jojolotus
03-01-2011, 00:12
Bất chấp hàng ngh́n tỷ USD đă được tung ra, kinh tế Mỹ không thể tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho người Mỹ. Đến lúc chính phủ Mỹ thay đổi cách tung tiền cứu kinh tế.
Hiện nay, thị trường Mỹ chẳng có chút sức sống nào. Suy thoái kinh tế chính thức chấm dứt vào tháng 6/2009, thế nhưng Đại Suy thoái vẫn tiếp tục.
Từ khi chính phủ bắt đầu đánh giá về quy tŕnh kinh doanh, chưa lần nào suy thoái kinh tế lại đi kèm với thất nghiệp cao đến như vậy hay nói cách khác tăng trưởng việc làm trên thị trường không ngừng ở mức thấp.
http://images1.cafef.vn/Images/Uploaded/Share/2011/02/28/USD1802.jpg
Số lượng việc làm bị mất trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 cao hơn so với tổng 4 lần suy thoái kinh tế trước cộng lại. Trong số 8,8 triệu việc làm bị mất trong thời kỳ kinh tế suy thoái, nước Mỹ đă lấy lại khoảng 900 ngh́n việc làm trong năm 2010 và nhiều trong số này chỉ là việc làm tạm thời.
Số lượng việc làm toàn thời gian giảm sút, thời gian thất nghiệp dài hạn và số lượng giờ làm việc trung b́nh trong tuần giảm đủ để khiến người ta lo lắng về triển vọng kinh tế Mỹ.
Nhiều người hết sức ngạc nhiên về việc tại sao thị trường việc làm lại quá tồi tệ đến như vậy trong khi lợi nhuận doanh nghiệp ở mức cao bởi mối liên quan chặt chẽ giữa 2 yếu tố này. Miễn tăng trưởng của nhóm doanh nghiệp hàng đầu ở mức cao, các công ty không tập trung vào giảm chi phí để duy tŕ hay cải thiện lợi nhuận.
Tăng trưởng doanh thu kém trong thời gian dài, các công ty chẳng c̣n lựa chọn nào khác ngoài việc giảm chi phí, đặc biệt lao động. Các doanh nghiệp Mỹ hiện tập trung chủ yếu vào tăng năng suất lao động và lợi nhuận biên. Ngoài ra, yếu tố hoạt động kinh doanh tại nước ngoài cũng như hoạt động mua lại cổ phiếu lên mạnh, các công ty v́ thế công bố lợi nhuận cao mà không hề tuyển dụng.
Từ tháng 6/2010, các công ty Mỹ đă tuyển dụng 284 ngh́n lao động. Trên thực tế, tổng số lượng việc làm tại Mỹ ở thời điểm tháng 1/2011 thấp hơn 550 ngh́n so với con số vào tháng 6/2009. Hiện nay, kể cả trong tương lai xa, chưa có yếu tố nào thay đổi được nhận định của chủ tịch FED rằng thị trường việc làm đang trở thành mối lo lớn nhất đối với nước Mỹ.
Gần đây, theo số liệu mới công bố, nước Mỹ có thêm 36 ngh́n việc làm trong tháng 1/2011 (so với dự báo khoảng 148 ngh́n). Thông tin tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức 9% chỉ mang đến ảo tưởng bởi hơn nửa triệu người đă ngừng t́m kiếm việc làm. Thế nhưng người ta ngừng t́m kiếm việc làm không đồng nghĩa với việc họ đă chết. Họ đại diện cho nhóm mất quyền lực chi tiêu trong nền kinh tế.
Và trong số 8,4 triệu việc làm bán thời gian đă mất, tỷ lệ thất nghiệp tại các hộ gia đ́nh hiện khoảng 17%. Như vậy, 25 triệu người Mỹ đang thất nghiệp hoặc không được tuyển dụng.
Ở giai đoạn này của chu kỳ suy thoái kinh tế, không những không thể đảo ngược t́nh trạng thất nghiệp mà tỷ lệ thất nghiệp có thể lập đỉnh mới. Chuyên gia kinh tế David Rosenberg đă chỉ ra: “Chúng ta đă lấy lại được chỉ 12% số lượng việc làm đă mất dù chính phủ Mỹ đă tung ra kế hoạch kích thích tài khóa và tiền tệ mạnh tay nhất trong lịch sử nước Mỹ.”
Xu thế dài hạn đang ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng việc làm. Hoạt động thuê gia công, tự động hóa, chuyển việc làm toàn thời gian sang bán thời gian và thuê theo hợp đồng, mức lương thấp tŕ trệ. Công nghệ thông tin phát triển và cướp đi việc làm của con người ở nhiều công đoạn của quá tŕnh sản xuất, đặc biệt nhóm công việc theo lịch tŕnh và về bản chất lặp đi lặp lại.
