adams
02-20-2011, 20:44
C̣n hai ngày nữa là sang năm mới Tân Măo, năm con mèo trong 12 con thú tượng trưng cho một Giáp gồm Tí, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, th́ trong đó đều là loài có vú, chỉ trừ có Th́n và Tị.
Th́n là con rồng, một con vật tưởng tượng hay nếu có, theo các nhà bác học, chỉ là con Komodo Lizard, một giống thằn lằn khổng lồ tại Nam Dương và Tị là con rắn, một loại ḅ sát. Không biết rơ nguyên nhân làm sao mà các cổ nhân xưa đă chọn lựa như vậy, nhưng theo công cuộc nghiên cứu khoa học ngày nay, loài có vú được tạo thành sự sống cao nhất trong muôn loài và đă được phát triển mạnh từ 200 triệu năm trước trong thời đại của khủng long. Tuy nhiên các nhà khoa học chỉ t́m được khoảng 3200 loại có vú trong cả triệu sinh vật có trên mặt đất. Chúng có h́nh dáng từ nhỏ xíu như con shrew, một loại chuột ăn sâu bọ sống dưới mặt đất, chỉ nặng có 2 phần 5 của một ounce, đến giống cá voi xanh khổng lồ vẫy vùng trên khắp các đại dương nặng tới 130 tấn. Đặc điểm của loài có vú là là biết nuôi con và ít nhất trong cuộc sống có một phần nào trong cơ thể có lông mọc ra. Tất cả loài có vú đều sinh ra con chỉ riêng có hai giống Platypus và Echidna đẻ ra trứng y như loại ḅ sát.
Con Platypus
Chỉ có tại Úc Châu mới có những giống thú vật thật lạ lùng, mà các lục địa khác không có, như con platypus, mới trông thấy h́nh dáng nó thấy thật khôi hài. Nó như được ráp bởi nhiều bộ phận rời từ các con thú khác. Thân h́nh nó h́nh bầu dục, dẹp và dài khoảng 24 inch, nặng độ 4 pound và bao phủ bởi lớp lông mầu nâu rất mướt. Đuôi nó thật kỳ, ngắn và bè bè, đồng thời lại cứng như sừng, trông như một cái bơi chèo, y hệt như đuôi của con hải ly (beaver). Bốn chân của nó cũng ngắn củn và mọc ch́a ra mỗi chân 5 móng sắc, cứng, giống như nó sinh ra để đào xới những hang hố sâu dưới mặt đất. Tuy nhiên giữa các ngón chân lại có màng bọc có thể x̣e rộng ra như chân vịt, để bơi lội. Riêng con đực, hai chân sau c̣n có cựa cứng nhọn, là một thứ vũ khí để chiến đấu khá lợi hại. Thêm vào đó, những chiếc cựa này lại được nối với một hạch nọc độc, platypus sẽ cho ứa ra để giết những con vật nhỏ và làm đau nhức, gây sợ hăi cả những con thú lớn. Đầu dính liền với thân, không có cổ và lỗ tai ch́m trong da, không hề có vành tai nhú lên như các con thú khác. Mồm mũi của nó cũng không b́nh thường mà lại giống như mỏ vịt, nhưng dầy và như làm bằng cao su cứng. Platypus dùng mỏ này sục xuống bùn ở những ao hồ hay suối, để bắt những con giun,sâu bọ, ṣ hến và rau cỏ. Nó ăn rất nhiều mỗi ngày phải tiêu thụ thức ăn bằng nửa sức nặng thân h́nh nó. Mùa chúng ái ân với nhau rơi vào khoảng cuối Đông và đầu Xuân. Sau đó con cái tự ḿnh đào một đường hầm dài từ 15 đến 60 bộ có cửa ra vào từ dưới mặt nước, nhưng cuối đường hầm lại nổi lên ở khoảng đất cao, mà chúng che đậy bằng những đống cành cây chất chồng lên nhau. Từ chiếc tổ đó con platypus cái nằm đẻ trứng, mỗi lần b́nh thường hai trứng và ấp từ 8 đến 10 ngày th́ trứng nở. Platypus con sinh ra rất yếu ớt và phải nhờ mẹ nuôi cả 4 tháng trời mới tự lập kiếm ăn được. Platypus không có núm vú cho con bú, mà sữa tiết ra từ dưới chân lông, con con dùng mỏ xúc sữa lấy uống. Khoảng l năm th́ con con trưởng thành và chúng đă có thể t́m bạn để tiếp nối thế hệ sau nữa.
