vuitoichat
04-21-2011, 12:43
Kissinger người Mỹ gốc Đức và Đức gốc Do thái, sinh tại Barvaria, Đức ngày 27-5-1923, năm 1938 sang Mỹ tỵ nạn khi Đức Quốc Xă khủng bố và bài Do Thái dữ dội. Cậu và và gia đ́nh sinh sống tại New York, xong trung học tại đây, Kissinger lên đại học City College of the New York , học kế toán. Năm 1943 bị động viên vào quân đội, phục vụ tại Sư đoàn bộ binh 84, sau được người bạn gốc Đức đưa sang ngành t́nh báo Sư đoàn, lên trung sĩ. Chiến tranh kết thúc, năm 1946 Kissinger được giao nhiệm vụ truy lùng các đảng viên Quốc xă c̣n lẩn trốn. Năm 1950 đậu BA tại Harvard College, năm 1952 đậu MA (Cao học) và năm 1954 đậu Ph.D (Tiến sĩ) tại Harvard university. Ông ở lai làm phụ giáo tại Đại học Havard, năm 1975 viết một cuốn sách nói về vũ khí nguyên tử. Năm 1962 ông trở thành giáo sư thực thụ Harvard.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/04/images.jpg
Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Ảnh On the net
Từ năm 1956 tới 1968 nhà tỷ phú Nelson Rockefeller mướn Kissinger soạn thảo các dự án cho ông. Qua lời mời của Cabot Lodge, Kissinger sang thăm Việt nam năm 1965, 1966. Ngày 19-8-1966 ông viết bài nhận định đầu tiên về Việt Nam trên tạp chí Look, ông cho biết cuộc chiến Việt Nam khó kết thúc bằng chiến thắng quân sự mà cần thương thuyết t́m ḥa b́nh. Năm 1968 Kissinger trở thành chính trị gia nổi tiếng, khi Nixon đang tranh cử Tổng thống với Humphrey, Kissinger được mời làm cố vấn trong ban cố vấn của Nixon về bang giao quốc tế. Một tháng sau khi Nixon đắc cử Tổng thống, Kissinger được mời làm cố vấn an ninh quốc gia, từ một người lính trơn năm 1943 ông đă trở thành cố vấn Tổng thống và sau đó bộ trưởng ngọai giao. Ông là người nổi bật trong chính sách ngoại giao Mỹ từ 1969-1977, trong thời gian này, Kissinger mở màn cho chính sách ḥa hoăn (détente) với Nga sô, mở đầu bang giao với Trung Cộng và giữ vai tṛ chính trong tại cuộc ḥa đàm Ba lê.
Với tư cách cố vấn Tổng thống, ông mở màn cho chính sách ḥa hoăn với CS Nga, đàm phán về tài giảm binh bị và hiệp ước chống đầu đạn nguyên tử với Brezhnev, Tổng bí Thư Nga Sô. Kissinger sang Trung Cộng hai lần tháng 7 và tháng 10-1971 để sửa soạn cho cuộc hội họp thượng đỉnh giữa Nixon, Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1972, để hai siêu cường thiết lập bang giao, chấm dứt 23 năm thù nghịch. Kết quả của bang giao là một liên minh chiến lược ngầm chống Nga của Mỹ và Trung Cộng, nhưng hai bên chỉ thực sự có liên hệ ngọai giao từ 1979 v́ vụ Watergate làm chính phủ Mỹ bối rối và v́ Mỹ vẫn công nhận Đài Loan.
Nixon đắc cử Tổng thống cuối 1968 v́ lời hứa đi t́m ḥa b́nh trong danh dự và chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông đưa ra chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để người Mỹ rút dần, VNCH tự vệ chống CSBV và VC. Kisinger đóng vai tṛ then chốt trong kế hoạch oanh tạc tại Miên để ngăn chận những cuộc tấn công của CS vào VNCH từ Miên và ngăn chận địch dùng đường ṃn Hồ Chí Minh để tiếp viện, cuộc hành quân vượt biên giới Miên năm 1970 và những cuộc oanh tạc mở rộng xứ chùa tháp giúp Lonol v́ biết Khmer đỏ đang thắng thế.
