nhưng thấy cái đồn công an của mấy anh kế bên nên nghĩ chạy cũng không thoát nên đành...tự thú...Bây giờ giờ mấy anh bỏ tù tôi bao lâu cũng được. Dẫu sao trong tù cũng c̣n có cơm ăn.
Thấy bên ngoài mấy người hiếu kỳ đứng xem quá đông. Ai cũng trông coi anh trưởng Công an xă xử lư anh chàng ăn quỵt ra sao? Anh Ba L trách mắng :
-Lưng dài vai rộng như anh mà đi ăn quỵt của người ta. Đói tại sao hổng biết xin?
-Dạ em không dám xin v́ sợ không ai cho nên mới liều mạng ...
An Ba quát to:
- Tôi cho là v́ đói anh xin sợ người ta không cho nên anh ăn quỵt dĩa cơm. Nhưng tại sao anh c̣n kêu bia uống kêu gói hê rô?
- Dạ.. Thưa anh cả tuần nay không tiền nên thèm đủ thứ lỡ liều nên em liều luôn, với lại gói hero em chỉ hút 1 điếu mà anh. Bây giờ em lỡ ăn lỡ uống rồi anh bỏ tù em em cũng cam ḷng.
Anh Ba dằn giọng:
- Được rồi, anh muốn ở tù tôi sẽ cho anh ở tù. Đứa nào lấy c̣ng, c̣ng cha ăn quỵt này, tao đưa ra B4 cho khỏi ăn tết luôn.(B4 là cơ quan điều tra của TP Long Xuyên)
Thế là 2 tay anh A ăn quỵt được c̣ng lại và đích thân anh Ba L chở hắn ra B4, bà con thấy vậy ai cũng hả hê, đáng đời cho cái thằng ăn quỵt.
Anh Ba L chạy thẳng ra ngă tư đèn 4 Ngọn, rồi mở c̣ng cho anh chàng tội phạm đang ngơ ngác nh́n ḿnh. Anh vỗ vai anh ta rồi nói:
-Anh đừng sợ, ai mà không sa cơ lỡ vận.Ở đây anh đợi một chút là có xe về Thốt nốt. Lúc năy tôi giả bộ nạt nộ anh cho mấy bà đứng bên ngoài hả giận thôi.
Anh móc hết trong túi ra, c̣n mấy chục ngàn, đưa hết cho anh A, nói tiếp:
- Anh cầm tiền đi xe, bây nhiêu đây chắc dư rồi phải không. Mai mốt có lỡ bị như hoàn cảnh hôm nay cứ mạnh dạn xin bà con, ai mà không có tánh thiện, xứ này bà con tốt lắm. Đói th́ ḿnh xin, thà chịu mắc cỡ c̣n ơn mang tiếng ăn quỵt.Thôi chúc anh lên đường về quê ăn tết vui vẻ với gia đ́nh nhe!
Anh A nghẹn lời, trào nước mắt, không nói được câu nào, anh lí nhí nói lời cảm ơn, th́ xe đ̣ đă tới, anh phóng vội lên xe mà rơi rơi nước mắt.
Anh không ngờ cái chuyện bất ngờ đến với anh hôm nay.
Tưởng đâu đă vướng vô ṿng lao lư rồi, ai dè lúc ngàn cân treo sợ tóc anh được anh Trưởng công an xă không bắt nhốt mà c̣n ra tay, bỏ tiền túi ra cứu giúp.
Chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng bây giờ nhớ lại vẫn thấy ấm áp v́ T̀NH NGƯỜI là có thật :
- Một thứ giá trị BẢO HIỂM TRUYỀN THỐNG một DÂN TỘC..
Nguồn:Tuan Mai SG
Theo tôi thấy, th́ những kẻ hay dùng cái từ 3/// đó thường c̣n trẻ, đa số chưa đến 60, có nghĩa là vào năm 1975 chỉ c̣n là con nít. C̣n những người lớn tuổi hơn, thậm chí cả đảng viên, họ cũng nói một cách khác. Ngay cả từ Ngụy Quân và Ngụy Quyền cũng đă được chính thức gỡ xuống.
Cho rằng họ là những kẻ “chiến thắng” một cuộc chiến đi, nhưng tâm lư mặc cảm thua kém của họ vẫn thể hiện qua rất nhiều mặt. Những giá trị của xă hội thời VNCH vẫn c̣n đó, làm cho kẻ chiến thắng ăn ngủ không yên. Hằng triệu người Bắc di cư vào Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hằng triệu người khác vượt biển Đông để từ bỏ chế độ CS sau chiến thắng 1975.
