Hanna
03-26-2011, 20:39
Luật Sư Đào Tăng Dực
Các quốc gia trên địa cầu, từ đông sang tây, đều có hai nhu cầu căn bản: đó là quốc pḥng và trị an. Quân đội có trách nhiệm quốc pḥng và công an cảnh sát có trách nhiệm trị an.
Trong một nước dân chủ như Hoa Kỳ, chịu ảnh hưởng của các tư tưởng gia khai quốc công thần, đặc biệt là Samuel Adams (1722-1803) và Alexander Hamilton (1755-1804) th́ quân đội chịu sự điều khiển của một chính quyền dân sự. Tổng thống Hoa Kỳ là tổng tư lệnh quân lực (commander-in-chief) của các lực lượng vơ trang Hoa Kỳ. Các lực lượng an ninh từ tiểu bang đến Liên Bang như cảnh sát tiểu bang, cảnh sát liên bang hoặc FBI cũng chịu quyền điều khiển của các chính quyền dân cử các cấp.
Các quốc gia dân chủ trên thế giới, từ tổng thống chế như Hoa Kỳ, đến quốc hội chế như Anh Quốc, hoặc mô thức hỗn hợp như Pháp, đều chấp nhận nguyên tắc các lực lượng vũ trang và an ninh phải chịu sự điều khiển của chính quyền dân sự.
Trong các nước dân chủ th́ có sự cộng sinh giữa nhiều chính đảng và lực lượng chính trị khác nhau, luân phiên nắm quyền qua các cuộc bầu cử tự do và trong sáng. Dù chính quyền có thay đổi th́ các lực lượng quân đội và an ninh vẫn phải phục tùng chính quyền tân lập, triệt để thuận theo ḷng dân. Quân đội và các lực lượng an ninh không trung thành với bất cứ một cá nhân hoặc đảng phái nào. Họ chỉ trung thành và bảo vệ tổ quốc, qua sự quy định của một bản hiến pháp dân chủ thực sự.
Tuy nhiên, trong một thể chế độc tài th́ vai tṛ của quân đội và công an không c̣n là trung thành và bảo vệ tổ quốc nữa. Lư do là v́, hơn ai hết, các chế độ độc tài ư thức ṭan diện vai tṛ của quân đội và công an như là những phương tiện tuyệt vời để cướp chính quyền và nắm giữ chính quyền lâu dài.
Trong lịch sử loài người, các chính quyền độc tài, ngay từ thủa b́nh minh của nhân loại, đều thiện nghệ trong việc duy tŕ quyền lực độc tôn của ḿnh bằng hai phương tiện chính. Đó là quân đội và công an.
Dĩ nhiên c̣n rất nhiều phương tiện khác các chế độ này sử dụng. Chẳng hạn kiểm soát thông tin, giới hạn sự đi lại, nghiêm cấm không được tụ tập mà không có xin phép và được cho phép trước, hệ thống ṭa án hoàn toàn do hành pháp kiểm soát, suy tôn và thần tượng hóa lănh tụ v..v..
Tuy nhiên quân đội và công an là những phương tiện chính và được Đức Quốc Xă, dưới sự lănh đạo của nhà độc tài khét tiếng Hitler, rèn luyện và sử dụng tuyệt luân. Quân đội Đức (Wehrmacht) là công cụ hùng mạnh để Hitler xâm chiếm các nước Âu Châu khác, xây dựng bá quyền. Công an mật vụ vơ trang (SS) được sử dụng, không những để kiểm soát dân chúng và mọi thành phần khác của xă hội dân sự, mà không kém phần quan trọng, là để kiểm soát quân đội và các tướng lănh có tham vọng khác.
Tuy nhiên, không có chế độ độc tài nào sử dụng quân đội và công an sâu sắc và hiệu năng, để duy tŕ quyền lực lâu dài bằng hai nhân vật trùm cộng sản là Lenin và Stalin. Tuy Lenin là người tiên phong trên phương diện độc tài chuyên chính, nhưng Stalin mới là kẻ mài dũa phương thức đến độ lạnh lùng, tàn khốc chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Hitler giết 6 triệu người Do Thái vô tội qua các lực lượng an ninh, trong khi Stalin giết 20 triệu người Nga vô tội qua mật thám Xô Viết. Các chính quyền cộng sản trên thế giới, từ Trung Quốc, Bắc Hàn đến Việt Nam đều thừa hưởng truyền thống cai trị bằng công an và quân đội này.