Ḥa đàm Paris bắt đầu từ 10-5-1968 do Harriman đại diện Mỹ và Xuân Thủy đại diện Hà Nội khai mạc. Từ tháng 5 cho tới tháng 10 cuộc ḥa đàm dậm chân tại chỗ v́ Hà Nội đ̣i Mỹ phải ngưng oanh tạc toàn diện miền Bắc VN, ngày 31-10-1968 TT Johnson chấp nhận yêu cầu của BV, khi ấy cuộc đàm phán mới thực sự bắt đầu. Năm 1969 Nixon đắc cử nhậm chức Tổng thống, Cabot Lodge thay thế Harriman. Việc thương thuyết thực ra không đạt được trên bàn hội nghị nhưng do đi đêm (secret negotiations) giữa Kissinger và trùm Cộng Sản BV Lê Đức Thọ bắt đầu từ 4-8-1969. Suốt ba năm liên tiếp, Thọ yêu cầu Mỹ loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu, Kissinger và Nixon không chấp nhận.
Một tiến triển, khai thông lớn vào ngày 8-10-1972, chiến dịch Nguyễn Huệ hành quân sang Miên khiến CSBV mất tinh thần, họ càng lo sợ bị cô lập khi Nixon đă ḥa hoăn được với Nga và Trung Cộng, hai siêu cường đă yểm trợ cho Hà Nội. Trong một cuộc thương thuyết với Kissinger, Lê Đức Thọ không đ̣i hỏi phải lật đổ Nguyễn Văn Thiệu và hai chính phủ VNCH và chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam sẽ đi đến thỏa thuận. Trong ṿng mười ngày mật đàm đi tới bản dự thảo Hiệp định, Kissinger vui mừng họp báo cho biết ḥa b́nh đă ở trong tầm tay.
Chính phủ Sài G̣n không hay biết ǵ về mật đàm giữa Mỹ và CSBV, khi được tiến sĩ Kissinger cho thấy bản dự thảo, TT Thiệu vô cùng bất măn với Hoa Kỳ, đ̣i thay đổi nhiều khoản và tuyên bố trên đài phát thanh, truyền h́nh chỉ trích bản dự thảo c̣n tệ hơn trước. Phía Hà nội cũng bất măn cho rằng Kissinger đă đánh lừa họ. Số tử vong của Mỹ lên cao khiến phong trào phản chiến càng mạnh hơn, đầu năm 1973 Nixon bị Quốc hội, cử tri áp lực phải rút quân về nước và ông cũng ép buộc VNCH phải kư hiệp định dù không được sửa chữa, đúng là “dùi đánh đục, đục đánh gỗ”. Nixon cam kết với chính phủ Sài g̣n sẽ tiếp tục yểm trợ miền Nam khi BV vi phạm Hiệp định. Giáng sinh 1972, Nixon cho oanh tạc BV dữ dội để họ phải trở lại bàn hội nghị và cũng để trấn an TT Thiệu yên tâm, cuối cùng Thiệu phải kư. Ngày 23-1-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận bản dự thảo đă được đă được soạn từ ba tháng trước. Hiệp định được chính thức kư kết ngày 27-1-1973 tại khách sạn Majestic, Paris. Đại diện hai bên gồm Cabot Lodge, Trần Văn Lắm, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Thị B́nh .
Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức v́ vụ Watergate, 9 tháng sau VNCH sụp đổ vào ngày 30-4-1975, ông Thiệu từ chức, lên án Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh.
* * *
Gần đây cựu ngọai trưởng Kissinger nói chuyện trong một cuộc hội thảo tại Bộ ngoại giao Mỹ về lịch sử sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Bộ ngọai giao cũng đă cho ấn hành nhiều bài tường tŕnh dựa trên hồ sơ giải mật về những quyết định của Hoa Kỳ tại VN trong mấy năm cuối cùng của cuộc chiến .
Kissinger cho rằng phần lớn thất bại ở Việt Nam do chúng ta (người Mỹ) gây ra cho chính ḿnh, trước hết ta đă đánh giá quá thấp sự kiên tŕ lỳ lợm của các nhà lănh đạo CS Hà Nội. Ông đánh giá cuôc chiến một cách bi quan, nó kết thúc bằng cảnh Sài G̣n thất thủ ô nhục, ông ta than văn cho những nỗi niềm đau khổ của lớp thế hệ Mỹ trong khi cuộc chiến kéo dài. Kissinger nói trọng tâm chính sách Hoa Kỳ hồi ấy là để bảo vệ sự sống c̣n của miền Nam VN đă thất bại, Người Mỹ đă không khuất phục được kẻ thù, Hoa Kỳ muốn đàm phán nhưng Hà Nội chỉ muốn chiến thắng.