Rồi sau 1975, bao nhiêu triệu người miền Bắc lũ lượt kéo vào miền Nam làm việc và sinh sống. Hà Nội là thủ đô, được đảng CS chăm sóc trước miền Nam những 30 cơ mà? Sao không có làn sóng dân Nam kéo về Hà Nội? Đảng tuyên truyền rằng nhờ Mỹ đổ tiền vô nên miền Nam phồn thịnh! Sao lại bảo là Mỹ ác lắm đem quân vô giết dân Việt.
Điều nào đúng? – Cả hai điều sai!
Nói rằng thiên nhiên miền Nam trù phù hơn. Đó là ngụy biện hoặc là dốt nát. Karl Marx đă sai lầm cơ bản ở điểm nầy khi xây dựng lư thuyết Cộng Sản. Theo lư thuyết đó, đất đai và phương tiện sản xuất là suối nguồn của sự giàu có, nên CS không cho tư nhân có quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất.
Nhưng thật ra sự phong phú nằm nơi con người, đất nước nào biết chăm sóc và trân trọng con người, đất nước đó sẽ hưởng được sự thịnh vượng. Hăy so sánh Nam và Bắc Hàn. Nam Việt và Bắc Việt cũng không ngoại lệ.
Miền Nam lúc nào cũng bị quân CS đánh phá và khủng bố, chính quyền dân chủ non trẻ với nhiều CS nằm vùng, mà vẫn xây dựng được cuộc sống hài ḥa cho người dân. Phát triển mọi mặt từ kinh tế, giao thông công cộng, y tế, giáo dục… Đó là lư do tại sao miền Nam thịnh vượng. Và cái tŕnh độ dân trí đó đă kéo miền Nam vượt lên hẳn so với Hà Nội.
Rồi những người miền nam liều ḿnh vượt biển để t́m con đường sống trong cái chết. Nếu chẳng may bị bắt trở lại th́ bị tù đầy với tội danh là “phản quốc”. Khi họ ổn định cuộc sống nơi nước ngoài, gửi những đồng tiền do chính sức lao động của họ về cho thân nhân ở trong nước th́ đảng lại gọi họ là “kiều bào”, “khúc ruột ngàn dậm”, nghe sự nịnh nọt trơ trẻn mắc ói!
C̣n mấy cái mồm tuyên truyền th́ kêu đi ra nước ngoài ăn bơ thừa sửa cặn… Nhờ những đồng tiền “bơ thừa sửa cặn” đó mà kinh tế VN vượt qua thời kỳ khô cằn do đường lối kinh tế XHCN, mọi thứ đều quốc doanh hóa, nhà nước quản lư hết… Đến lúc hết thở, nên nhà nước hết hồn, đành buông xả ra gọi là “đổi mới”!
Qua đó, có phải cái bóng mát của VNCH vẫn che cho dân trong những lúc khó khăn đó đến ngày hôm nay?
Vậy đó, Cộng Sản Bắc Việt vi phạm những hiệp ước quốc tế để giành chiến thắng nhưng những giá trị Nhân Bản của VNCH càng lúc càng âm ỉ đốt nóng những trái tim Việt Nam.
Các người cứ dùng lời lẽ sất xược để tỏ vẻ khinh miệt người khác càng làm lộ rơ các người dốt nát và kém văn hóa mà thôi. Cộng Sản Chủ Nghĩa là đỉnh cao của Xă Hội Chủ Nghĩa. Mà XHCN cũng vỡ tan theo liên bang Sô Viết rồi, c̣n Thiên Đàng Cộng Sản có nằm mơ cũng không gặp.
Vậy mà các người cố gào 3/// để làm cho ḿnh cao hơn ư? Rất tiếc cái chính nghĩa Cộng Ḥa đó vẫn sang măi trong ḷng dân Việt, nhất là nhân dân miền Nam. Có lẽ phải dùng đến những con số để chứng minh cho thấy cả guồng máy của nhà nước XHCNVN đă và đang sống dưới bóng mát của lá cờ mà họ gọi là 3/// đó.
Các người cứ lục tung hết sổ sách của cái gọi là “chính quyền XHCNVN” lên mà xem tổng ngân sách nhà nước dùng để trả lương cho toàn bộ công nhân viên chức nhà nước là bao nhiêu. Rồi các người xem con số đó có phải chưa bằng một nửa số tiền Việt Kiều gửi về hàng năm, trung b́nh là 10 tỷ USD, có năm cao hơn. Như vậy các người không ngủ dưới bóng mát của lá cờ vàng ba sọc đỏ là ǵ?