Năm 1991, trước khi Liên Bang Xô Viết cáo chung, tuy bề mặt Hồng Quân Xô Viết chia rẽ giữa phe ủng hộ Yeltsin (Liên Bang Nga) và phe ủng hộ nhóm Bát Nhân Bang (Liên Bang Xô Viết) đảo chánh Gorbachev, đưa Yanayev lên nắm quyền hầu duy tŕ quyền lực của Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết. Nhóm Bát Nhân Bang cố gắng duy tŕ Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết hầu một cách gián tiếp duy tŕ Liên Bang Xô Viết như một thực thể chính trị.
Tuy nhiên, thực trạng là đa số tướng lănh của Hồng Quân Liên Xô đều ư thức được rằng, trong LBXV thực sự chỉ có Nga Sô là gánh vác mọi chi phí của ṭan bộ Hồng Quân Xô Viết và không c̣n kham nổi chi phí quá lớn lao nữa. Họ cảm thấy họ chỉ yêu và trung thành với Liên Bang Nga. Đối với họ, Liên Bang Xô Viết là một thí nghiệm điên rồ, phung phí, thất bại và đă đến lúc phải cáo chung.
Không c̣n sự ủng hộ của Hồng Quân Xô Viết, phe đảo chánh Bát Nhân Bang và Đảng Cộng Sản LBXV tan ră. Lần lượt các cộng ḥa khác nhau trong LBXV nhanh chóng thay phiên tuyên bố độc lập.
LBXV không c̣n hiện hữu và Gorbachev bắt buộc phải từ chức tổng thống của một thực thể chính trị đă cáo chung vào cuối năm 1991.
Việc đầu tiên dân chúng Liên Xô làm sau khi lật đổ Bát Nhân Bang là đạp đổ tượng của ông tổ KGB là Felix Dzerzhinsky, người sáng lập công an mật vụ KGB năm 1917.
Điểm tương đồng chúng ta nhận thấy trong mọi cuộc nổi dậy của quần chúng đạp đổ độc tài, từ xưa đến nay là, tuy các chế độ độc tài có tính công an trị, nhưng mật vụ và công an lại ḥan ṭan vắng bóng trong các biến động có tính quần chúng này. Chỉ có quân đội là giữ một vai tṛ then chốt. Đây là một hiện tượng cần được phân tách và lư giải để có thể rút kinh nghiệm cho một cuộc nổi dậy tại Viêt Nam trong tương lai.
Hiện tại, cuộc cách mạng tại các nước Bắc Phi và Trung Đông như Tunisia, Ai Cập (đă thành công), Lybia, Bahrain, Yemen, Marocco, Saudi Arabia …cho ta các nhận xét sau đây:
1. Các quốc gia này đều độc đảng trên thực tế hoặc trên nguyên tắc, hoặc quân chủ chuyên chế. Các chính quyền đă tại vị từ nhiều thập niên qua mà không có bầu cử tự do. Các cuộc bầu cử phần lớn là gian lận hoặc “đảng cử dân bầu” tương tự Việt Nam. Các quốc hội thông thường là quốc hội bù nh́n cũng tương tự Việt Nam.
2. Có ba thanh phần xă hội liên hệ chặc chẽ với nhau và được phân phát của cải vượt lên trên những thành phần xă hội khác: đảng viên (hoặc ḥang gia), giới lănh đạo quân đội và công an. Những thành phần này giầu có cỡ quốc tế trong những xă hội c̣n nghèo khổ. Hố sâu giữa người dân lao động, nông dân và 3 thành phần thượng lưu trên ngày càng đậm nét thêm.
