vuitoichat
04-02-2011, 19:53
Việc nhận con nuôi từ Việt Nam của các cặp vợ chồng Mỹ có thể sẽ sớm thành hiện thực trong thời gian ngắn sắp tới sau một thời gian gián đoạn.
AFP photo/Hoàng Đ́nh Nam
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-vn-resume-adoption-act-this-yr-vha-04022011125815.html/adoption-305.jpg
Một phụ nữ Mỹ đang ẳm 2 em bé con nuôi VN 6 tháng tuổi tại Hà Nội ngày 02 Tháng Tám 2002.
Nhân chuyến thăm gần đây tới Việt Nam, bà Susan Jacobs, cố vấn đặc biệt của chính phủ Hoa Kỳ về các vấn đề trẻ em, đă bày tỏ sự lạc quan về những dấu hiệu tích cực từ phía Việt Nam liên quan đến vấn đề giao nhận con nuôi xuyên quốc gia.
Từ ngày 13 đến 26 tháng 3 vừa qua, bà Susan Jacobs, Cố vấn đặc biệt của chính phủ Hoa Kỳ về các vấn đề trẻ em đă có chuyến thăm đến hai nước Đông Nam Á là Campuchia và Việt Nam để xem xét về khả năng nối lại việc giao nhận con nuôi của hai nước này với Hoa Kỳ.
Trở về Mỹ, bà Susan Jacobs đă bày tỏ sự lạc quan về kết quả của chuyến thăm và làm việc lần này, nhất là đối với thái độ tích cực từ chính phủ hai nước:
“Tôi đă đến Việt Nam và Campuchia và đây là một chuyến thăm làm việc rất tốt. Tôi rất hài ḷng về các cuộc gặp cũng như thái độ của các quan chức ở cả hai nước.”
Bà Jacobs cho rằng mặc dù phía chính phủ Campuchia đă cho thấy những dấu hiệu tích cực muốn nối lại hoạt động này nhưng vẫn c̣n thiếu nhiều các điều kiện cơ bản cần thiết về mặt pháp lư. Trong khi đó bà đánh giá cao Việt Nam về công tác chuẩn bị.
Tóm lược hoạt động giao nhận con nuôi giữa hai nước
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-vn-resume-adoption-act-this-yr-vha-04022011125815.html/adoption250.jpg
Một gia đ́nh Mỹ xin con nuôi VN. Từ trái qua: ông John Cullather, bé gái Claire Xuan Cullather, bé trai Peter Quang Cullather, bà Kathleen Brown trong một kỳ nghỉ ở Camden, Maine năm 2008. Ảnh do bà Kathleen Brown cung cấp.
Cả hai nước Việt Nam và Campuchia trước kia đều có chương tŕnh giao nhận con nuôi với Hoa Kỳ, nhưng sau đó đă bị dừng lại do những cáo buộc từ phía Hoa Kỳ đối với hai nước liên quan đến việc các quan chức tham nhũng trong hoạt động giao nhận con nuôi.
Trong bài điều tra của nhà nghiên cứu EJ Graff thuộc viện Schuster Institute hồi tháng chín năm ngoái, dựa trên các tài liệu thu thập được từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, th́ từ năm 2006 đến 2009, các cặp vợ chồng Mỹ đă nhận nuôi 2.220 trẻ từ phía Việt Nam. Và chỉ riêng trong năm 2007, phía Mỹ đă cấp visa cho 800 trẻ Việt Nam nhập cư vào Mỹ theo con đường này, chỉ có 20 trường hợp bị từ chối.
Trước đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đă kư thỏa thuận giao nhận con nuôi có thời hạn 3 năm vào năm 2005.
Tuy nhiên, theo tác giả E J Graff th́ chẳng bao lâu sau khi thỏa thuận này được kư kết, phía Hoa Kỳ đă phát hiện những dấu hiệu đáng nghi ngờ trong hoạt động giao nhận con nuôi tại Việt Nam với hiện tượng trẻ sơ sinh bị bỏ rơi tăng cao tại các cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi có hợp đồng giao nhận con nuôi quốc tế.