Tôi sẽ dẫn giải cho các người thấy, cả nước VN từ sau 1975 đến nay vẫn tiếp tục sống dưới bóng mát của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Từ ngày Sài G̣n bị “phỏng giái”, (người dân Miền Nam nói như vậy đó, nói lái là một nét đặc trưng trong văn hóa b́nh dân của dân Nam kỳ), th́ một mặt trận tiêu diệt Văn Hóa miền Nam được phát động rất quy mô và triệt để. Đó là trận chiến “Tẩy Năo” dân Miền Nam, nhằm loại bỏ tư tưởng và ư thức hệ Tự Do Dân Chủ. Tất cả văn hoá phẩm từ sách báo đến âm nhạc đều bi tiêu hủy và cấm đoán. Nhưng làm sao trói buộc được tư tưởng của con người chứ?
Nhà nhà nộp sách đem đốt, việc nầy không khó, nhưng cấm dân miền Nam hát những bản nhạc đă in sâu vào tim vào óc của họ th́ quả là không thể được. Khi mọi thứ đă hoang tàn đổ nát kể cả ḷng người dân lành, th́ những ḍng nhạc trữ t́nh khe khẻ quay trở về như làn gió nhiệm mầu xoa dịu bớt cái nổi thống khổ của đời thường XHCN. CSVN gọi ḍng nhạc đó là “Nhạc Vàng” để cân với ḍng “Nhạc Đỏ” sặc mùi chém giết mà giai điệu và tiết tấu mang đậm sắc thái TC. Nhưng tới hiện tại th́ họ trở nên ganh tị với cái tên gọi đó, v́ nó đích đáng và đúng trên nhiều khía cạnh.
“Nhạc Vàng” không cổ súy chiến tranh mà chỉ biểu lộ những đau thương của con người trong thời chiến. Vậy tại sao người ta cấm Nhạc Vàng? Có phải người ta sợ cái bóng dáng thiên thần dịu dàng và ngọt ngào đầy t́nh người sẽ làm hiện thân của Ác Quỷ nổi trội rỏ nét hơn chăng?
“Nhạc Vàng” một ṭa lâu đài văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa bất diệt, chẳng những không hoen rỉ qua thời gian mà c̣n lóng lánh hơn như một kho báu cho mọi tầng lớp con dân VN suốt 3 miền và kể cả những kẻ từng lên án, vùi dập lẩn sợ sệt nó. Bao nhiêu người đă khai thác cái kho báu vô tận nầy.
“Nhạc Vàng” loài hoa mỹ miều kiêu sa, mọc lên từ bom đạn chiến tranh, tồn tại qua bao sự vùi dập, thể hiện tính Nhân Bản của một xă hội đầy t́nh người, đáng được trân quư như vàng. Hơn nữa thế kỷ qua, chưa có một đối thể nào lăm le đứng gần chứ đừng nói là soán ngôi.
“Nhạc Vàng”, một thứ phụ gia kỳ diệu, không thể thiếu được khi thưởng thức một ly cà phê ngon hay một chén trà thanh thoát. Một tay guitar và nhạc vàng luôn là tâm điểm cho những buổi nhậu b́nh dân.
“Nhạc Vàng”, một loại trầm hương hảo hạng cho bất kỳ cuộc họp mặt nào từ quê ra tỉnh, từ đám cưới đến đám tang, từ sân khấu đại nhạc hội hàng ngàn khán thính giả đến quán cà phê dăm ba người cuối phố, thậm chí là niềm giải trí duy nhất trong chốn lao tù…
“Nhạc Vàng”, là ánh lửa rực rỡ của con Phượng Hoàng hồi sinh từ tro bụi sau khi những người nhân danh CSCN đă giết nó bằng mọi khả năng của họ. Ánh lửa đó đă bùng lên, lan tỏa đến từng trái tim của chính những người mang danh hiệu là Đảng Viên ĐCSVN, bất luận là ở đâu, Nghệ Tỉnh, Hà Nội hay Sài G̣n!
Nói măi về “Nhạc Vàng” VNCH không bao giờ cạn ư.
Nếu những lời lẽ quanh co trên đây chưa thực sự vẻ ra cái bóng mát của lá cờ vàng, chưa chứng minh được âm nhạc VNCH là Vàng ṛng 24 kara th́ tôi xin được dẩn quư vị vào yếu tố kinh tế của Nhạc Vàng vậy.