Những bất đồng quan điểm về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đă ảnh hưởng đến tinh thần của chính sách ngọai giao và rồi ảnh hưởng đến cả nước Mỹ. Ông nói đối với tôi, bi kịch của cuộc chiến tranh VN không phải chỉ có bất đồng ư kiến, điều đó không thể tránh được nhưng người Mỹ đă hết c̣n tin tưởng nhau trong cuộc chiến. Tôi cho là tất cả sự thất bại ở VN do chính chúng ta tạo nên. Tôi mong có một chung cục khác hơn là cảnh chúng ta xâu xé nhau tan nát.
Cựu ngọai trưởng khen Cộng Sản Hà Nội đă quyết tâm theo đuổi mục tiêu thống nhất hai miền Nam Bắc, họ đă đánh bại thực dân Pháp năm 1954, các sử gia cũng kết luận như thế. Ông trích lời nhà quân sử John Prados, tác giả cuốn “Việt Nam, Lịch Sử Cuộc Chiến Tranh Không Thể Thắng Được 1945-1975” và nói miền Bắc đă có mục tiêu rơ ràng – thống nhất đất nước- và niềm tin tuyệt đối vào chủ trương ấy.
Kissinger khen Lê Đức Thọ, người đi đêm với ông trong những năm ḥa đàm là người khôn khéo thi hành đường lối của Hà Nội để thắng Mỹ, ông nói Thọ đă mổ xẻ chúng ta y như một nhà giải phẫu với đường dao thật khéo. Ngày 10-12-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ được giải Nobel ḥa b́nh cho việc kư Hiệp định Paris 12 tháng trước đó, Kissinger nhận giải, ông nói tôi muối mặt nhận giải (he accepted the award “with humility”), Thọ từ chối, ông nói với Kissinger chiến tranh vẫn c̣n tiếp diễn. Hiệp định Paris là lối thoát cho Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Việt Nam khiến miền Nam VN bị nguy cơ CS xâm lăng.
Kissinger nói chúng ta biết đó là một hiệp định nguy hiểm, bấp bênh và cuộc chiến không thực sự chấm dứt nhưng Hoa Thịnh Đốn tin tưởng miền Nam VN có thể đẩy lui cuộc xâm lăng của CS.
Cựu bộ trưởng cho biết đàm phán với Thọ thật là vất vả, nếu không phải nói chuyện với hắn th́ đỡ khổ.
* * *
Người Mỹ vẫn thường tổ chức những buổi hội thảo nh́n lại quá khứ, cuộc chiến tranh Việt Nam đă để lại cho họ nhiều ám ảnh chua cay, chưa bao giờ đất nước bị phân hóa chia rẽ đến thế, nhất là những năm đầu thập niên 70, họ đă cắn xé nhau tan nát v́ bất đồng chính kiến bất đồng quan điểm. Không riêng ǵ Kissinger, nay nhiều người Mỹ đă thẳng thắn nh́n nhận Hoa Kỳ thất bại, thua cuộc, tháo chạy nhục nhă vào những ngày cuối tháng 4-1975. H́nh ảnh ông Đại sứ và những người Mỹ cuối cùng vội vă lên trực thăng trên nóc ṭa cao ốc làm hoen ố danh dự, thể diện của một siêu cường, nhưng Quốc hội phản chiến và những người chống chính phủ đă chấp nhận sự nhục nhă v́ quyền lợi của nước Mỹ. Nhận xét của cựu ngọai trưởng về nguyên do sự thất bại cũng không có ǵ mới lạ, nhiều người nói họ bại trận v́ cuộc chiến tại đất nhà (war at home) chứ không phải tại chiến trường, người Mỹ đă tạo ra chiến bại cho chính họ, có điều là nay Kissinger đă thẳng thắn nh́n vào sự thật.