Cả hai nước Việt Nam và Campuchia trước kia đều có chương tŕnh giao nhận con nuôi với Hoa Kỳ, nhưng sau đó đă bị dừng lại do những cáo buộc từ phía Hoa Kỳ đối với hai nước liên quan đến việc các quan chức tham nhũng trong hoạt động giao nhận con nuôi.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc đó là Michael Michalak đă điện về Washington và nói rằng trước năm 2005, số trẻ sơ sinh bị bỏ rơi tại các cơ sở này rất thấp nhưng sau khi thỏa thuận có hiệu lực th́ con số trẻ bị bỏ rơi đă tăng lên đến mức 15 trẻ một tháng. Ông cho rằng việc trẻ bị bỏ rơi nhiều như vậy có dấu hiệu gian lận nhằm che giấu nguồn gốc trẻ.
Sau đó Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă tiến hành điều tra, và theo tài liệu mà tác giả E J Graff trích lại trong bài viết của ḿnh th́ các trạm xá, trại trẻ mồ côi của nhà nước đă tham gia vào hoạt động mua bán trẻ em, nói dối với các bà mẹ để trẻ có thể được giao cho phía nước ngoài làm con nuôi, ép buộc các nhân chứng, thậm chí cả các bà mẹ để đưa ra lời khai dối để có thể hoàn tất thủ tục giao nhận con nuôi.
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tin chắc là tại Việt Nam lúc đó đă tồn tại tham nhũng có hệ thống trên toàn quốc liên quan đến hoạt động giao nhận con nuôi bao gồm các văn pḥng đại diện giao nhận con nuôi, quan chức địa phương, giám đốc các cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi, quản lư các bệnh viện, công an, và thậm chí quan chức chính phủ.
Phía Việt Nam lúc đó bác bỏ các cáo buộc này. Giám đốc cơ quan giao nhận con nuôi quốc tế Việt Nam lúc đó là Vũ Đức Long nói rằng Việt nam không t́m thấy bất cứ sai phạm nào.
Cuối cùng, không c̣n con đường nào khác, phía Hoa Kỳ đă không tiếp tục gia hạn thỏa thuận giao nhận con nuôi với Việt Nam khi thỏa thuận này hết hạn vào ngày 1 tháng 9 năm 2008.
Những tiến triển mới và hy vọng
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/xa-hoi/foreigners-adopting-children-from-vietnam_QNhu%20-07062010113015.html/000_Hkg516895-250.jpg
Ngôi sao điện ảnh Hollywood Angelina Jolie và bé Pax Thiên (con nuôi VN) chuẩn bị rời VN tại sân bay quốc tế Nội Bài ngày 21 tháng 3 năm 2007.
Tuy nhiên chỉ khoảng 2 năm sau khi thỏa thuận với Hoa Kỳ chấm dứt, phía Việt Nam đă có những động thái tạo cơ sở cho việc nối lại hoạt động này. Tháng 6 năm ngoái, quốc hội Việt Nam đă thông qua luật nuôi con nuôi. Tháng 12 năm 2010, Việt nam gia nhập Công ước quốc tế Hague về con nuôi. Bà Susan Jacobs cho rằng, đây là một bước tiến hết sức quan trọng trong việc nối lại việc giao nhận con nuôi giữa hai nước:
“Việc Việt Nam gia nhập công ước Hague là một bước đi rất đáng kể, nó cho thấy là Việt Nam muốn được làm việc trong khuôn khổ quốc tế bao gồm những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến cho nhận con nuôi, và làm cho hệ thống trở nên minh bạch hơn. Và v́ vậy chúng tôi rất hài ḷng khi thấy Việt Nam gia nhập công ước và chúng tôi mong đợi Việt Nam trở thành đối tác của chúng ta một khi họ đă có đầy đủ các quy định pháp lư cần thiết sẵn sàng cho thủ tục này.”
Theo quy định từ phía Mỹ, th́ khi một nước đă gia nhập công ước Hague, đáp ứng được các đ̣i hỏi của công ước, và được phía Hoa Kỳ xem xét chấp thuận là một đối tác th́ việc giao nhận con nuôi giữa hai nước sẽ được thực hiện mà không cần một thỏa thuận song phương riêng rẽ.
Cũng trong chuyến thăm tới Việt Nam lần này bà Susan Jacobs đă nêu lên những quan ngại về tham nhũng mà phía Hoa Kỳ có đối với các quan chức Việt Nam. Bà cho biết:
Mục tiêu của chúng ta không phải là vội vă mà phải có các thủ tục sẵn sàng, và hệ thống vận hành không tham nhũng, và để bắt đầu chúng ta sẽ tiếp nhận các trường hợp con nuôi là trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, và trẻ lớn tuổi mà không có gia đ́nh ở Việt Nam.