http://www.viendongdaily.co m/images/galary/TheGioiQT/TGQT2011/LoaiVatKyLa/platypus_2.jpg
Giống Platypus kỳ lạ tại Úc Châu, vừa là giống chim đẻ ra trứng, vừa là loài có vú, có sữa cho con bú, vừa là loài có túi dưới bụng để nuôi con – ảnh tham khảo: itsnature.org
Con platypus mỏ vịt được các nhà khoa học chú ư tới từ năm 1797, khi Trung Tá Hải Quân Anh David Collin kể lại chuyện ông gặp một con vật lạ gần gịng sông Hawkesbury tại Úc Châu. Mới đầu các nhà bác học trên toàn thế giới đă không thể nào tin tưởng nổi, một con thú có sữa cho con bú lại đẻ ra trứng. Tuy nhiên, người ta đă biết nó trong các vật thể hóa thạch, từng có trên trái đất từ 50 triệu năm trước, nhưng cho rằng nó bị tuyệt chủng đă trên một thế kỷ. Thời xa xưa, Úc Châu từng nối với các lục địa khác, nhưng rồi dăi đất nối liền bị ch́m mất hút giữa ḷng đại dương, nên Úc trở thành trơ trọi, một ḿnh đứng riêng biệt. Cũng v́ sự riêng biệt mà các giống thú cổ được bảo toàn không mất giống. Đến năm 1884, Viện Khảo Cổ nước Anh đă cử bác sĩ Caldwell sang Úc để khảo cứu cặn kẽ về giống platypus. Ông này đă gửi về trưng bày tại viện 2 quả trứng của giống này, nhỏ hơn trứng gà, mà vỏ lại mềm như trứng thằn lằn. Sở dĩ giống thú này có tên Platypus v́ theo tiếng Hy Lạp, platypus có nghĩa là “Bàn chân bè có màng”. Giống này rất ưa làm đỏm, mỗi lần từ dưới nước lên bờ, nó đều chải chuốt lông rất công phu. Nó dùng các móng chân sau như một chiếc lược và vuốt cùng khắp thân thể. Khi nó lặn xuống nước, đôi mắt nhắm nghiền, nó t́m mồi bằng một bộ phận rất bén nhậy ở mỏ, phát ra một làn sóng và thu hồi, để định vị trí con mồi. Sau này nhờ một chuyên viên tên là David Fleay, sinh sống tại Brisbane nước Úc, người ta biết được cách nuôi nấng, cho chúng ăn uống. Do vậy lần đầu tiên Sở Thú Bronx tại Nữu Ước đă nuôi được 2 con platypus sống rất mạnh khỏe đến trên 10 năm, một thời gian kỷ lục đối với việc nuôi sống giống thú này bên ngoài nước Úc. Người ta đă đặt tên cho con đực là Cecil và con cái là Penelope. Để nuôi chúng mỗi tháng người ta phải cần tới 25.000 con giun là thức ăn chính, ngoài ra c̣n phải cho chúng ăn thêm tôm, nhái và món trứng quấy. Người ta tiêu tốn tiền đồ ăn cho một con platypus c̣n nhiều hơn là nuôi một con voi. Ngày nay đời sống kỷ lục của một con platypus được nuôi nấng là 17 năm và giống thú nhỏ bé này đang được chính phủ Úc bảo vệ rất kỷ lưỡng để tránh cho chúng khỏi bị tuyệt chủng.
Con Echidna
Trên thế giới ngoài con platypus, chỉ c̣n con Echidna là loài nuôi con bằng sữa mà lại đẻ ra trứng. Echidna c̣n gọi là “Giống ăn kiến” v́ thức ăn chính của nó là kiến, ngoài ra c̣n mối và vài thứ côn trùng khác.