3. Dân chúng căm phẫn công an nhiều hơn là căm phẫn quân đội, mặc dầu dân chúng đánh giá quân đội như là yếu tố có tính quyết định cao hơn công an cho sự thành công hay thất bại của các cuộc cách mạng. Tuy công an là công cụ hữu hiệu để kiểm sóat và đàn áp, nhưng một khi dân chúng đă hết sợ và đứng lên, th́ công an được đánh giá như không c̣n khả năng đối phó nữa.
4. Thực tế cho thấy rằng, mặc dầu quân đội có khả năng đàn áp dân chúng và giải tán biểu t́nh, nhưng quân đội tại Tunisia và Ai Cập đă đứng hẳn về phía dân tộc và ủng hộ những cải cách dân chủ thay v́ tiếp tục trung thành với các thể chế độc tài.
5. Cường độ chống đối chính quyền trong những quốc gia có quá tŕnh cải cách dân chủ thực sự ( Marocco, Jordan) thấp hơn cường độ chống đối tại những quốc gia có chính quyền bảo thủ và tham quyền cố vị (Tunisia, Egypt, Yemen, Bahrain, Saudi Arabia). Điều này chứng tỏ một chân lư mà người cộng sản Trung Quốc lẫn Việt Nam luôn chối bỏ. Đó là một quốc gia càng dân chủ th́ càng ổn định trên phương diện chính trị. Duy tŕ các chính quyền độc tài tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, về lâu về dài, sẽ đưa đến những bất ổn sâu xa cho quốc gia, khu vực và cho nền ḥa b́nh thế giới. Dân chủ hóa Trung Hoa, Việt Nam và Bắc Hàn sẽ đóng góp vô cùng lớn lao cho ḥa b́nh nhân lọai trong thế kỷ 21.
Có hai câu hỏi chúng ta cần nêu ra:
1. Chế độ CSVN gần gũi với mô thức độc tài nào nhất trong lịch sử ḷai người?
2. Trong tiến tŕnh dân chủ hóa Việt Nam, quân đội và công an sẽ có vai tṛ ǵ?
Khi chúng ta duyệt lại lịch sử thành lập các đảng CSVN (1930) và CSTQ (1921) th́ chúng ta nhận xét ngay rằng đảng CSVN ngay từ đầu đă lệ thuộc rất nhiều vào Đệ Tam Quốc Tế dưới sự lănh đạo của đảng CS Liên Xô. Ở điểm này, CSVN và CSTQ hoàn toàn khác nhau.
Khi mới thành lập th́ người CSVN lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên sau đó th́ theo chỉ thị của CS Liên Xô, Ông Hồ Chí Minh phải đổi tên lại là Đảng CS Đông Dương, bao gồm Lào và Cam Bốt. Điều này cho chúng ta thấy rằng, ngay từ những thập niên 30, CSLX đă e dè CSTQ và muốn đàn em của ḿnh là CSVN phải ảnh hưởng đến Lào và Cam Bốt để giới hạn sự bành trướng của TQ.
Dĩ nhiên trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam (1962-1975), Ông Hồ Chí Minh được sự viện trợ của cả 2 đàn anh CS qua chính sách đu dây khéo léo. Tuy nhiên ảnh hưởng của CSLX vẫn vượt trội CSTQ cho đến ngày Liên Bang Xô Viết sụp đổ.
Tuy cùng là độc tài chuyên chính vô sản, nhưng có những sự khác biệt cơ bản trong phương thức cai trị độc tài của hai đảng CS đàn anh khổng lồ trên.
Trước hết, trước khi cuộc cách mạng Bolshevik thành công tại Nga năm 1917 th́ Nga Ḥang cai trị đế quốc Nga bằng một bộ máy công an sắt máu. Chính Lenin là người chịu nhiều khốn đốn v́ guồng máy công an của Nga Ḥang. Ngay sau khi vừa cướp được chính quyền năm 1917, việc đầu tiên của Lenin là giao cho Felix Dzerzhinsky trách nhiệm thành lập một hệ thống mật vụ siêu quyền lực, tuyệt đối trung thành với ông và có trách nhiệm đè bẹp tất cả mọi đối lập bằng tất cả mọi phương tiện dù là bá đạo nhất. CSXV là một chế độ CS mang tính công an trị. Yếu tính này được chứng minh nổi bật khi chúng ta duyệt lại tranh chấp nội bộ giữa Stalin và Trotsky sau khi Lenin qua đời (1924). Trotsky không những đă là Bộ Trưởng Quốc Pḥng (1918-1925) mà c̣n chính là người được Lenin giao cho trách nhiệm sáng lập và chỉ huy hồng quân Liên Xô. Trotsky cũng được công nhận là lư thuyết gia CS sáng giá nhất sau Lenin.