Bà Susan Jacobs
“Chúng tôi đă đưa vấn đề này ra trước kia, chính phủ Việt Nam biết những quan ngại của chúng tôi và đó là lư do v́ sao mà chúng tôi để cho thỏa thuận song phương kết thúc mà chưa tái tục. Và Mỹ không phải là nước duy nhất làm việc này.
Việt Nam hiểu được những quan ngại của chúng tôi đối với hệ thống trước kia, và đó là một trong các lư do mà họ ngừng việc cho nhận con nuôi theo cách cũ và đào tạo người của ḿnh theo cách mới đúng đắn, theo như công ước Hague, và theo tôi th́ việc cho nhận con nuôi sắp tới sẽ không có các vấn đề về tham nhũng.”
Sau chuyến thăm bà Susan Jacobs cho biết bà không c̣n quan ngại nhiều như trước nhưng bà cho rằng cho đến khi hoạt động giao nhận con nuôi được tái tục, Việt Nam vẫn c̣n phải thực hiện một số việc quan trọng:
“Tôi không có lo lắng như trước kia nhưng tôi vẫn muốn biết những tiêu chuẩn mà họ sẽ đưa ra là ǵ trong việc cho phép các cơ sở cho nhận con nuôi, tôi muốn biết quy định về chi phí ra sao, và tôi mong đợi các thông tin đó và sẽ để cho đại sứ quán mỹ và các cơ quan liên quan xem xét.”
Theo bà Jacobs th́ mục tiêu trước mắt là phía Việt nam hoàn thiện các cơ sở pháp lư, quy định cần thiết, và v́ vậy quá tŕnh sẽ không diễn ra nhanh chóng. Bà nhấn mạnh:
“Mục tiêu của chúng ta không phải là vội vă mà phải có các thủ tục sẵn sàng, và hệ thống vận hành không tham nhũng, và để bắt đầu chúng ta sẽ tiếp nhận các trường hợp con nuôi là trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, và trẻ lớn tuổi mà không có gia đ́nh ở Việt Nam.”
Trong chuyến thăm tới Việt Nam, bà cũng đến thăm một cơ sở nuôi dạy trẻ có hoàn cảnh đặc biệt và bà rất có ấn tượng về chất lượng chăm sóc trẻ tại đây. Bà cho rằng có nhiều khả năng hoạt động giao nhận con nuôi giữa hai nước sẽ được tái tục trong năm nay.
Việt Hà, phóng viên RFA
AFP photo/Hoàng Đ́nh Nam
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-vn-resume-adoption-act-this-yr-vha-04022011125815.html/adoption-305.jpg
Một phụ nữ Mỹ đang ẳm 2 em bé con nuôi VN 6 tháng tuổi tại Hà Nội ngày 02 Tháng Tám 2002.
Nhân chuyến thăm gần đây tới Việt Nam, bà Susan Jacobs, cố vấn đặc biệt của chính phủ Hoa Kỳ về các vấn đề trẻ em, đă bày tỏ sự lạc quan về những dấu hiệu tích cực từ phía Việt Nam liên quan đến vấn đề giao nhận con nuôi xuyên quốc gia.
Từ ngày 13 đến 26 tháng 3 vừa qua, bà Susan Jacobs, Cố vấn đặc biệt của chính phủ Hoa Kỳ về các vấn đề trẻ em đă có chuyến thăm đến hai nước Đông Nam Á là Campuchia và Việt Nam để xem xét về khả năng nối lại việc giao nhận con nuôi của hai nước này với Hoa Kỳ.
Trở về Mỹ, bà Susan Jacobs đă bày tỏ sự lạc quan về kết quả của chuyến thăm và làm việc lần này, nhất là đối với thái độ tích cực từ chính phủ hai nước:
“Tôi đă đến Việt Nam và Campuchia và đây là một chuyến thăm làm việc rất tốt. Tôi rất hài ḷng về các cuộc gặp cũng như thái độ của các quan chức ở cả hai nước.”
Bà Jacobs cho rằng mặc dù phía chính phủ Campuchia đă cho thấy những dấu hiệu tích cực muốn nối lại hoạt động này nhưng vẫn c̣n thiếu nhiều các điều kiện cơ bản cần thiết về mặt pháp lư. Trong khi đó bà đánh giá cao Việt Nam về công tác chuẩn bị.