Cuối cùng, khi chúng ta thoát khỏi suy thoái kinh tế khởi nguồn từ khủng hoảng tài chính, chúng ta đương đầu với rủi ro thất nghiệp cao sẽ mang tính chu kỳ. Cần nhớ, số lượng người lao động t́m kiếm việc làm tăng hàng năm bởi sinh viên tốt nghiệp và người nhập cư đến Mỹ ngày một nhiều.
Điều này đồng nghĩa với việc GDP cần tăng trưởng trên mức xu thế 3,3% nếu chúng ta muốn tuyển thêm lao động mới và tái tuyển dụng nhóm người đă bị sa thải trong thời kỳ kinh tế đi xuống trước đó. Nhiều chuyên gia dự báo tăng trưởng GDP thực của Mỹ trong vài năm tới chỉ ở mức 1 đến 2%, tỷ lệ thất nghiệp trung b́nh như vậy sẽ tăng lên.
Hiện không tồn tại giải pháp ngắn hạn nào cho vấn đề này. Giải pháp tốt nhất trong dài hạn, người ta cần phải hiểu nước Mỹ cần phát triển cơ sở hạ tầng, không chỉ tạo ra việc làm cho hàng trăm ngh́n người mà c̣n đảm bảo tăng trưởng cho lĩnh vực tư nhân. Dự án cần phải được điều chỉnh bởi ủy ban với đại diện của cả nhà nước và lĩnh vực tư nhân, dựa trên mức tính toán về lợi nhuận tối thiểu, trong dài hạn, người dùng cần phải trả tiền cho việc sử dụng của ḿnh.
Chi phí v́ vậy cần được coi như khoản đầu tư và không nên tính vào nợ nần, nếu có sẽ khiến thị trường trái phiếu bị chấn động. Kế hoạch cần nhận được sự ủng hộ từ cả 2 đảng lớn bởi chính người Mỹ cũng nhận thấy rằng hệ thống hạ tầng của họ đang đi xuống và bởi loại h́nh đầu tư này tác động lớn đến thị trường việc làm hơn bất kỳ loại h́nh chi tiêu nào.
Trách nhiệm tạo ra việc làm thuộc về tất cả các đảng phái chính trị. Hàng triệu người lao động sẵn sàng trở lại làm việc thế nhưng kỹ năng và kinh nghiệm của họ đang bị lăng phí.
Ngọc Diệp
Theo FT
Hiện nay, thị trường Mỹ chẳng có chút sức sống nào. Suy thoái kinh tế chính thức chấm dứt vào tháng 6/2009, thế nhưng Đại Suy thoái vẫn tiếp tục.
Từ khi chính phủ bắt đầu đánh giá về quy tŕnh kinh doanh, chưa lần nào suy thoái kinh tế lại đi kèm với thất nghiệp cao đến như vậy hay nói cách khác tăng trưởng việc làm trên thị trường không ngừng ở mức thấp.
http://images1.cafef.vn/Images/Uploaded/Share/2011/02/28/USD1802.jpg
Số lượng việc làm bị mất trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 cao hơn so với tổng 4 lần suy thoái kinh tế trước cộng lại. Trong số 8,8 triệu việc làm bị mất trong thời kỳ kinh tế suy thoái, nước Mỹ đă lấy lại khoảng 900 ngh́n việc làm trong năm 2010 và nhiều trong số này chỉ là việc làm tạm thời.
Số lượng việc làm toàn thời gian giảm sút, thời gian thất nghiệp dài hạn và số lượng giờ làm việc trung b́nh trong tuần giảm đủ để khiến người ta lo lắng về triển vọng kinh tế Mỹ.
Nhiều người hết sức ngạc nhiên về việc tại sao thị trường việc làm lại quá tồi tệ đến như vậy trong khi lợi nhuận doanh nghiệp ở mức cao bởi mối liên quan chặt chẽ giữa 2 yếu tố này. Miễn tăng trưởng của nhóm doanh nghiệp hàng đầu ở mức cao, các công ty không tập trung vào giảm chi phí để duy tŕ hay cải thiện lợi nhuận.
Tăng trưởng doanh thu kém trong thời gian dài, các công ty chẳng c̣n lựa chọn nào khác ngoài việc giảm chi phí, đặc biệt lao động. Các doanh nghiệp Mỹ hiện tập trung chủ yếu vào tăng năng suất lao động và lợi nhuận biên. Ngoài ra, yếu tố hoạt động kinh doanh tại nước ngoài cũng như hoạt động mua lại cổ phiếu lên mạnh, các công ty v́ thế công bố lợi nhuận cao mà không hề tuyển dụng.