Sự can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam có hai giai đọan rơ rệt: thứ nhất từ 1965-1968 dưới nhiệm kỳ Tổng thống Johnson và thứ hai từ 1969 tới những năm đầu thập niên 70 dưới nhiệm kỳ Tổng thống Nixon. Ngược ḍng lịch sử, năm 1965 là thời kỳ cao điểm của thuyết Domino, cụ thể là nếu mất Việt Nam sẽ kéo theo nhiều nước tại Đông Nam Á sụp đổ như trong ván cờ domino. Năm 1965 t́nh h́nh chiến sự tại miền Nam VN vô cùng bi đát, tính trung b́nh mỗi tuần mất một tiểu đoàn và một quận, trong ṿng 6 tháng VNCH sẽ bị rơi vào tay CS nếu không có sự can thiệp của người Mỹ. Được sự ủng hộ của lưỡng viện quốc hội và 78% dân Mỹ, TT Johnson không c̣n con đường nào khác hơn là đổ quân vào miền nam VN để cứu nguy sự sống c̣n của người bạn đồng minh.
Cuộc chiến ngày càng mở rộng, Johnson được quốc hội ủng hộ cho tăng quân đều đều hàng năm từ 184,300 người năm 1965…và mấy năm sau 1968 lên tới 536,100 người. Phong trào phản chiến ngày một lên cao, trong hai năm đầu 1965, 66 tuy có chống đối số người ủng hộ chính phủ c̣n cao khoảng 61%, 51% nhưng tỷ lệ ủng hộ ngày một giảm dần cho tới Tết Mậu thân 1968 th́ tụt thang nhanh chóng chỉ c̣n 30%. Năm 1968 đánh dấu một khúc quành bi thảm cho số phận của VNCH, mặc dù trận Tết Mậu Thân là chiến thắng quân sự lớn của VNCH và đồng minh nhưng niềm tin tưởng của người dân Mỹ vào chính phủ không c̣n, họ chống đối dữ dội hơn trước gấp bội phần đ̣i chính phủ phải đem quân về nước, t́m ḥa b́nh v́ trước mắt không biết bao giờ mới chiến tranh mới chấm dứt.
Nixon khi tranh cử hứa sẽ t́m ḥa b́nh trong danh dự và đem quân về nước, nhậm chức 1969 ông thực hiện lời hứa đó, có nghĩa là rút bỏ VNCH và Đông Dương. Nixon gặp quá nhiều khó khăn trắc trở gấp bội lần Johnson, chính phủ phải đương đầu với cuộc chiến tại đất nhà đi vào giai đoạn bạo động, đổ máu, bắn giết nhau giữa sinh viên cảnh sát, quân đội… Chính phủ Johnson c̣n có thực quyền giải quyết cuộc chiến nhưng Nixon không có thẩm quyền là bao, ông đă được cử tri, quốc hội giao trọng trách t́m ḥa b́nh trong danh dự, bỏ VN mà đối với Nixon, việc bỏ rơi đồng minh là điều bất nhẫn nó khiến cho sự hy sinh của 58 ngàn lính Mỹ trở thành vô nghĩa. Mặc dù nỗ lực bằng mọi cách để cứu nguy sự sống c̣n của miền nam VN nhưng Nixon không thể quay ngược bánh xe lịch sử khi mà phong trào phản chiến đă nắm được quốc hội, đă tước đoạt mọi thẩm quyền của ông.
Marshall McLuhan, nhà văn, giáo sư Gia Nă Đại đă nói về truyền thông trong chiến tranh Việt Nam như sau:
“Truyền h́nh đă mang những cảnh chiến tranh tàn bạo tới căn pḥng khách ấm cúng. Việt Nam thua từ trong những căn pḥng ấm cúng ở Hoa Kỳ chứ không phải tại mặt trận bên Việt Nam”
The Media:Vietnam war, Vietnamwar.net
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/04/images.jpg
Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Ảnh On the net
Từ năm 1956 tới 1968 nhà tỷ phú Nelson Rockefeller mướn Kissinger soạn thảo các dự án cho ông. Qua lời mời của Cabot Lodge, Kissinger sang thăm Việt nam năm 1965, 1966. Ngày 19-8-1966 ông viết bài nhận định đầu tiên về Việt Nam trên tạp chí Look, ông cho biết cuộc chiến Việt Nam khó kết thúc bằng chiến thắng quân sự mà cần thương thuyết t́m ḥa b́nh. Năm 1968 Kissinger trở thành chính trị gia nổi tiếng, khi Nixon đang tranh cử Tổng thống với Humphrey, Kissinger được mời làm cố vấn trong ban cố vấn của Nixon về bang giao quốc tế. Một tháng sau khi Nixon đắc cử Tổng thống, Kissinger được mời làm cố vấn an ninh quốc gia, từ một người lính trơn năm 1943 ông đă trở thành cố vấn Tổng thống và sau đó bộ trưởng ngọai giao. Ông là người nổi bật trong chính sách ngoại giao Mỹ từ 1969-1977, trong thời gian này, Kissinger mở màn cho chính sách ḥa hoăn (détente) với Nga sô, mở đầu bang giao với Trung Cộng và giữ vai tṛ chính trong tại cuộc ḥa đàm Ba lê.