http://partnershipsixteen.b ridge.wikispaces.net/file/view/echidna.jpg/99364041/echidna.jpg
Echidna
Tuy cùng loại với platypus, nhưng echidna h́nh thù khác hẳn, trông giống loài nhím hơn và sống ở Úc và Tân Guinea. Thân nó hơi tṛn có chiều dài từ 17 cho tới 30 inch và nặng khoảng 14 pound. Từ thân nó chĩa ra tua tủa những lông cứng như gai mầu vàng và có cái dài tới 2 inch. Khi gặp nguy hiểm thân h́nh nó quận tṛn lại như quả bóng, gai chĩa ra ngoài, làm cho những giống thú khác to hơn phải sợ hăi, lẫn tránh xa không dám tấn công. Tai của echidna cũng giống như platypus không lớn và không có vành tai, nhưng mỏm của nó lại đặc biệt tṛn như cái ống và dài bằng cái đầu, khoảng 2 đến 3 inches. Echidna không có răng nhưng lưỡi của nó nhám, dính và dài, nhọn như cái bút ch́. Chân có móng sắc, rất mạnh và dài có tới một inche, dùng để phá vỡ các tổ kiến và mối, rồi thè lưỡi dính, quấn tṛn đám con mồi cho vào mỏm để nuốt.
http://www.viendongdaily.co m/images/galary/TheGioiQT/TGQT2011/LoaiVatKyLa/baby_echidna.jpg
Con echidna, loài thú ăn kiến, vừa đẻ trứng lại vừa nuôi con bằng sữa.
Trong h́nh là một con echidna con – ảnh tham khảo: Monotremes
Mỗi mùa sinh nở, echidna chỉ đẻ một trứng hay hai, nhưng nó không để trong tổ như platypus, mà dùng mơm lùa vào một cái túi ở dưới bụng và dùng thân nhiệt của ḿnh làm cho trứng nở. Sau 10 ngày, con con nở ra, rất yếu ớt, phải nằm trong túi mẹ thêm cả mấy tuần lễ nữa. Trong thời gian này sữa mẹ ứa ra từ những lỗ nhỏ trong túi và echidna con liếm sữa này để ăn chóng lớn. Khi con nhỏ lớn khoảng từ 3 đến 4 inch mới ĺa khỏi túi. Với móng vuốt sắc và mạnh, echidna đào đất rất nhanh. Gặp vùng đất mềm, chúng đào đất nhanh đến nổi, người ta thấy nó như đang đứng trên chiếc thang máy tuột xuống và chỉ phút chốc đă mất hút dưới ḷng đất. Echidna ưa sống ở những vùng đất cằn cỗi, nhiều sỏi đá và ban ngày thường ngủ vùi trong hang hố, ban đêm mới ḷi ra đi kiếm ăn.
Tasmanian ma quỉ và Tasmanian chó sói
Như đă đề cập đến ở phần trên, Úc Châu là một lục địa tách rời và đứng riêng rẽ nên có nhiều giống thú kỳ lạ mà các lục địa khác không có. Tuy nhiên, đang nói về các thú vật có túi dưới bụng để nuôi con, chúng tôi xin cống hiến quí vị tài liệu về hai giống thú quái dị ở ḥn đảo Tasmania nằm về phía Đông Nam của lục địa Úc.
http://www.tasmaniatrip.com/image-files/tasmaniandevil.jpg
Tasmanian Devil
Ḥn đảo này khá rộng có chiều dài 180 dặm và chiều ngang 175 dặm, tức rộng tương đương với tiểu bang West Virginia của Mỹ. Hồi đặt chân tới đây đầu tiên, người định cư da trắng thấy một con vật lông đen, trông rất hung dữ, lúc ẩn, lúc hiện như ma quỉ và bắt ăn thịt của họ rất nhiều cừu. Do vậy họ mới đặt tên là Tasmanian Devil, tức là giống “ma quỉ ở đảo Tasmania”. Hồi đầu ở khắp Úc Châu nơi nào cũng có giống này, nhưng dần dà chúng bị bắn hoặc bị bẫy chết hết, nên ngày nay chỉ ngay trên đảo Tasmania mới có. Tasmanian Devil có chiều dài khoảng 3 bộ, thêm vào cái đuôi một bộ nữa là 4 bộ. Tuy nhiên nếu không có đuôi nó hoàn toàn có h́nh dáng như con gấu. Đầu to lớn nối với cổ bởi những bắp thịt trông mạnh mẽ. Chân có móng vuốt, cộng với hàm răng nhọn hoắt làm cho các