Gibbs
08-30-2025, 13:15
Hôm tàu rời bến, Kallstadt chỉ c̣n lại sau lưng tiếng chuông nhà thờ và mùi đất ướt. Elisabeth nắm tay chồng, trong bụng là một mầm sống sẽ mang họ Trump sang bờ bên kia. New York đón họ bằng khói than và cơ hội. Một đời khác bắt đầu từ ngày 30 tháng 6 năm 1905: căn nhà thuê chật hẹp, những hóa đơn, những dự định mở hiệu nhỏ, rồi một đứa bé trai ra đời tháng Mười—Fred—sẽ lớn lên giữa tiếng búa và gạch của những khu dân cư mới.
Friedrich làm việc, tích cóp, đôi khi ngước nh́n về hướng đông như thể có thể thấy qua đại dương làng Kallstadt thu nhỏ trong đáy mắt. Năm 1918, cơn cúm đen quét qua như một lưỡi dao vô h́nh, và ông nằm xuống sớm hơn dự định.
Friedrich (sau này dùng “Frederick”) Trump—từng bị chính quyền Bavaria buộc rời khỏi quê nhà sau khi ông quay về Đức đầu thập niên 1900. Ông sinh năm 1869 tại Kallstadt (Bavaria), rời Đức sang Mỹ năm 1885 khi mới 16 tuổi. Ở Mỹ, ông làm thợ cắt tóc tại New York, rồi đi Seattle và lên vùng Klondike/Yukon mở nhà trọ–nhà hàng (nhiều nguồn ghi có kèm dịch vụ mại dâm) và tích lũy vốn. Năm 1901 ông về lại Kallstadt, 1902 cưới Elisabeth Christ và xin ở lại Đức.
Nhưng v́ đă rời Đức khi chưa hoàn thành nghĩa vụ quân sự và không khai báo việc xuất cảnh, chính quyền Bavaria năm 1905 ra quyết định tước quyền cư trú và lệnh trục xuất trong ṿng 8 tuần. Ông viết thư khẩn khoản gửi Hoàng thân Nhiếp chính Luitpold xin tha nhưng bị bác.
Ngày 30/6/1905, ông cùng vợ rời Đức trở lại New York; con trai Fred Trump (cha của Donald Trump) chào đời tháng 10/1905.
https://lh3.googleuserconten t.com/pw/AP1GczMw9USiLufY2u14 3E3YyF5tol2wx8ohPstl WBjxsPPCRou59XAt3MBu-y4BqZWRSc-ceCO5aquhFU6YRDDBDCN STXgwlv1GzK7WIIYKNMG fXLoRTCdVmacX_mb9JEG 5Mdfs365VLfYpch3TmUw XXJ3BGQ=w900-h600-s-no-gm?authuser=0
Chiều ấy, trong Pḥng Bầu dục lấp lánh ánh đèn, Thủ tướng Đức đặt lên bàn Resolute một chiếc hộp gỗ sồi nhỏ, nắp khắc h́nh chùm nho Kallstadt. “Một món quà từ quê hương rượu vang của chúng tôi,” ông mỉm cười. Trump mở nắp, thấy bên trong là một chai Riesling, một tấm bản đồ Bavaria cũ và—được kẹp trong khung kính—bản sao sắc lệnh trục xuất năm 1905 mang dấu triện đỏ thẫm, cái ngày Friedrich Trump bị buộc rời khỏi xứ v́ không hoàn tất nghĩa vụ quân sự và thủ tục cư trú.