Với tư cách cố vấn Tổng thống, ông mở màn cho chính sách ḥa hoăn với CS Nga, đàm phán về tài giảm binh bị và hiệp ước chống đầu đạn nguyên tử với Brezhnev, Tổng bí Thư Nga Sô. Kissinger sang Trung Cộng hai lần tháng 7 và tháng 10-1971 để sửa soạn cho cuộc hội họp thượng đỉnh giữa Nixon, Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1972, để hai siêu cường thiết lập bang giao, chấm dứt 23 năm thù nghịch. Kết quả của bang giao là một liên minh chiến lược ngầm chống Nga của Mỹ và Trung Cộng, nhưng hai bên chỉ thực sự có liên hệ ngọai giao từ 1979 v́ vụ Watergate làm chính phủ Mỹ bối rối và v́ Mỹ vẫn công nhận Đài Loan.
Nixon đắc cử Tổng thống cuối 1968 v́ lời hứa đi t́m ḥa b́nh trong danh dự và chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông đưa ra chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để người Mỹ rút dần, VNCH tự vệ chống CSBV và VC. Kisinger đóng vai tṛ then chốt trong kế hoạch oanh tạc tại Miên để ngăn chận những cuộc tấn công của CS vào VNCH từ Miên và ngăn chận địch dùng đường ṃn Hồ Chí Minh để tiếp viện, cuộc hành quân vượt biên giới Miên năm 1970 và những cuộc oanh tạc mở rộng xứ chùa tháp giúp Lonol v́ biết Khmer đỏ đang thắng thế.
Ḥa đàm Paris bắt đầu từ 10-5-1968 do Harriman đại diện Mỹ và Xuân Thủy đại diện Hà Nội khai mạc. Từ tháng 5 cho tới tháng 10 cuộc ḥa đàm dậm chân tại chỗ v́ Hà Nội đ̣i Mỹ phải ngưng oanh tạc toàn diện miền Bắc VN, ngày 31-10-1968 TT Johnson chấp nhận yêu cầu của BV, khi ấy cuộc đàm phán mới thực sự bắt đầu. Năm 1969 Nixon đắc cử nhậm chức Tổng thống, Cabot Lodge thay thế Harriman. Việc thương thuyết thực ra không đạt được trên bàn hội nghị nhưng do đi đêm (secret negotiations) giữa Kissinger và trùm Cộng Sản BV Lê Đức Thọ bắt đầu từ 4-8-1969. Suốt ba năm liên tiếp, Thọ yêu cầu Mỹ loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu, Kissinger và Nixon không chấp nhận.
Một tiến triển, khai thông lớn vào ngày 8-10-1972, chiến dịch Nguyễn Huệ hành quân sang Miên khiến CSBV mất tinh thần, họ càng lo sợ bị cô lập khi Nixon đă ḥa hoăn được với Nga và Trung Cộng, hai siêu cường đă yểm trợ cho Hà Nội. Trong một cuộc thương thuyết với Kissinger, Lê Đức Thọ không đ̣i hỏi phải lật đổ Nguyễn Văn Thiệu và hai chính phủ VNCH và chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam sẽ đi đến thỏa thuận. Trong ṿng mười ngày mật đàm đi tới bản dự thảo Hiệp định, Kissinger vui mừng họp báo cho biết ḥa b́nh đă ở trong tầm tay.