thú vật khác, dù có to lớn hơn cũng phải sợ hăi. Lông con devil này mầu đen rất rậm và cứng thô. Tuy nhiên, nó cũng có những đám lông trắng ở cổ, ở vai. Nó thường ngồi liếm chân như mèo, nhưng lại dùng cả hai chân một lúc, rồi đưa lên xoa khắp đầu cổ như ta rửa mặt. Nó thường bắt chuột, cóc, nhái, cua, để ăn thịt. Đôi khi nó c̣n tấn công cắn chết những con lớn hơn nó như cừu. Mùa sinh nở vào tháng Ba và tháng Tư. Sau thời gian này, con cái được nhẩy sẽ mang thai và một tháng sẽ sinh con. Phần lớn mỗi lần sinh ra hai con nhỏ, nhưng trong t́nh trạng chưa nẩy nở được hoàn toàn, phải được nuôi trong một cái túi dưới bụng, trong đó có 4 núm vú. Con nhỏ lớn dần và được một tháng th́ chiếc túi không c̣n chứa đựng được nữa, chúng phải ḅ ra ngoài và mẹ chúng phải làm một cái ổ ở hốc cây, hay giữa các tảng đá để nuôi nấng thêm một thời gian nữa và tập cho chúng săn mồi. Tuy chúng có tên dữ dằn, nhưng sự thực chúng thông minh và rất dễ dạy. Nếu nuôi con nhỏ từ lúc c̣n bé, chúng trở nên dễ thương và là con vật nuôi trong nhà thân thiết, rất mến chủ.
http://www.besttouristdesti nations.com/wp-content/uploads/2009/05/clip-image003-thumb1.jpg
The Tasmanian Tiger
Trên ḥn đảo Tasmania c̣n có con chó sói Tasmanian, có người c̣n gọi nó là “Hổ Tasmanian”, hay “hổ chó sói”, hay “Ngựa vằn chó sói”, hay “Ngựa vằn có túi”. Tên nào cũng đúng cả, v́ giống thú này trông lai căng, h́nh dáng của nó là chó, có cái đầu như chó sói, nhưng cách săn mồi xé thịt lại như hổ. Trong khi đó, trên lưng có những sọc ngang như ngựa vằn và dưới bụng lại có túi để nuôi con. Xưa kia giống thú này nhiều vô số ở ḥn đảo Tasmania, nhưng chúng hay tấn công giết ăn thịt giống cừu và gà vịt của những người định cư, nên bị họ dùng súng bắn chết rất nhiều gần như bị tuyệt chủng. Ngày nay chỉ c̣n một số rất ít ở tít sâu trong rừng mà thôi. Chó sói Tasmanian có h́nh dáng như một con chó lớn, có chiều dài khoảng 65 inches, bao gồm cả chiếc đuôi dài 20 inches. Nó rất khỏe, có bộ hàm cực mạnh, có thể há ra để ngoạm rộng tới 160 độ, cùng với bộ răng thật nhiều và sắc như dao. Lông của chó sói tasmanian mầu nâu, nhưng trên lưng lại có những sọc mầu đen nằm vắt ngang, dài ở hông, nhưng rồi ngắn dần và chấm dứt ở đuôi. B́nh thường con Tasmanian bước đi hoặc chạy chậm th́ y như chó. Nhưng lúc cần chạy nhanh, th́ nó lại nhẩy những quăng thật xa như con Kangaroo. Ban ngày giống chó này t́m những hang hốc nằm ngủ, tối đến mới ra săn mồi. Nó thường bắt những con kangaroo nhỏ, những con thú nhỏ và sau này nó săn cả cừu và gà vịt của người nuôi, v́ nó không sao phân biệt được thứ ǵ là gia súc, thứ ǵ thuộc sở hữu của rừng hoang. Chó sói tasmanian cái có cái túi dưới bụng để nuôi con, miệng túi mở về phía sau và phía trong có 4 núm vú. Chiếc túi rất rộng có thể chứa tới 4 con chó con. Nhưng phần lớn, sau khi mang thai chừng một tháng, chó chỉ đẻ có hai con. Chó con mới sinh rất yếu ớt, mắt chưa mở và người nhẵn nhụi không lông lá. Chúng nằm trong túi bú mẹ suốt 3 tháng, sau đó mới ḅ ra nằm ở ổ mà mẹ chúng xây bằng lá cây, hay cỏ rạ. Chỉ khi nào đàn con thật khôn lớn, biết săn mồi, mẹ chúng mới bỏ, để chúng tự lập, xây dựng một gia đ́nh mới./.