Không khí chùng xuống trong một nhịp tim rồi bật lên bằng tiếng cười xă giao. Thủ tướng nói bằng giọng nhẹ như một lời nhắc: “Lịch sử luôn biết đường quay lại, thưa Tổng thống—đôi khi bằng rượu ngon, đôi khi bằng giấy tờ.” Trump cầm khung kính, soi nghiêng trước ánh đèn như thể có thể nh́n thấy cả con đường tuyết mỏng dẫn ra ga tàu Kallstadt, nơi một người đàn ông trẻ đă rời đi với túi hành lư nhỏ và ước mơ lớn. Báo chí chụp ảnh; các cố vấn đổi chủ đề; nhưng món quà đă hoàn thành sứ mệnh ngoại giao của nó: tinh tế, khó lăng quên, và đủ sắc để gợi câu hỏi. Ở bên lề buổi tiếp, một tùy viên Đức th́ thầm với đồng nghiệp Mỹ rằng nước Đức coi nghĩa vụ là xương sống của trật tự—và trốn nghĩa vụ, thời ấy, là đụng vào nền móng; không phải chuyện “xin bỏ qua” được. Trump đặt khung kính xuống, ngón tay gơ một nhịp lên mép bàn như cân đo giữa di sản và hiện tại. “Tổ tiên tôi đă bị đẩy ra,” ông nói, nửa đùa nửa thật, “rồi bây giờ tôi lại ngồi đây tiếp các ông.” Thủ tướng đáp: “Đấy là điều đẹp đẽ của lịch sử: nó nghiêm khắc, nhưng cũng hào phóng với những ai biết biến một cánh cửa đóng thành cả ṭa nhà mở.” Họ cụng ly Riesling, khung kính nằm yên như một chiếc gương nhỏ phản chiếu hai lục địa: một bên là luật tắc lạnh lùng đầu thế kỷ XX, một bên là câu chuyện Mỹ—không phải lúc nào cũng dịu dàng, nhưng biết cách biến lá đơn trục xuất thành tấm vé hồi môn cho một triều đại chính trị. Và trong tiếng máy ảnh lạch tạch, món quà ấy—nửa rượu vang, nửa kư ức—bỗng trở thành bài học không lời: quốc gia có trí nhớ dài, và tương lai luôn khéo tay khi ráp nối những mảnh ghép gồ ghề của quá khứ.
Một ṿng tṛn kỳ lạ của lịch sử: ngày xưa, Bavaria đóng dấu đuổi Friedrich Trump khỏi quê nhà v́ ông bỏ xứ khi chưa làm tṛn quân dịch; hơn một thế kỷ sau, tại Washington, người cháu đứng đầu Nhà Trắng đang cố gắng viết nên một chương di trú mới, cũng bằng con dấu, và lệnh trục xuất. Ngay ngày nhậm chức 20/1/2025, ông kư những sắc lệnh dựng lại bức tường pháp lư: mở rộng “trục xuất nhanh” (expedited removal) ra toàn lănh thổ đối với những ai không chứng minh được đă ở Mỹ từ hai năm trở lên; thu hẹp mạnh lối vào tị nạn; treo lại nhiều cơ chế cưỡng chế khiến lằn ranh “bước vào nước Mỹ” bỗng trở thành một phép thử tức khắc của giấy tờ và kư ức.
Tháng 4–5, chính quyền c̣n điều động binh sĩ ra biên giới để “khóa cửa” theo cách chưa từng có tiền lệ thời hiện đại, như một tín hiệu rằng chiến lược lần này không chỉ là di trú mà là “an ninh nội địa” theo nghĩa thô ráp nhất.
Trong các buổi mít-tinh và thông cáo, thông điệp lặp đi lặp lại: “sẽ trục xuất hàng triệu”. Con số chạy trên truyền h́nh gây ấn tượng mạnh, nhưng nếu soi vào dữ liệu, bức tranh hiện tại có hai lớp: theo Bộ An ninh Nội địa, “1,6 triệu người đă rời dân số Hoa Kỳ” trong chưa đầy 200 ngày—một cách nói gom cả người tự rời đi, bị ngăn chặn, bị đẩy trả nhanh ở biên giới, lẫn những ca thực sự bị trục xuất.
C̣n nếu tính riêng “removals” (trục xuất theo nghĩa kỹ thuật của ICE), các số liệu công bố/được báo chí trích dẫn th́ khoảng gần 200.000 ca đến cuối tháng 8—tốc độ cao nhất trong nhiều năm.
Trên mặt pháp lư, đ̣n gió cũng gặp đ̣n gió ngược. Ngày 29–30/8, Thẩm phán liên bang Jia Cobb chặn tạm thời việc mở rộng expedited removal vào nội địa v́ lo ngại vi phạm Tu chính án thứ Năm về thủ tục tố tụng: những người đă sống sâu trong nước Mỹ có “lợi ích tự do” đáng kể, không thể bị cuốn khỏi đời ḿnh chỉ bằng một biên bản rút gọn. Phán quyết này trở thành vật cản lớn cho kế hoạch “hàng triệu” trong năm đầu, buộc Nhà Trắng và DHS phải tính lại nhịp độ và quy tŕnh.