Chính phủ Sài G̣n không hay biết ǵ về mật đàm giữa Mỹ và CSBV, khi được tiến sĩ Kissinger cho thấy bản dự thảo, TT Thiệu vô cùng bất măn với Hoa Kỳ, đ̣i thay đổi nhiều khoản và tuyên bố trên đài phát thanh, truyền h́nh chỉ trích bản dự thảo c̣n tệ hơn trước. Phía Hà nội cũng bất măn cho rằng Kissinger đă đánh lừa họ. Số tử vong của Mỹ lên cao khiến phong trào phản chiến càng mạnh hơn, đầu năm 1973 Nixon bị Quốc hội, cử tri áp lực phải rút quân về nước và ông cũng ép buộc VNCH phải kư hiệp định dù không được sửa chữa, đúng là “dùi đánh đục, đục đánh gỗ”. Nixon cam kết với chính phủ Sài g̣n sẽ tiếp tục yểm trợ miền Nam khi BV vi phạm Hiệp định. Giáng sinh 1972, Nixon cho oanh tạc BV dữ dội để họ phải trở lại bàn hội nghị và cũng để trấn an TT Thiệu yên tâm, cuối cùng Thiệu phải kư. Ngày 23-1-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận bản dự thảo đă được đă được soạn từ ba tháng trước. Hiệp định được chính thức kư kết ngày 27-1-1973 tại khách sạn Majestic, Paris. Đại diện hai bên gồm Cabot Lodge, Trần Văn Lắm, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Thị B́nh .
Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức v́ vụ Watergate, 9 tháng sau VNCH sụp đổ vào ngày 30-4-1975, ông Thiệu từ chức, lên án Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh.
* * *
Gần đây cựu ngọai trưởng Kissinger nói chuyện trong một cuộc hội thảo tại Bộ ngoại giao Mỹ về lịch sử sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Bộ ngọai giao cũng đă cho ấn hành nhiều bài tường tŕnh dựa trên hồ sơ giải mật về những quyết định của Hoa Kỳ tại VN trong mấy năm cuối cùng của cuộc chiến .
Kissinger cho rằng phần lớn thất bại ở Việt Nam do chúng ta (người Mỹ) gây ra cho chính ḿnh, trước hết ta đă đánh giá quá thấp sự kiên tŕ lỳ lợm của các nhà lănh đạo CS Hà Nội. Ông đánh giá cuôc chiến một cách bi quan, nó kết thúc bằng cảnh Sài G̣n thất thủ ô nhục, ông ta than văn cho những nỗi niềm đau khổ của lớp thế hệ Mỹ trong khi cuộc chiến kéo dài. Kissinger nói trọng tâm chính sách Hoa Kỳ hồi ấy là để bảo vệ sự sống c̣n của miền Nam VN đă thất bại, Người Mỹ đă không khuất phục được kẻ thù, Hoa Kỳ muốn đàm phán nhưng Hà Nội chỉ muốn chiến thắng.
Những bất đồng quan điểm về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đă ảnh hưởng đến tinh thần của chính sách ngọai giao và rồi ảnh hưởng đến cả nước Mỹ. Ông nói đối với tôi, bi kịch của cuộc chiến tranh VN không phải chỉ có bất đồng ư kiến, điều đó không thể tránh được nhưng người Mỹ đă hết c̣n tin tưởng nhau trong cuộc chiến. Tôi cho là tất cả sự thất bại ở VN do chính chúng ta tạo nên. Tôi mong có một chung cục khác hơn là cảnh chúng ta xâu xé nhau tan nát.
Cựu ngọai trưởng khen Cộng Sản Hà Nội đă quyết tâm theo đuổi mục tiêu thống nhất hai miền Nam Bắc, họ đă đánh bại thực dân Pháp năm 1954, các sử gia cũng kết luận như thế. Ông trích lời nhà quân sử John Prados, tác giả cuốn “Việt Nam, Lịch Sử Cuộc Chiến Tranh Không Thể Thắng Được 1945-1975” và nói miền Bắc đă có mục tiêu rơ ràng – thống nhất đất nước- và niềm tin tuyệt đối vào chủ trương ấy.
Kissinger khen Lê Đức Thọ, người đi đêm với ông trong những năm ḥa đàm là người khôn khéo thi hành đường lối của Hà Nội để thắng Mỹ, ông nói Thọ đă mổ xẻ chúng ta y như một nhà giải phẫu với đường dao thật khéo. Ngày 10-12-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ được giải Nobel ḥa b́nh cho việc kư Hiệp định Paris 12 tháng trước đó, Kissinger nhận giải, ông nói tôi muối mặt nhận giải (he accepted the award “with humility”), Thọ từ chối, ông nói với Kissinger chiến tranh vẫn c̣n tiếp diễn. Hiệp định Paris là lối thoát cho Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Việt Nam khiến miền Nam VN bị nguy cơ CS xâm lăng.
Kissinger nói chúng ta biết đó là một hiệp định nguy hiểm, bấp bênh và cuộc chiến không thực sự chấm dứt nhưng Hoa Thịnh Đốn tin tưởng miền Nam VN có thể đẩy lui cuộc xâm lăng của CS.