Hồ Sĩ Viêm
(Viễn đông)
Th́n là con rồng, một con vật tưởng tượng hay nếu có, theo các nhà bác học, chỉ là con Komodo Lizard, một giống thằn lằn khổng lồ tại Nam Dương và Tị là con rắn, một loại ḅ sát. Không biết rơ nguyên nhân làm sao mà các cổ nhân xưa đă chọn lựa như vậy, nhưng theo công cuộc nghiên cứu khoa học ngày nay, loài có vú được tạo thành sự sống cao nhất trong muôn loài và đă được phát triển mạnh từ 200 triệu năm trước trong thời đại của khủng long. Tuy nhiên các nhà khoa học chỉ t́m được khoảng 3200 loại có vú trong cả triệu sinh vật có trên mặt đất. Chúng có h́nh dáng từ nhỏ xíu như con shrew, một loại chuột ăn sâu bọ sống dưới mặt đất, chỉ nặng có 2 phần 5 của một ounce, đến giống cá voi xanh khổng lồ vẫy vùng trên khắp các đại dương nặng tới 130 tấn. Đặc điểm của loài có vú là là biết nuôi con và ít nhất trong cuộc sống có một phần nào trong cơ thể có lông mọc ra. Tất cả loài có vú đều sinh ra con chỉ riêng có hai giống Platypus và Echidna đẻ ra trứng y như loại ḅ sát.
Con Platypus
Chỉ có tại Úc Châu mới có những giống thú vật thật lạ lùng, mà các lục địa khác không có, như con platypus, mới trông thấy h́nh dáng nó thấy thật khôi hài. Nó như được ráp bởi nhiều bộ phận rời từ các con thú khác. Thân h́nh nó h́nh bầu dục, dẹp và dài khoảng 24 inch, nặng độ 4 pound và bao phủ bởi lớp lông mầu nâu rất mướt. Đuôi nó thật kỳ, ngắn và bè bè, đồng thời lại cứng như sừng, trông như một cái bơi chèo, y hệt như đuôi của con hải ly (beaver). Bốn chân của nó cũng ngắn củn và mọc ch́a ra mỗi chân 5 móng sắc, cứng, giống như nó sinh ra để đào xới những hang hố sâu dưới mặt đất. Tuy nhiên giữa các ngón chân lại có màng bọc có thể x̣e rộng ra như chân vịt, để bơi lội. Riêng con đực, hai chân sau c̣n có cựa cứng nhọn, là một thứ vũ khí để chiến đấu khá lợi hại. Thêm vào đó, những chiếc cựa này lại được nối với một hạch nọc độc, platypus sẽ cho ứa ra để giết những con vật nhỏ và làm đau nhức, gây sợ hăi cả những con thú lớn. Đầu dính liền với thân, không có cổ và lỗ tai ch́m trong da, không hề có vành tai nhú lên như các con thú khác. Mồm mũi của nó cũng không b́nh thường mà lại giống như mỏ vịt, nhưng dầy và như làm bằng cao su cứng. Platypus dùng mỏ này sục xuống bùn ở những ao hồ hay suối, để bắt những con giun,sâu bọ, ṣ hến và rau cỏ. Nó ăn rất nhiều mỗi ngày phải tiêu thụ thức ăn bằng nửa sức nặng thân h́nh nó. Mùa chúng ái ân với nhau rơi vào khoảng cuối Đông và đầu Xuân. Sau đó con cái tự ḿnh đào một đường hầm dài từ 15 đến 60 bộ có cửa ra vào từ dưới mặt nước, nhưng cuối đường hầm lại nổi lên ở khoảng đất cao, mà chúng che đậy bằng những đống cành cây chất chồng lên nhau. Từ chiếc tổ đó con platypus cái nằm đẻ trứng, mỗi lần b́nh thường hai trứng và ấp từ 8 đến 10 ngày th́ trứng nở. Platypus con sinh ra rất yếu ớt và phải nhờ mẹ nuôi cả 4 tháng trời mới tự lập kiếm ăn được. Platypus không có núm vú cho con bú, mà sữa tiết ra từ dưới chân lông, con con dùng mỏ xúc sữa lấy uống. Khoảng l năm th́ con con trưởng thành và chúng đă có thể t́m bạn để tiếp nối thế hệ sau nữa.