Trong khi đó Stalin là tổng bí thư đảng, lúc đó chưa phải là một chức vụ tối quan trọng v́ Lenin giữ chức vụ tương đương chủ tịch nước (tức Hội Đồng Bộ Trưởng- Council of People’s Commissars) và uy tín của Lenin bao trùm đảng và nhà nước. Tuy nhiên Stalin kiểm sóat mật vụ KGB. Qua mật vụ KGB, Stalin đă đánh bật Trotsky ra khỏi trung tâm quyền lực. Cuối cùng Trotsky phải lưu vong và bị KGB ám sát tại Mễ Tây Cơ.
V́ thế, theo mô h́nh Liên Xô th́ kẻ nào nắm được mật vụ KGB sẽ nắm được đảng và quyền lực tuyệt đối.
Trong khi đó, t́nh h́nh tại Trung Quốc khác hẳn. Đảng CSTQ sống c̣n và vươn lên trong khung cảnh hai cuộc chiến đẫm máu. Đó là, một mặt, cuộc nội chiến quốc cộng giữa Đảng CSTQ và Trung Hoa Quốc Dân Đảng dưới sự lănh đạo của Tưởng Giới Thạch. Mặt kia là cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của Nhật Bản chiếm cứ Măn Châu và nhiều cứ điểm khác.
Sau khi đảng CSTQ được thành lập, Stalin cũng đă gởi rất nhiều cán bộ do CSLX huấn luyện để tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ với mục đích lọai Mao Trach Đông và phe nhóm của ông ra khỏi trung tâm quyền lực. Tuy nhiên Mao Trạch Đông, ng̣ai sự kiện là một tư tưởng gia có nhiều sáng tạo, ông c̣n là một thiên tài quân sự. Ông đă chỉ huy cuộc vạn lư trường chinh lịch sử, thóat khỏi sự truy kích của Tưởng Giới Thạch, xây dựng cơ sở, củng cố quân lực, góp phần vào việc đánh đuổi quân đội Nhật và sau cùng chiến thắng Tưởng Giới Thạch, thống trị lục địa Trung Quốc. Dĩ nhiên Mao Trạch Đông cũng không quên thanh trừng và tận diệt bè phái do Stalin cấy vào nội bộ CSTQ.
Trong cuộc vạn lư trương chinh, ông thường được gọi là Mao Chủ Tịch, không phải v́ ông là chủ tịch đảng, hoặc chủ tịch nhà nước, v́ lúc đó chưa có 2 chức vụ này. Ông được gọi là Mao Chủ Tịch v́ Ông là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương (UBQQTU), tương đương với chức vụ tổng tư lệnh quân lực ngày hôm nay.
Chính v́ truyền thống này, căn bản quyền lực của hai đảng CSTQ và đảng CSLX hoàn toàn khác nhau.
Trong đảng CSTQ, kẻ nào nắm được quân đội sẽ nắm được đảng và sau đó chính quyền. Công an chỉ là một công cụ phụ thuộc để kiểm soát dân chúng mà thôi.
Chính v́ lư do đó, chúng ta thấy Đặng Tiểu B́nh chỉ giữ một chức vụ phó thủ tướng tương đối khiêm nhượng trong chính quyền, nhưng vẫn được suy tôn là lănh tụ tối cao (paramount leader), ra lệnh cho Thủ Tướng Lư Bằng và Chủ Tịch Đảng Triệu Tử Dương. Then chốt là vào thời điểm Thiên An Môn 1989 đó, Đặng Tiểu B́nh giữ chức vụ chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương như Mao Trạch Đông đă từng giữ. Cũng trong chức vụ bày, họ Đặng đă ra lệnh quân đội đàn áp đẫm máu công trường, cứu đảng CSTQ.