Dẫu vậy, cỗ máy vẫn chuyển động: các chiến dịch tăng cường ở “thành phố trú ẩn”, khôi phục/siết các chương tŕnh hợp tác địa phương với ICE, và cả những đề án gây tranh căi như đưa người xin tị nạn đến nước thứ ba ở châu Phi—tất cả tạo thành bầu khí quyển răn đe bao quanh biên giới và nội địa, nơi một cuộc gọi gơ cửa lúc rạng sáng có thể trở thành ranh giới giữa gia đ́nh sum họp và chiếc ghế trống trên bàn ăn.
Ở tầm biểu tượng, người ta dễ liên tưởng đến tờ giấy năm 1905 ở Kallstadt: khi một nhà nước đă quyết định rằng “trật tự” là xương sống, th́ giấy tờ sẽ được dùng như xương sườn bảo vệ nó. Nhưng cũng chính ở nước Mỹ hiện tại, ṭa án liên bang nhắc rằng “trật tự” không thể nuốt chửng “thủ tục công bằng”. Thế nên bức tranh 2025 không phải một màu: giữa lời hứa “hàng triệu” và con số trên bảng thống kê là một cuộc kéo co—chính trị kéo về phía tốc độ, pháp quyền kéo về phía chính xác; và ở giữa là con người, với những cái tên phải học cách phát âm ở xứ sở mới, những chiếc vali cũ, những đứa trẻ hát quốc ca bằng hai thứ tiếng. Câu chuyện v́ thế không chỉ là ai bị đưa đi, mà c̣n là quốc gia này chọn giữ lại điều ǵ của chính ḿnh: biên giới chắc tay, hay quy tŕnh chắc lư.
Có lẽ, lịch sử không ṿng tṛn hoàn hảo; nó là cái compa rung tay trên mặt giấy. Đường vẽ của 1905 và 2025 giao nhau ở chỗ này: một phía tin rằng nghĩa vụ là không thể mặc cả; phía kia tin rằng quyền hiến định là không thể giản lược. Và tương lai sẽ được định h́nh ở nơi hai niềm tin ấy học cách cùng tồn tại—hoặc va chạm đến mức khiến tất cả chúng ta phải xem lại ư nghĩa của từ “công bằng” trong một đất nước nhập cư.
Friedrich làm việc, tích cóp, đôi khi ngước nh́n về hướng đông như thể có thể thấy qua đại dương làng Kallstadt thu nhỏ trong đáy mắt. Năm 1918, cơn cúm đen quét qua như một lưỡi dao vô h́nh, và ông nằm xuống sớm hơn dự định.
Friedrich (sau này dùng “Frederick”) Trump—từng bị chính quyền Bavaria buộc rời khỏi quê nhà sau khi ông quay về Đức đầu thập niên 1900. Ông sinh năm 1869 tại Kallstadt (Bavaria), rời Đức sang Mỹ năm 1885 khi mới 16 tuổi. Ở Mỹ, ông làm thợ cắt tóc tại New York, rồi đi Seattle và lên vùng Klondike/Yukon mở nhà trọ–nhà hàng (nhiều nguồn ghi có kèm dịch vụ mại dâm) và tích lũy vốn. Năm 1901 ông về lại Kallstadt, 1902 cưới Elisabeth Christ và xin ở lại Đức.
Nhưng v́ đă rời Đức khi chưa hoàn thành nghĩa vụ quân sự và không khai báo việc xuất cảnh, chính quyền Bavaria năm 1905 ra quyết định tước quyền cư trú và lệnh trục xuất trong ṿng 8 tuần. Ông viết thư khẩn khoản gửi Hoàng thân Nhiếp chính Luitpold xin tha nhưng bị bác.