http://www.viendongdaily.co m/images/galary/TheGioiQT/TGQT2011/LoaiVatKyLa/platypus_2.jpg
Giống Platypus kỳ lạ tại Úc Châu, vừa là giống chim đẻ ra trứng, vừa là loài có vú, có sữa cho con bú, vừa là loài có túi dưới bụng để nuôi con – ảnh tham khảo: itsnature.org
Con platypus mỏ vịt được các nhà khoa học chú ư tới từ năm 1797, khi Trung Tá Hải Quân Anh David Collin kể lại chuyện ông gặp một con vật lạ gần gịng sông Hawkesbury tại Úc Châu. Mới đầu các nhà bác học trên toàn thế giới đă không thể nào tin tưởng nổi, một con thú có sữa cho con bú lại đẻ ra trứng. Tuy nhiên, người ta đă biết nó trong các vật thể hóa thạch, từng có trên trái đất từ 50 triệu năm trước, nhưng cho rằng nó bị tuyệt chủng đă trên một thế kỷ. Thời xa xưa, Úc Châu từng nối với các lục địa khác, nhưng rồi dăi đất nối liền bị ch́m mất hút giữa ḷng đại dương, nên Úc trở thành trơ trọi, một ḿnh đứng riêng biệt. Cũng v́ sự riêng biệt mà các giống thú cổ được bảo toàn không mất giống. Đến năm 1884, Viện Khảo Cổ nước Anh đă cử bác sĩ Caldwell sang Úc để khảo cứu cặn kẽ về giống platypus. Ông này đă gửi về trưng bày tại viện 2 quả trứng của giống này, nhỏ hơn trứng gà, mà vỏ lại mềm như trứng thằn lằn. Sở dĩ giống thú này có tên Platypus v́ theo tiếng Hy Lạp, platypus có nghĩa là “Bàn chân bè có màng”. Giống này rất ưa làm đỏm, mỗi lần từ dưới nước lên bờ, nó đều chải chuốt lông rất công phu. Nó dùng các móng chân sau như một chiếc lược và vuốt cùng khắp thân thể. Khi nó lặn xuống nước, đôi mắt nhắm nghiền, nó t́m mồi bằng một bộ phận rất bén nhậy ở mỏ, phát ra một làn sóng và thu hồi, để định vị trí con mồi. Sau này nhờ một chuyên viên tên là David Fleay, sinh sống tại Brisbane nước Úc, người ta biết được cách nuôi nấng, cho chúng ăn uống. Do vậy lần đầu tiên Sở Thú Bronx tại Nữu Ước đă nuôi được 2 con platypus sống rất mạnh khỏe đến trên 10 năm, một thời gian kỷ lục đối với việc nuôi sống giống thú này bên ngoài nước Úc. Người ta đă đặt tên cho con đực là Cecil và con cái là Penelope. Để nuôi chúng mỗi tháng người ta phải cần tới 25.000 con giun là thức ăn chính, ngoài ra c̣n phải cho chúng ăn thêm tôm, nhái và món trứng quấy. Người ta tiêu tốn tiền đồ ăn cho một con platypus c̣n nhiều hơn là nuôi một con voi. Ngày nay đời sống kỷ lục của một con platypus được nuôi nấng là 17 năm và giống thú nhỏ bé này đang được chính phủ Úc bảo vệ rất kỷ lưỡng để tránh cho chúng khỏi bị tuyệt chủng.
Con Echidna
Trên thế giới ngoài con platypus, chỉ c̣n con Echidna là loài nuôi con bằng sữa mà lại đẻ ra trứng. Echidna c̣n gọi là “Giống ăn kiến” v́ thức ăn chính của nó là kiến, ngoài ra c̣n mối và vài thứ côn trùng khác.