Các quốc gia trên địa cầu, từ đông sang tây, đều có hai nhu cầu căn bản: đó là quốc pḥng và trị an. Quân đội có trách nhiệm quốc pḥng và công an cảnh sát có trách nhiệm trị an.
Trong một nước dân chủ như Hoa Kỳ, chịu ảnh hưởng của các tư tưởng gia khai quốc công thần, đặc biệt là Samuel Adams (1722-1803) và Alexander Hamilton (1755-1804) th́ quân đội chịu sự điều khiển của một chính quyền dân sự. Tổng thống Hoa Kỳ là tổng tư lệnh quân lực (commander-in-chief) của các lực lượng vơ trang Hoa Kỳ. Các lực lượng an ninh từ tiểu bang đến Liên Bang như cảnh sát tiểu bang, cảnh sát liên bang hoặc FBI cũng chịu quyền điều khiển của các chính quyền dân cử các cấp.
Các quốc gia dân chủ trên thế giới, từ tổng thống chế như Hoa Kỳ, đến quốc hội chế như Anh Quốc, hoặc mô thức hỗn hợp như Pháp, đều chấp nhận nguyên tắc các lực lượng vũ trang và an ninh phải chịu sự điều khiển của chính quyền dân sự.
Trong các nước dân chủ th́ có sự cộng sinh giữa nhiều chính đảng và lực lượng chính trị khác nhau, luân phiên nắm quyền qua các cuộc bầu cử tự do và trong sáng. Dù chính quyền có thay đổi th́ các lực lượng quân đội và an ninh vẫn phải phục tùng chính quyền tân lập, triệt để thuận theo ḷng dân. Quân đội và các lực lượng an ninh không trung thành với bất cứ một cá nhân hoặc đảng phái nào. Họ chỉ trung thành và bảo vệ tổ quốc, qua sự quy định của một bản hiến pháp dân chủ thực sự.
Tuy nhiên, trong một thể chế độc tài th́ vai tṛ của quân đội và công an không c̣n là trung thành và bảo vệ tổ quốc nữa. Lư do là v́, hơn ai hết, các chế độ độc tài ư thức ṭan diện vai tṛ của quân đội và công an như là những phương tiện tuyệt vời để cướp chính quyền và nắm giữ chính quyền lâu dài.
Trong lịch sử loài người, các chính quyền độc tài, ngay từ thủa b́nh minh của nhân loại, đều thiện nghệ trong việc duy tŕ quyền lực độc tôn của ḿnh bằng hai phương tiện chính. Đó là quân đội và công an.
Dĩ nhiên c̣n rất nhiều phương tiện khác các chế độ này sử dụng. Chẳng hạn kiểm soát thông tin, giới hạn sự đi lại, nghiêm cấm không được tụ tập mà không có xin phép và được cho phép trước, hệ thống ṭa án hoàn toàn do hành pháp kiểm soát, suy tôn và thần tượng hóa lănh tụ v..v..
Tuy nhiên quân đội và công an là những phương tiện chính và được Đức Quốc Xă, dưới sự lănh đạo của nhà độc tài khét tiếng Hitler, rèn luyện và sử dụng tuyệt luân. Quân đội Đức (Wehrmacht) là công cụ hùng mạnh để Hitler xâm chiếm các nước Âu Châu khác, xây dựng bá quyền. Công an mật vụ vơ trang (SS) được sử dụng, không những để kiểm soát dân chúng và mọi thành phần khác của xă hội dân sự, mà không kém phần quan trọng, là để kiểm soát quân đội và các tướng lănh có tham vọng khác.
Tuy nhiên, không có chế độ độc tài nào sử dụng quân đội và công an sâu sắc và hiệu năng, để duy tŕ quyền lực lâu dài bằng hai nhân vật trùm cộng sản là Lenin và Stalin. Tuy Lenin là người tiên phong trên phương diện độc tài chuyên chính, nhưng Stalin mới là kẻ mài dũa phương thức đến độ lạnh lùng, tàn khốc chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Hitler giết 6 triệu người Do Thái vô tội qua các lực lượng an ninh, trong khi Stalin giết 20 triệu người Nga vô tội qua mật thám Xô Viết. Các chính quyền cộng sản trên thế giới, từ Trung Quốc, Bắc Hàn đến Việt Nam đều thừa hưởng truyền thống cai trị bằng công an và quân đội này.