Từ tháng 6/2010, các công ty Mỹ đă tuyển dụng 284 ngh́n lao động. Trên thực tế, tổng số lượng việc làm tại Mỹ ở thời điểm tháng 1/2011 thấp hơn 550 ngh́n so với con số vào tháng 6/2009. Hiện nay, kể cả trong tương lai xa, chưa có yếu tố nào thay đổi được nhận định của chủ tịch FED rằng thị trường việc làm đang trở thành mối lo lớn nhất đối với nước Mỹ.
Gần đây, theo số liệu mới công bố, nước Mỹ có thêm 36 ngh́n việc làm trong tháng 1/2011 (so với dự báo khoảng 148 ngh́n). Thông tin tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức 9% chỉ mang đến ảo tưởng bởi hơn nửa triệu người đă ngừng t́m kiếm việc làm. Thế nhưng người ta ngừng t́m kiếm việc làm không đồng nghĩa với việc họ đă chết. Họ đại diện cho nhóm mất quyền lực chi tiêu trong nền kinh tế.
Và trong số 8,4 triệu việc làm bán thời gian đă mất, tỷ lệ thất nghiệp tại các hộ gia đ́nh hiện khoảng 17%. Như vậy, 25 triệu người Mỹ đang thất nghiệp hoặc không được tuyển dụng.
Ở giai đoạn này của chu kỳ suy thoái kinh tế, không những không thể đảo ngược t́nh trạng thất nghiệp mà tỷ lệ thất nghiệp có thể lập đỉnh mới. Chuyên gia kinh tế David Rosenberg đă chỉ ra: “Chúng ta đă lấy lại được chỉ 12% số lượng việc làm đă mất dù chính phủ Mỹ đă tung ra kế hoạch kích thích tài khóa và tiền tệ mạnh tay nhất trong lịch sử nước Mỹ.”
Xu thế dài hạn đang ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng việc làm. Hoạt động thuê gia công, tự động hóa, chuyển việc làm toàn thời gian sang bán thời gian và thuê theo hợp đồng, mức lương thấp tŕ trệ. Công nghệ thông tin phát triển và cướp đi việc làm của con người ở nhiều công đoạn của quá tŕnh sản xuất, đặc biệt nhóm công việc theo lịch tŕnh và về bản chất lặp đi lặp lại.
Cuối cùng, khi chúng ta thoát khỏi suy thoái kinh tế khởi nguồn từ khủng hoảng tài chính, chúng ta đương đầu với rủi ro thất nghiệp cao sẽ mang tính chu kỳ. Cần nhớ, số lượng người lao động t́m kiếm việc làm tăng hàng năm bởi sinh viên tốt nghiệp và người nhập cư đến Mỹ ngày một nhiều.
Điều này đồng nghĩa với việc GDP cần tăng trưởng trên mức xu thế 3,3% nếu chúng ta muốn tuyển thêm lao động mới và tái tuyển dụng nhóm người đă bị sa thải trong thời kỳ kinh tế đi xuống trước đó. Nhiều chuyên gia dự báo tăng trưởng GDP thực của Mỹ trong vài năm tới chỉ ở mức 1 đến 2%, tỷ lệ thất nghiệp trung b́nh như vậy sẽ tăng lên.
Hiện không tồn tại giải pháp ngắn hạn nào cho vấn đề này. Giải pháp tốt nhất trong dài hạn, người ta cần phải hiểu nước Mỹ cần phát triển cơ sở hạ tầng, không chỉ tạo ra việc làm cho hàng trăm ngh́n người mà c̣n đảm bảo tăng trưởng cho lĩnh vực tư nhân. Dự án cần phải được điều chỉnh bởi ủy ban với đại diện của cả nhà nước và lĩnh vực tư nhân, dựa trên mức tính toán về lợi nhuận tối thiểu, trong dài hạn, người dùng cần phải trả tiền cho việc sử dụng của ḿnh.
Chi phí v́ vậy cần được coi như khoản đầu tư và không nên tính vào nợ nần, nếu có sẽ khiến thị trường trái phiếu bị chấn động. Kế hoạch cần nhận được sự ủng hộ từ cả 2 đảng lớn bởi chính người Mỹ cũng nhận thấy rằng hệ thống hạ tầng của họ đang đi xuống và bởi loại h́nh đầu tư này tác động lớn đến thị trường việc làm hơn bất kỳ loại h́nh chi tiêu nào.
Trách nhiệm tạo ra việc làm thuộc về tất cả các đảng phái chính trị. Hàng triệu người lao động sẵn sàng trở lại làm việc thế nhưng kỹ năng và kinh nghiệm của họ đang bị lăng phí.
Ngọc Diệp
Theo FT