Ngày 30/6/1905, ông cùng vợ rời Đức trở lại New York; con trai Fred Trump (cha của Donald Trump) chào đời tháng 10/1905.
https://lh3.googleuserconten t.com/pw/AP1GczMw9USiLufY2u14 3E3YyF5tol2wx8ohPstl WBjxsPPCRou59XAt3MBu-y4BqZWRSc-ceCO5aquhFU6YRDDBDCN STXgwlv1GzK7WIIYKNMG fXLoRTCdVmacX_mb9JEG 5Mdfs365VLfYpch3TmUw XXJ3BGQ=w900-h600-s-no-gm?authuser=0
Chiều ấy, trong Pḥng Bầu dục lấp lánh ánh đèn, Thủ tướng Đức đặt lên bàn Resolute một chiếc hộp gỗ sồi nhỏ, nắp khắc h́nh chùm nho Kallstadt. “Một món quà từ quê hương rượu vang của chúng tôi,” ông mỉm cười. Trump mở nắp, thấy bên trong là một chai Riesling, một tấm bản đồ Bavaria cũ và—được kẹp trong khung kính—bản sao sắc lệnh trục xuất năm 1905 mang dấu triện đỏ thẫm, cái ngày Friedrich Trump bị buộc rời khỏi xứ v́ không hoàn tất nghĩa vụ quân sự và thủ tục cư trú.
Không khí chùng xuống trong một nhịp tim rồi bật lên bằng tiếng cười xă giao. Thủ tướng nói bằng giọng nhẹ như một lời nhắc: “Lịch sử luôn biết đường quay lại, thưa Tổng thống—đôi khi bằng rượu ngon, đôi khi bằng giấy tờ.” Trump cầm khung kính, soi nghiêng trước ánh đèn như thể có thể nh́n thấy cả con đường tuyết mỏng dẫn ra ga tàu Kallstadt, nơi một người đàn ông trẻ đă rời đi với túi hành lư nhỏ và ước mơ lớn. Báo chí chụp ảnh; các cố vấn đổi chủ đề; nhưng món quà đă hoàn thành sứ mệnh ngoại giao của nó: tinh tế, khó lăng quên, và đủ sắc để gợi câu hỏi. Ở bên lề buổi tiếp, một tùy viên Đức th́ thầm với đồng nghiệp Mỹ rằng nước Đức coi nghĩa vụ là xương sống của trật tự—và trốn nghĩa vụ, thời ấy, là đụng vào nền móng; không phải chuyện “xin bỏ qua” được. Trump đặt khung kính xuống, ngón tay gơ một nhịp lên mép bàn như cân đo giữa di sản và hiện tại. “Tổ tiên tôi đă bị đẩy ra,” ông nói, nửa đùa nửa thật, “rồi bây giờ tôi lại ngồi đây tiếp các ông.” Thủ tướng đáp: “Đấy là điều đẹp đẽ của lịch sử: nó nghiêm khắc, nhưng cũng hào phóng với những ai biết biến một cánh cửa đóng thành cả ṭa nhà mở.” Họ cụng ly Riesling, khung kính nằm yên như một chiếc gương nhỏ phản chiếu hai lục địa: một bên là luật tắc lạnh lùng đầu thế kỷ XX, một bên là câu chuyện Mỹ—không phải lúc nào cũng dịu dàng, nhưng biết cách biến lá đơn trục xuất thành tấm vé hồi môn cho một triều đại chính trị. Và trong tiếng máy ảnh lạch tạch, món quà ấy—nửa rượu vang, nửa kư ức—bỗng trở thành bài học không lời: quốc gia có trí nhớ dài, và tương lai luôn khéo tay khi ráp nối những mảnh ghép gồ ghề của quá khứ.
Một ṿng tṛn kỳ lạ của lịch sử: ngày xưa, Bavaria đóng dấu đuổi Friedrich Trump khỏi quê nhà v́ ông bỏ xứ khi chưa làm tṛn quân dịch; hơn một thế kỷ sau, tại Washington, người cháu đứng đầu Nhà Trắng đang cố gắng viết nên một chương di trú mới, cũng bằng con dấu, và lệnh trục xuất. Ngay ngày nhậm chức 20/1/2025, ông kư những sắc lệnh dựng lại bức tường pháp lư: mở rộng “trục xuất nhanh” (expedited removal) ra toàn lănh thổ đối với những ai không chứng minh được đă ở Mỹ từ hai năm trở lên; thu hẹp mạnh lối vào tị nạn; treo lại nhiều cơ chế cưỡng chế khiến lằn ranh “bước vào nước Mỹ” bỗng trở thành một phép thử tức khắc của giấy tờ và kư ức.