Năm 1991, trước khi Liên Bang Xô Viết cáo chung, tuy bề mặt Hồng Quân Xô Viết chia rẽ giữa phe ủng hộ Yeltsin (Liên Bang Nga) và phe ủng hộ nhóm Bát Nhân Bang (Liên Bang Xô Viết) đảo chánh Gorbachev, đưa Yanayev lên nắm quyền hầu duy tŕ quyền lực của Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết. Nhóm Bát Nhân Bang cố gắng duy tŕ Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết hầu một cách gián tiếp duy tŕ Liên Bang Xô Viết như một thực thể chính trị.
Tuy nhiên, thực trạng là đa số tướng lănh của Hồng Quân Liên Xô đều ư thức được rằng, trong LBXV thực sự chỉ có Nga Sô là gánh vác mọi chi phí của ṭan bộ Hồng Quân Xô Viết và không c̣n kham nổi chi phí quá lớn lao nữa. Họ cảm thấy họ chỉ yêu và trung thành với Liên Bang Nga. Đối với họ, Liên Bang Xô Viết là một thí nghiệm điên rồ, phung phí, thất bại và đă đến lúc phải cáo chung.
Không c̣n sự ủng hộ của Hồng Quân Xô Viết, phe đảo chánh Bát Nhân Bang và Đảng Cộng Sản LBXV tan ră. Lần lượt các cộng ḥa khác nhau trong LBXV nhanh chóng thay phiên tuyên bố độc lập.
LBXV không c̣n hiện hữu và Gorbachev bắt buộc phải từ chức tổng thống của một thực thể chính trị đă cáo chung vào cuối năm 1991.
Việc đầu tiên dân chúng Liên Xô làm sau khi lật đổ Bát Nhân Bang là đạp đổ tượng của ông tổ KGB là Felix Dzerzhinsky, người sáng lập công an mật vụ KGB năm 1917.
Điểm tương đồng chúng ta nhận thấy trong mọi cuộc nổi dậy của quần chúng đạp đổ độc tài, từ xưa đến nay là, tuy các chế độ độc tài có tính công an trị, nhưng mật vụ và công an lại ḥan ṭan vắng bóng trong các biến động có tính quần chúng này. Chỉ có quân đội là giữ một vai tṛ then chốt. Đây là một hiện tượng cần được phân tách và lư giải để có thể rút kinh nghiệm cho một cuộc nổi dậy tại Viêt Nam trong tương lai.
Hiện tại, cuộc cách mạng tại các nước Bắc Phi và Trung Đông như Tunisia, Ai Cập (đă thành công), Lybia, Bahrain, Yemen, Marocco, Saudi Arabia …cho ta các nhận xét sau đây:
1. Các quốc gia này đều độc đảng trên thực tế hoặc trên nguyên tắc, hoặc quân chủ chuyên chế. Các chính quyền đă tại vị từ nhiều thập niên qua mà không có bầu cử tự do. Các cuộc bầu cử phần lớn là gian lận hoặc “đảng cử dân bầu” tương tự Việt Nam. Các quốc hội thông thường là quốc hội bù nh́n cũng tương tự Việt Nam.
2. Có ba thanh phần xă hội liên hệ chặc chẽ với nhau và được phân phát của cải vượt lên trên những thành phần xă hội khác: đảng viên (hoặc ḥang gia), giới lănh đạo quân đội và công an. Những thành phần này giầu có cỡ quốc tế trong những xă hội c̣n nghèo khổ. Hố sâu giữa người dân lao động, nông dân và 3 thành phần thượng lưu trên ngày càng đậm nét thêm.
3. Dân chúng căm phẫn công an nhiều hơn là căm phẫn quân đội, mặc dầu dân chúng đánh giá quân đội như là yếu tố có tính quyết định cao hơn công an cho sự thành công hay thất bại của các cuộc cách mạng. Tuy công an là công cụ hữu hiệu để kiểm sóat và đàn áp, nhưng một khi dân chúng đă hết sợ và đứng lên, th́ công an được đánh giá như không c̣n khả năng đối phó nữa.