Từ hải ngoại đến quốc nội, bao nhiêu doanh nghiệp phát triển nhờ Nhạc Vàng, bao nhiêu ca sĩ thành danh và nên sự nghiệp, bao nhiêu người trở nên giàu có, bao nhiêu công ăn việc làm cho cái kỹ nghệ âm nhạc nầy, từ thời băng từ, đến đĩa từ, CD, kế đến phong trào Karaoke, bao nhiêu kỹ thuật viên, pḥng thâu, ca nhạc sĩ, cơ sở sản xuất, phát hành, bán sĩ lẻ, thiết bị âm thanh, v.v… và v.v…
Bao nhiêu Đại Nhạc Hội, tụ điểm ca nhạc… Biết bao nhiêu ca sĩ, từ Bắc chí Nam đă thành triệu phú đô la nhờ vào cái bị gọi là ”Văn Hóa Nô Dịch” đó.
“Nhạc Vàng” đă tham gia với người dân cả nước trong việc mưu sinh hàng ngày, từ quán cà phê, đến hang loạt xe đ̣ đường dài, đến anh bán kẹo kéo, đến những em bán hàng rong hằng đêm trên phố, đến những người hành khất... Lớp học hát, học đàn nở rộ, tiệm sản xuất đàn guitar gia tăng, quán cà phê nhạc sống, b́nh dị mà trữ t́nh ngày càng phổ biến.
Một chiếc điện thoại thông minh, một cái mi-crô không dây, khách ngồi uống nước mía bên vệ đường cũng có thể chia sẻ với nhau một bản t́nh ca… ấm áp. Cái bóng mát đó càng ngày càng mở rộng ra trên nhiều lănh vực của cuộc sống và địa phưong, lan dần đến tận các tỉnh miền Bắc… Đó không phải là bóng mát từ nên âm nhạc Việt Nam Cộng Ḥa th́ là ǵ, lửa hỏa ngục chăng?
Tôi đă thấy, ca sĩ bậc nhất ĐVH, tranh thủ cho ra mắt 2, 3 album nhạc vàng trong ṿng một tháng, hát giành hát giựt, sợ ca sĩ khác hát trước, mất số bán. Như một tên ăn trộm, khám phá ra kho báu, hốt vội hốt vàng, nhạc vàng là vàng rồng đó.
Tôi đă thấy cũng ĐVH hát “Cho một người nằm xuống”, dĩ nhiên là hát để thu tiền, có bao giờ ĐVH nghĩ đến những trái ngọt nầy do ai vun trồng mà nên? Sao không hát cho người thương binh VNCH c̣n sống vất vưởng ngày hôm nay. Mang danh một điva, một nghệ sĩ, ĐVH nếu có tâm hồn nghệ sĩ, sao không dám một có lần tri ân những người đă nằm xuống để bảo vệ cho thể chế đă sản sinh ra cái kho báu âm nhạc nầy. Phải chăng v́ không có tâm hồn mà chỉ hát v́ ḷng tham nên bị người đời gọi là Ca Nô?
Tôi đă xem video clip của đại ca… sĩ Ngọc Sơn, đại gia từ nhạc vàng, hát trong một hội trường đầy ấp khán giả là quân đội mặc quân phục đại cán, ngực đầy huân chương “cách miệng”. Những ca khúc nhạc vàng cất cao, cả hội trường đứng dậy, hai tay đưa lên cao, đung đưa theo ḍng nhạc…
Các vị đa số là đảng viên, các vị chắc đă học tập lư luận nhiều lắm, quư vị có thấy một nghịch lư vô cùng to lớn ở đây không? Hoặc là các vị có thấy xấu hổ trong ḷng không? Cái mà quư vị diệt tận, giết sạch ngày hôm qua, th́ hôm nay ngồi dưới cái bóng mát của cái “xác khô” VNCH mà chia sẽ hương thơm ngào ngạt của nó.
Các người là kẻ chiếm và thắng, các người hành hạ, chà đạp kẻ thất cơ lỡ vận nhiều rồi, chúng tôi không màng, lịch sử sẽ có lúc trả lại công đạo.
Nếu quư vị mạt sát VNCH th́ móc cổ mà ói ra hết những ǵ quư vị nuốt vô từ nền văn hóa VNCH đi.
C̣n như quư vị trơ trẻn, miệng th́ mỉa mai: “đu càng, ba que, quần què” mà giành nhau đưa tay vào chắm mút, chúng tôi khinh lắm.
Hoàng Ngọc Mai.
vBulletin® v3.8.9, Copyright ©2000-2025, vBulletin Solutions, Inc.