Tháng 4–5, chính quyền c̣n điều động binh sĩ ra biên giới để “khóa cửa” theo cách chưa từng có tiền lệ thời hiện đại, như một tín hiệu rằng chiến lược lần này không chỉ là di trú mà là “an ninh nội địa” theo nghĩa thô ráp nhất.
Trong các buổi mít-tinh và thông cáo, thông điệp lặp đi lặp lại: “sẽ trục xuất hàng triệu”. Con số chạy trên truyền h́nh gây ấn tượng mạnh, nhưng nếu soi vào dữ liệu, bức tranh hiện tại có hai lớp: theo Bộ An ninh Nội địa, “1,6 triệu người đă rời dân số Hoa Kỳ” trong chưa đầy 200 ngày—một cách nói gom cả người tự rời đi, bị ngăn chặn, bị đẩy trả nhanh ở biên giới, lẫn những ca thực sự bị trục xuất.
C̣n nếu tính riêng “removals” (trục xuất theo nghĩa kỹ thuật của ICE), các số liệu công bố/được báo chí trích dẫn th́ khoảng gần 200.000 ca đến cuối tháng 8—tốc độ cao nhất trong nhiều năm.
Trên mặt pháp lư, đ̣n gió cũng gặp đ̣n gió ngược. Ngày 29–30/8, Thẩm phán liên bang Jia Cobb chặn tạm thời việc mở rộng expedited removal vào nội địa v́ lo ngại vi phạm Tu chính án thứ Năm về thủ tục tố tụng: những người đă sống sâu trong nước Mỹ có “lợi ích tự do” đáng kể, không thể bị cuốn khỏi đời ḿnh chỉ bằng một biên bản rút gọn. Phán quyết này trở thành vật cản lớn cho kế hoạch “hàng triệu” trong năm đầu, buộc Nhà Trắng và DHS phải tính lại nhịp độ và quy tŕnh.
Dẫu vậy, cỗ máy vẫn chuyển động: các chiến dịch tăng cường ở “thành phố trú ẩn”, khôi phục/siết các chương tŕnh hợp tác địa phương với ICE, và cả những đề án gây tranh căi như đưa người xin tị nạn đến nước thứ ba ở châu Phi—tất cả tạo thành bầu khí quyển răn đe bao quanh biên giới và nội địa, nơi một cuộc gọi gơ cửa lúc rạng sáng có thể trở thành ranh giới giữa gia đ́nh sum họp và chiếc ghế trống trên bàn ăn.
Ở tầm biểu tượng, người ta dễ liên tưởng đến tờ giấy năm 1905 ở Kallstadt: khi một nhà nước đă quyết định rằng “trật tự” là xương sống, th́ giấy tờ sẽ được dùng như xương sườn bảo vệ nó. Nhưng cũng chính ở nước Mỹ hiện tại, ṭa án liên bang nhắc rằng “trật tự” không thể nuốt chửng “thủ tục công bằng”. Thế nên bức tranh 2025 không phải một màu: giữa lời hứa “hàng triệu” và con số trên bảng thống kê là một cuộc kéo co—chính trị kéo về phía tốc độ, pháp quyền kéo về phía chính xác; và ở giữa là con người, với những cái tên phải học cách phát âm ở xứ sở mới, những chiếc vali cũ, những đứa trẻ hát quốc ca bằng hai thứ tiếng. Câu chuyện v́ thế không chỉ là ai bị đưa đi, mà c̣n là quốc gia này chọn giữ lại điều ǵ của chính ḿnh: biên giới chắc tay, hay quy tŕnh chắc lư.
Có lẽ, lịch sử không ṿng tṛn hoàn hảo; nó là cái compa rung tay trên mặt giấy. Đường vẽ của 1905 và 2025 giao nhau ở chỗ này: một phía tin rằng nghĩa vụ là không thể mặc cả; phía kia tin rằng quyền hiến định là không thể giản lược. Và tương lai sẽ được định h́nh ở nơi hai niềm tin ấy học cách cùng tồn tại—hoặc va chạm đến mức khiến tất cả chúng ta phải xem lại ư nghĩa của từ “công bằng” trong một đất nước nhập cư.