woaini1982
04-04-2011, 22:14
Nhiều sách địa lư và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rơ Băi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lư Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lư Trường Sa từ lâu đă là lănh thổ Việt Nam.
Dưới đây VnEpress xin giới thiệu tập tài liệu chính thức về cơ sở lịch sử, pháp lư về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.
Trích đoạn:
... "Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lư; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lư về phía Đông; quần đảo Trường Sa chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lư về phía Đông.
Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu mơ hồ; họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền v́ có những băi đá ngầm. Ngày xưa người Việt Nam gọi là Băi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lư Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lư Trường Sa như các sách và bản đồ cổ của Việt Nam đă chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Parcel hay Paracels.
Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng hải, người ta đă phân biệt có hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Măi cho đến năm 1787 - 1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo sát Kergariou-Locmaria mới xác định được rơ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Hoàng Sa (Paracel) như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo này với quần đảo Trường Sa ở phía Nam.
Các bản đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa Biển Đông, phía đông Việt Nam, bên ngoài những đảo ven bờ của Việt Nam.
Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc tế ngày nay ghi là Paracels và Spratley hoặc Spratly chính là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Từ lâu nhân dân Việt Nam đă phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đă chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của ḿnh đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà b́nh.
Nhiều sách địa lư và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rơ Băi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lư Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lư Trường Sa từ lâu đă là lănh thổ Việt Nam.
http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/a2/84/86/ANH-1.jpg
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rơ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngăi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một băi cát dài, gọi là Băi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Trong Giáp Ngọ b́nh nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Băi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lănh thổ Việt Nam.
Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quư Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lư, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đ́nh bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rơ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngăi.
"Xă An Vĩnh, huyện B́nh Sơn, Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh th́ đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải".
http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/a2/84/86/dai-nam-nhat-thong-toan-do.jpg
Đại Nam Nhất thống Toàn đồ.
... Phủ Quảng Ngăi, huyện B́nh Sơn có xă An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ ḥn này sang ḥn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh th́ đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có băi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng ngh́n, hàng vạn, thấy người th́ đậu ṿng quanh không tránh. Trên băi vật lạ rất nhiều. Ốc vân th́ có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi th́ rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến băi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn th́ ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
Các thuyền ngoại phiên bị băo thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xă An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm th́ đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, ṿng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám th́ về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đă xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quư Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở B́nh Thuận, hoặc người xă Cảnh Dương, ai t́nh nguyện đi th́ cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đ̣, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, t́m lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, c̣n vàng bạc của quư ít khi lấy được”. ...
VnExpress
Dưới đây VnEpress xin giới thiệu tập tài liệu chính thức về cơ sở lịch sử, pháp lư về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông.
Trích đoạn:
... "Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo ở ngoài khơi Việt Nam: quần đảo Hoàng Sa chỗ gần nhất cách đảo Ré, một đảo ven bờ của Việt Nam, khoảng 120 hải lư; cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lư về phía Đông; quần đảo Trường Sa chỗ gần nhất cách Vịnh Cam Ranh khoảng 250 hải lư về phía Đông.
Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu mơ hồ; họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền v́ có những băi đá ngầm. Ngày xưa người Việt Nam gọi là Băi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lư Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lư Trường Sa như các sách và bản đồ cổ của Việt Nam đă chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel, Parcel hay Paracels.
Về sau, với những tiến bộ của khoa học và hàng hải, người ta đă phân biệt có hai quần đảo: quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Măi cho đến năm 1787 - 1788, cách đây hai trăm năm, đoàn khảo sát Kergariou-Locmaria mới xác định được rơ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Hoàng Sa (Paracel) như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo này với quần đảo Trường Sa ở phía Nam.
Các bản đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực Pracel (tức là cả Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa Biển Đông, phía đông Việt Nam, bên ngoài những đảo ven bờ của Việt Nam.
Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc tế ngày nay ghi là Paracels và Spratley hoặc Spratly chính là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Từ lâu nhân dân Việt Nam đă phát hiện quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước Việt Nam đă chiếm hữu và thực hiện chủ quyền của ḿnh đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà b́nh.
Nhiều sách địa lư và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rơ Băi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lư Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lư Trường Sa từ lâu đă là lănh thổ Việt Nam.
http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/a2/84/86/ANH-1.jpg
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rơ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngăi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một băi cát dài, gọi là Băi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Trong Giáp Ngọ b́nh nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Băi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ phận của lănh thổ Việt Nam.
Phủ biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quư Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776, viết về lịch sử, địa lư, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều đ́nh bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rơ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngăi.
"Xă An Vĩnh, huyện B́nh Sơn, Phủ Quảng Nghĩa, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh th́ đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải vật và hoá vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải".
http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/a2/84/86/dai-nam-nhat-thong-toan-do.jpg
Đại Nam Nhất thống Toàn đồ.
... Phủ Quảng Ngăi, huyện B́nh Sơn có xă An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ ḥn này sang ḥn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh th́ đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có băi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng ngh́n, hàng vạn, thấy người th́ đậu ṿng quanh không tránh. Trên băi vật lạ rất nhiều. Ốc vân th́ có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi th́ rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là Trắng bông, giống đồi mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến băi, lấy về dùng vôi sát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn th́ ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
Các thuyền ngoại phiên bị băo thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xă An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm th́ đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, ṿng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám th́ về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đă xem số của cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quư Tỵ năm năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở B́nh Thuận, hoặc người xă Cảnh Dương, ai t́nh nguyện đi th́ cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đ̣, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, t́m lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, c̣n vàng bạc của quư ít khi lấy được”. ...
VnExpress