4. Thực tế cho thấy rằng, mặc dầu quân đội có khả năng đàn áp dân chúng và giải tán biểu t́nh, nhưng quân đội tại Tunisia và Ai Cập đă đứng hẳn về phía dân tộc và ủng hộ những cải cách dân chủ thay v́ tiếp tục trung thành với các thể chế độc tài.
5. Cường độ chống đối chính quyền trong những quốc gia có quá tŕnh cải cách dân chủ thực sự ( Marocco, Jordan) thấp hơn cường độ chống đối tại những quốc gia có chính quyền bảo thủ và tham quyền cố vị (Tunisia, Egypt, Yemen, Bahrain, Saudi Arabia). Điều này chứng tỏ một chân lư mà người cộng sản Trung Quốc lẫn Việt Nam luôn chối bỏ. Đó là một quốc gia càng dân chủ th́ càng ổn định trên phương diện chính trị. Duy tŕ các chính quyền độc tài tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, về lâu về dài, sẽ đưa đến những bất ổn sâu xa cho quốc gia, khu vực và cho nền ḥa b́nh thế giới. Dân chủ hóa Trung Hoa, Việt Nam và Bắc Hàn sẽ đóng góp vô cùng lớn lao cho ḥa b́nh nhân lọai trong thế kỷ 21.
Có hai câu hỏi chúng ta cần nêu ra:
1. Chế độ CSVN gần gũi với mô thức độc tài nào nhất trong lịch sử ḷai người?
2. Trong tiến tŕnh dân chủ hóa Việt Nam, quân đội và công an sẽ có vai tṛ ǵ?
Khi chúng ta duyệt lại lịch sử thành lập các đảng CSVN (1930) và CSTQ (1921) th́ chúng ta nhận xét ngay rằng đảng CSVN ngay từ đầu đă lệ thuộc rất nhiều vào Đệ Tam Quốc Tế dưới sự lănh đạo của đảng CS Liên Xô. Ở điểm này, CSVN và CSTQ hoàn toàn khác nhau.
Khi mới thành lập th́ người CSVN lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy nhiên sau đó th́ theo chỉ thị của CS Liên Xô, Ông Hồ Chí Minh phải đổi tên lại là Đảng CS Đông Dương, bao gồm Lào và Cam Bốt. Điều này cho chúng ta thấy rằng, ngay từ những thập niên 30, CSLX đă e dè CSTQ và muốn đàn em của ḿnh là CSVN phải ảnh hưởng đến Lào và Cam Bốt để giới hạn sự bành trướng của TQ.
Dĩ nhiên trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam (1962-1975), Ông Hồ Chí Minh được sự viện trợ của cả 2 đàn anh CS qua chính sách đu dây khéo léo. Tuy nhiên ảnh hưởng của CSLX vẫn vượt trội CSTQ cho đến ngày Liên Bang Xô Viết sụp đổ.
Tuy cùng là độc tài chuyên chính vô sản, nhưng có những sự khác biệt cơ bản trong phương thức cai trị độc tài của hai đảng CS đàn anh khổng lồ trên.
Trước hết, trước khi cuộc cách mạng Bolshevik thành công tại Nga năm 1917 th́ Nga Ḥang cai trị đế quốc Nga bằng một bộ máy công an sắt máu. Chính Lenin là người chịu nhiều khốn đốn v́ guồng máy công an của Nga Ḥang. Ngay sau khi vừa cướp được chính quyền năm 1917, việc đầu tiên của Lenin là giao cho Felix Dzerzhinsky trách nhiệm thành lập một hệ thống mật vụ siêu quyền lực, tuyệt đối trung thành với ông và có trách nhiệm đè bẹp tất cả mọi đối lập bằng tất cả mọi phương tiện dù là bá đạo nhất. CSXV là một chế độ CS mang tính công an trị. Yếu tính này được chứng minh nổi bật khi chúng ta duyệt lại tranh chấp nội bộ giữa Stalin và Trotsky sau khi Lenin qua đời (1924). Trotsky không những đă là Bộ Trưởng Quốc Pḥng (1918-1925) mà c̣n chính là người được Lenin giao cho trách nhiệm sáng lập và chỉ huy hồng quân Liên Xô. Trotsky cũng được công nhận là lư thuyết gia CS sáng giá nhất sau Lenin.