http://partnershipsixteen.b ridge.wikispaces.net/file/view/echidna.jpg/99364041/echidna.jpg
Echidna
Tuy cùng loại với platypus, nhưng echidna h́nh thù khác hẳn, trông giống loài nhím hơn và sống ở Úc và Tân Guinea. Thân nó hơi tṛn có chiều dài từ 17 cho tới 30 inch và nặng khoảng 14 pound. Từ thân nó chĩa ra tua tủa những lông cứng như gai mầu vàng và có cái dài tới 2 inch. Khi gặp nguy hiểm thân h́nh nó quận tṛn lại như quả bóng, gai chĩa ra ngoài, làm cho những giống thú khác to hơn phải sợ hăi, lẫn tránh xa không dám tấn công. Tai của echidna cũng giống như platypus không lớn và không có vành tai, nhưng mỏm của nó lại đặc biệt tṛn như cái ống và dài bằng cái đầu, khoảng 2 đến 3 inches. Echidna không có răng nhưng lưỡi của nó nhám, dính và dài, nhọn như cái bút ch́. Chân có móng sắc, rất mạnh và dài có tới một inche, dùng để phá vỡ các tổ kiến và mối, rồi thè lưỡi dính, quấn tṛn đám con mồi cho vào mỏm để nuốt.
http://www.viendongdaily.co m/images/galary/TheGioiQT/TGQT2011/LoaiVatKyLa/baby_echidna.jpg
Con echidna, loài thú ăn kiến, vừa đẻ trứng lại vừa nuôi con bằng sữa.
Trong h́nh là một con echidna con – ảnh tham khảo: Monotremes
Mỗi mùa sinh nở, echidna chỉ đẻ một trứng hay hai, nhưng nó không để trong tổ như platypus, mà dùng mơm lùa vào một cái túi ở dưới bụng và dùng thân nhiệt của ḿnh làm cho trứng nở. Sau 10 ngày, con con nở ra, rất yếu ớt, phải nằm trong túi mẹ thêm cả mấy tuần lễ nữa. Trong thời gian này sữa mẹ ứa ra từ những lỗ nhỏ trong túi và echidna con liếm sữa này để ăn chóng lớn. Khi con nhỏ lớn khoảng từ 3 đến 4 inch mới ĺa khỏi túi. Với móng vuốt sắc và mạnh, echidna đào đất rất nhanh. Gặp vùng đất mềm, chúng đào đất nhanh đến nổi, người ta thấy nó như đang đứng trên chiếc thang máy tuột xuống và chỉ phút chốc đă mất hút dưới ḷng đất. Echidna ưa sống ở những vùng đất cằn cỗi, nhiều sỏi đá và ban ngày thường ngủ vùi trong hang hố, ban đêm mới ḷi ra đi kiếm ăn.
Tasmanian ma quỉ và Tasmanian chó sói
Như đă đề cập đến ở phần trên, Úc Châu là một lục địa tách rời và đứng riêng rẽ nên có nhiều giống thú kỳ lạ mà các lục địa khác không có. Tuy nhiên, đang nói về các thú vật có túi dưới bụng để nuôi con, chúng tôi xin cống hiến quí vị tài liệu về hai giống thú quái dị ở ḥn đảo Tasmania nằm về phía Đông Nam của lục địa Úc.
http://www.tasmaniatrip.com/image-files/tasmaniandevil.jpg
Tasmanian Devil
Ḥn đảo này khá rộng có chiều dài 180 dặm và chiều ngang 175 dặm, tức rộng tương đương với tiểu bang West Virginia của Mỹ. Hồi đặt chân tới đây đầu tiên, người định cư da trắng thấy một con vật lông đen, trông rất hung dữ, lúc ẩn, lúc hiện như ma quỉ và bắt ăn thịt của họ rất nhiều cừu. Do vậy họ mới đặt tên là Tasmanian Devil, tức là giống “ma quỉ ở đảo Tasmania”. Hồi đầu ở khắp Úc Châu nơi nào cũng có giống này, nhưng dần dà chúng bị bắn hoặc bị bẫy chết hết, nên ngày nay chỉ ngay trên đảo Tasmania mới có. Tasmanian Devil có chiều dài khoảng 3 bộ, thêm vào cái đuôi một bộ nữa là 4 bộ. Tuy nhiên nếu không có đuôi nó hoàn toàn có h́nh dáng như con gấu. Đầu to lớn nối với cổ bởi những bắp thịt trông mạnh mẽ. Chân có móng vuốt, cộng với hàm răng nhọn hoắt làm cho các thú vật khác, dù có to lớn hơn cũng phải sợ hăi. Lông con devil này mầu đen rất rậm và cứng thô. Tuy nhiên, nó cũng có những đám lông trắng ở cổ, ở vai. Nó thường ngồi liếm chân như mèo, nhưng lại dùng cả hai chân một lúc, rồi đưa lên xoa khắp đầu cổ như ta rửa mặt. Nó thường bắt chuột, cóc, nhái, cua, để ăn thịt. Đôi khi nó c̣n tấn công cắn chết những con lớn hơn nó như cừu. Mùa sinh nở vào tháng Ba và tháng Tư. Sau thời gian này, con cái được nhẩy sẽ mang thai và một tháng sẽ sinh con. Phần lớn mỗi lần sinh ra hai con nhỏ, nhưng trong t́nh trạng chưa nẩy nở được hoàn toàn, phải được nuôi trong một cái túi dưới bụng, trong đó có 4 núm vú. Con nhỏ lớn dần và được một tháng th́ chiếc túi không c̣n chứa đựng được nữa, chúng phải ḅ ra ngoài và mẹ chúng phải làm một cái ổ ở hốc cây, hay giữa các tảng đá để nuôi nấng thêm một thời gian nữa và tập cho chúng săn mồi. Tuy chúng có tên dữ dằn, nhưng sự thực chúng thông minh và rất dễ dạy. Nếu nuôi con nhỏ từ lúc c̣n bé, chúng trở nên dễ thương và là con vật nuôi trong nhà thân thiết, rất mến chủ.