Tóm lược hoạt động giao nhận con nuôi giữa hai nước
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-vn-resume-adoption-act-this-yr-vha-04022011125815.html/adoption250.jpg
Một gia đ́nh Mỹ xin con nuôi VN. Từ trái qua: ông John Cullather, bé gái Claire Xuan Cullather, bé trai Peter Quang Cullather, bà Kathleen Brown trong một kỳ nghỉ ở Camden, Maine năm 2008. Ảnh do bà Kathleen Brown cung cấp.
Cả hai nước Việt Nam và Campuchia trước kia đều có chương tŕnh giao nhận con nuôi với Hoa Kỳ, nhưng sau đó đă bị dừng lại do những cáo buộc từ phía Hoa Kỳ đối với hai nước liên quan đến việc các quan chức tham nhũng trong hoạt động giao nhận con nuôi.
Trong bài điều tra của nhà nghiên cứu EJ Graff thuộc viện Schuster Institute hồi tháng chín năm ngoái, dựa trên các tài liệu thu thập được từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, th́ từ năm 2006 đến 2009, các cặp vợ chồng Mỹ đă nhận nuôi 2.220 trẻ từ phía Việt Nam. Và chỉ riêng trong năm 2007, phía Mỹ đă cấp visa cho 800 trẻ Việt Nam nhập cư vào Mỹ theo con đường này, chỉ có 20 trường hợp bị từ chối.
Trước đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đă kư thỏa thuận giao nhận con nuôi có thời hạn 3 năm vào năm 2005.
Tuy nhiên, theo tác giả E J Graff th́ chẳng bao lâu sau khi thỏa thuận này được kư kết, phía Hoa Kỳ đă phát hiện những dấu hiệu đáng nghi ngờ trong hoạt động giao nhận con nuôi tại Việt Nam với hiện tượng trẻ sơ sinh bị bỏ rơi tăng cao tại các cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi có hợp đồng giao nhận con nuôi quốc tế.
Cả hai nước Việt Nam và Campuchia trước kia đều có chương tŕnh giao nhận con nuôi với Hoa Kỳ, nhưng sau đó đă bị dừng lại do những cáo buộc từ phía Hoa Kỳ đối với hai nước liên quan đến việc các quan chức tham nhũng trong hoạt động giao nhận con nuôi.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc đó là Michael Michalak đă điện về Washington và nói rằng trước năm 2005, số trẻ sơ sinh bị bỏ rơi tại các cơ sở này rất thấp nhưng sau khi thỏa thuận có hiệu lực th́ con số trẻ bị bỏ rơi đă tăng lên đến mức 15 trẻ một tháng. Ông cho rằng việc trẻ bị bỏ rơi nhiều như vậy có dấu hiệu gian lận nhằm che giấu nguồn gốc trẻ.
Sau đó Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đă tiến hành điều tra, và theo tài liệu mà tác giả E J Graff trích lại trong bài viết của ḿnh th́ các trạm xá, trại trẻ mồ côi của nhà nước đă tham gia vào hoạt động mua bán trẻ em, nói dối với các bà mẹ để trẻ có thể được giao cho phía nước ngoài làm con nuôi, ép buộc các nhân chứng, thậm chí cả các bà mẹ để đưa ra lời khai dối để có thể hoàn tất thủ tục giao nhận con nuôi.
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tin chắc là tại Việt Nam lúc đó đă tồn tại tham nhũng có hệ thống trên toàn quốc liên quan đến hoạt động giao nhận con nuôi bao gồm các văn pḥng đại diện giao nhận con nuôi, quan chức địa phương, giám đốc các cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi, quản lư các bệnh viện, công an, và thậm chí quan chức chính phủ.
Phía Việt Nam lúc đó bác bỏ các cáo buộc này. Giám đốc cơ quan giao nhận con nuôi quốc tế Việt Nam lúc đó là Vũ Đức Long nói rằng Việt nam không t́m thấy bất cứ sai phạm nào.
Cuối cùng, không c̣n con đường nào khác, phía Hoa Kỳ đă không tiếp tục gia hạn thỏa thuận giao nhận con nuôi với Việt Nam khi thỏa thuận này hết hạn vào ngày 1 tháng 9 năm 2008.
Những tiến triển mới và hy vọng
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnam/xa-hoi/foreigners-adopting-children-from-vietnam_QNhu%20-07062010113015.html/000_Hkg516895-250.jpg
Ngôi sao điện ảnh Hollywood Angelina Jolie và bé Pax Thiên (con nuôi VN) chuẩn bị rời VN tại sân bay quốc tế Nội Bài ngày 21 tháng 3 năm 2007.