Trong khi đó Stalin là tổng bí thư đảng, lúc đó chưa phải là một chức vụ tối quan trọng v́ Lenin giữ chức vụ tương đương chủ tịch nước (tức Hội Đồng Bộ Trưởng- Council of People’s Commissars) và uy tín của Lenin bao trùm đảng và nhà nước. Tuy nhiên Stalin kiểm sóat mật vụ KGB. Qua mật vụ KGB, Stalin đă đánh bật Trotsky ra khỏi trung tâm quyền lực. Cuối cùng Trotsky phải lưu vong và bị KGB ám sát tại Mễ Tây Cơ.
V́ thế, theo mô h́nh Liên Xô th́ kẻ nào nắm được mật vụ KGB sẽ nắm được đảng và quyền lực tuyệt đối.
Trong khi đó, t́nh h́nh tại Trung Quốc khác hẳn. Đảng CSTQ sống c̣n và vươn lên trong khung cảnh hai cuộc chiến đẫm máu. Đó là, một mặt, cuộc nội chiến quốc cộng giữa Đảng CSTQ và Trung Hoa Quốc Dân Đảng dưới sự lănh đạo của Tưởng Giới Thạch. Mặt kia là cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của Nhật Bản chiếm cứ Măn Châu và nhiều cứ điểm khác.
Sau khi đảng CSTQ được thành lập, Stalin cũng đă gởi rất nhiều cán bộ do CSLX huấn luyện để tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ với mục đích lọai Mao Trach Đông và phe nhóm của ông ra khỏi trung tâm quyền lực. Tuy nhiên Mao Trạch Đông, ng̣ai sự kiện là một tư tưởng gia có nhiều sáng tạo, ông c̣n là một thiên tài quân sự. Ông đă chỉ huy cuộc vạn lư trường chinh lịch sử, thóat khỏi sự truy kích của Tưởng Giới Thạch, xây dựng cơ sở, củng cố quân lực, góp phần vào việc đánh đuổi quân đội Nhật và sau cùng chiến thắng Tưởng Giới Thạch, thống trị lục địa Trung Quốc. Dĩ nhiên Mao Trạch Đông cũng không quên thanh trừng và tận diệt bè phái do Stalin cấy vào nội bộ CSTQ.
Trong cuộc vạn lư trương chinh, ông thường được gọi là Mao Chủ Tịch, không phải v́ ông là chủ tịch đảng, hoặc chủ tịch nhà nước, v́ lúc đó chưa có 2 chức vụ này. Ông được gọi là Mao Chủ Tịch v́ Ông là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương (UBQQTU), tương đương với chức vụ tổng tư lệnh quân lực ngày hôm nay.
Chính v́ truyền thống này, căn bản quyền lực của hai đảng CSTQ và đảng CSLX hoàn toàn khác nhau.
Trong đảng CSTQ, kẻ nào nắm được quân đội sẽ nắm được đảng và sau đó chính quyền. Công an chỉ là một công cụ phụ thuộc để kiểm soát dân chúng mà thôi.
Chính v́ lư do đó, chúng ta thấy Đặng Tiểu B́nh chỉ giữ một chức vụ phó thủ tướng tương đối khiêm nhượng trong chính quyền, nhưng vẫn được suy tôn là lănh tụ tối cao (paramount leader), ra lệnh cho Thủ Tướng Lư Bằng và Chủ Tịch Đảng Triệu Tử Dương. Then chốt là vào thời điểm Thiên An Môn 1989 đó, Đặng Tiểu B́nh giữ chức vụ chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Trung Ương như Mao Trạch Đông đă từng giữ. Cũng trong chức vụ bày, họ Đặng đă ra lệnh quân đội đàn áp đẫm máu công trường, cứu đảng CSTQ.