http://www.besttouristdesti nations.com/wp-content/uploads/2009/05/clip-image003-thumb1.jpg
The Tasmanian Tiger
Trên ḥn đảo Tasmania c̣n có con chó sói Tasmanian, có người c̣n gọi nó là “Hổ Tasmanian”, hay “hổ chó sói”, hay “Ngựa vằn chó sói”, hay “Ngựa vằn có túi”. Tên nào cũng đúng cả, v́ giống thú này trông lai căng, h́nh dáng của nó là chó, có cái đầu như chó sói, nhưng cách săn mồi xé thịt lại như hổ. Trong khi đó, trên lưng có những sọc ngang như ngựa vằn và dưới bụng lại có túi để nuôi con. Xưa kia giống thú này nhiều vô số ở ḥn đảo Tasmania, nhưng chúng hay tấn công giết ăn thịt giống cừu và gà vịt của những người định cư, nên bị họ dùng súng bắn chết rất nhiều gần như bị tuyệt chủng. Ngày nay chỉ c̣n một số rất ít ở tít sâu trong rừng mà thôi. Chó sói Tasmanian có h́nh dáng như một con chó lớn, có chiều dài khoảng 65 inches, bao gồm cả chiếc đuôi dài 20 inches. Nó rất khỏe, có bộ hàm cực mạnh, có thể há ra để ngoạm rộng tới 160 độ, cùng với bộ răng thật nhiều và sắc như dao. Lông của chó sói tasmanian mầu nâu, nhưng trên lưng lại có những sọc mầu đen nằm vắt ngang, dài ở hông, nhưng rồi ngắn dần và chấm dứt ở đuôi. B́nh thường con Tasmanian bước đi hoặc chạy chậm th́ y như chó. Nhưng lúc cần chạy nhanh, th́ nó lại nhẩy những quăng thật xa như con Kangaroo. Ban ngày giống chó này t́m những hang hốc nằm ngủ, tối đến mới ra săn mồi. Nó thường bắt những con kangaroo nhỏ, những con thú nhỏ và sau này nó săn cả cừu và gà vịt của người nuôi, v́ nó không sao phân biệt được thứ ǵ là gia súc, thứ ǵ thuộc sở hữu của rừng hoang. Chó sói tasmanian cái có cái túi dưới bụng để nuôi con, miệng túi mở về phía sau và phía trong có 4 núm vú. Chiếc túi rất rộng có thể chứa tới 4 con chó con. Nhưng phần lớn, sau khi mang thai chừng một tháng, chó chỉ đẻ có hai con. Chó con mới sinh rất yếu ớt, mắt chưa mở và người nhẵn nhụi không lông lá. Chúng nằm trong túi bú mẹ suốt 3 tháng, sau đó mới ḅ ra nằm ở ổ mà mẹ chúng xây bằng lá cây, hay cỏ rạ. Chỉ khi nào đàn con thật khôn lớn, biết săn mồi, mẹ chúng mới bỏ, để chúng tự lập, xây dựng một gia đ́nh mới./.
Hồ Sĩ Viêm
(Viễn đông)