Tuy nhiên chỉ khoảng 2 năm sau khi thỏa thuận với Hoa Kỳ chấm dứt, phía Việt Nam đă có những động thái tạo cơ sở cho việc nối lại hoạt động này. Tháng 6 năm ngoái, quốc hội Việt Nam đă thông qua luật nuôi con nuôi. Tháng 12 năm 2010, Việt nam gia nhập Công ước quốc tế Hague về con nuôi. Bà Susan Jacobs cho rằng, đây là một bước tiến hết sức quan trọng trong việc nối lại việc giao nhận con nuôi giữa hai nước:
“Việc Việt Nam gia nhập công ước Hague là một bước đi rất đáng kể, nó cho thấy là Việt Nam muốn được làm việc trong khuôn khổ quốc tế bao gồm những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến cho nhận con nuôi, và làm cho hệ thống trở nên minh bạch hơn. Và v́ vậy chúng tôi rất hài ḷng khi thấy Việt Nam gia nhập công ước và chúng tôi mong đợi Việt Nam trở thành đối tác của chúng ta một khi họ đă có đầy đủ các quy định pháp lư cần thiết sẵn sàng cho thủ tục này.”
Theo quy định từ phía Mỹ, th́ khi một nước đă gia nhập công ước Hague, đáp ứng được các đ̣i hỏi của công ước, và được phía Hoa Kỳ xem xét chấp thuận là một đối tác th́ việc giao nhận con nuôi giữa hai nước sẽ được thực hiện mà không cần một thỏa thuận song phương riêng rẽ.
Cũng trong chuyến thăm tới Việt Nam lần này bà Susan Jacobs đă nêu lên những quan ngại về tham nhũng mà phía Hoa Kỳ có đối với các quan chức Việt Nam. Bà cho biết:
Mục tiêu của chúng ta không phải là vội vă mà phải có các thủ tục sẵn sàng, và hệ thống vận hành không tham nhũng, và để bắt đầu chúng ta sẽ tiếp nhận các trường hợp con nuôi là trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, và trẻ lớn tuổi mà không có gia đ́nh ở Việt Nam.
Bà Susan Jacobs
“Chúng tôi đă đưa vấn đề này ra trước kia, chính phủ Việt Nam biết những quan ngại của chúng tôi và đó là lư do v́ sao mà chúng tôi để cho thỏa thuận song phương kết thúc mà chưa tái tục. Và Mỹ không phải là nước duy nhất làm việc này.
Việt Nam hiểu được những quan ngại của chúng tôi đối với hệ thống trước kia, và đó là một trong các lư do mà họ ngừng việc cho nhận con nuôi theo cách cũ và đào tạo người của ḿnh theo cách mới đúng đắn, theo như công ước Hague, và theo tôi th́ việc cho nhận con nuôi sắp tới sẽ không có các vấn đề về tham nhũng.”
Sau chuyến thăm bà Susan Jacobs cho biết bà không c̣n quan ngại nhiều như trước nhưng bà cho rằng cho đến khi hoạt động giao nhận con nuôi được tái tục, Việt Nam vẫn c̣n phải thực hiện một số việc quan trọng:
“Tôi không có lo lắng như trước kia nhưng tôi vẫn muốn biết những tiêu chuẩn mà họ sẽ đưa ra là ǵ trong việc cho phép các cơ sở cho nhận con nuôi, tôi muốn biết quy định về chi phí ra sao, và tôi mong đợi các thông tin đó và sẽ để cho đại sứ quán mỹ và các cơ quan liên quan xem xét.”
Theo bà Jacobs th́ mục tiêu trước mắt là phía Việt nam hoàn thiện các cơ sở pháp lư, quy định cần thiết, và v́ vậy quá tŕnh sẽ không diễn ra nhanh chóng. Bà nhấn mạnh:
“Mục tiêu của chúng ta không phải là vội vă mà phải có các thủ tục sẵn sàng, và hệ thống vận hành không tham nhũng, và để bắt đầu chúng ta sẽ tiếp nhận các trường hợp con nuôi là trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, và trẻ lớn tuổi mà không có gia đ́nh ở Việt Nam.”
Trong chuyến thăm tới Việt Nam, bà cũng đến thăm một cơ sở nuôi dạy trẻ có hoàn cảnh đặc biệt và bà rất có ấn tượng về chất lượng chăm sóc trẻ tại đây. Bà cho rằng có nhiều khả năng hoạt động giao nhận con nuôi giữa hai nước sẽ được tái tục trong năm nay.
Việt Hà, phóng viên RFA