Cựu bộ trưởng cho biết đàm phán với Thọ thật là vất vả, nếu không phải nói chuyện với hắn th́ đỡ khổ.
* * *
Người Mỹ vẫn thường tổ chức những buổi hội thảo nh́n lại quá khứ, cuộc chiến tranh Việt Nam đă để lại cho họ nhiều ám ảnh chua cay, chưa bao giờ đất nước bị phân hóa chia rẽ đến thế, nhất là những năm đầu thập niên 70, họ đă cắn xé nhau tan nát v́ bất đồng chính kiến bất đồng quan điểm. Không riêng ǵ Kissinger, nay nhiều người Mỹ đă thẳng thắn nh́n nhận Hoa Kỳ thất bại, thua cuộc, tháo chạy nhục nhă vào những ngày cuối tháng 4-1975. H́nh ảnh ông Đại sứ và những người Mỹ cuối cùng vội vă lên trực thăng trên nóc ṭa cao ốc làm hoen ố danh dự, thể diện của một siêu cường, nhưng Quốc hội phản chiến và những người chống chính phủ đă chấp nhận sự nhục nhă v́ quyền lợi của nước Mỹ. Nhận xét của cựu ngọai trưởng về nguyên do sự thất bại cũng không có ǵ mới lạ, nhiều người nói họ bại trận v́ cuộc chiến tại đất nhà (war at home) chứ không phải tại chiến trường, người Mỹ đă tạo ra chiến bại cho chính họ, có điều là nay Kissinger đă thẳng thắn nh́n vào sự thật.
Sự can thiệp của người Mỹ vào Việt Nam có hai giai đọan rơ rệt: thứ nhất từ 1965-1968 dưới nhiệm kỳ Tổng thống Johnson và thứ hai từ 1969 tới những năm đầu thập niên 70 dưới nhiệm kỳ Tổng thống Nixon. Ngược ḍng lịch sử, năm 1965 là thời kỳ cao điểm của thuyết Domino, cụ thể là nếu mất Việt Nam sẽ kéo theo nhiều nước tại Đông Nam Á sụp đổ như trong ván cờ domino. Năm 1965 t́nh h́nh chiến sự tại miền Nam VN vô cùng bi đát, tính trung b́nh mỗi tuần mất một tiểu đoàn và một quận, trong ṿng 6 tháng VNCH sẽ bị rơi vào tay CS nếu không có sự can thiệp của người Mỹ. Được sự ủng hộ của lưỡng viện quốc hội và 78% dân Mỹ, TT Johnson không c̣n con đường nào khác hơn là đổ quân vào miền nam VN để cứu nguy sự sống c̣n của người bạn đồng minh.
Cuộc chiến ngày càng mở rộng, Johnson được quốc hội ủng hộ cho tăng quân đều đều hàng năm từ 184,300 người năm 1965…và mấy năm sau 1968 lên tới 536,100 người. Phong trào phản chiến ngày một lên cao, trong hai năm đầu 1965, 66 tuy có chống đối số người ủng hộ chính phủ c̣n cao khoảng 61%, 51% nhưng tỷ lệ ủng hộ ngày một giảm dần cho tới Tết Mậu thân 1968 th́ tụt thang nhanh chóng chỉ c̣n 30%. Năm 1968 đánh dấu một khúc quành bi thảm cho số phận của VNCH, mặc dù trận Tết Mậu Thân là chiến thắng quân sự lớn của VNCH và đồng minh nhưng niềm tin tưởng của người dân Mỹ vào chính phủ không c̣n, họ chống đối dữ dội hơn trước gấp bội phần đ̣i chính phủ phải đem quân về nước, t́m ḥa b́nh v́ trước mắt không biết bao giờ mới chiến tranh mới chấm dứt.
Nixon khi tranh cử hứa sẽ t́m ḥa b́nh trong danh dự và đem quân về nước, nhậm chức 1969 ông thực hiện lời hứa đó, có nghĩa là rút bỏ VNCH và Đông Dương. Nixon gặp quá nhiều khó khăn trắc trở gấp bội lần Johnson, chính phủ phải đương đầu với cuộc chiến tại đất nhà đi vào giai đoạn bạo động, đổ máu, bắn giết nhau giữa sinh viên cảnh sát, quân đội… Chính phủ Johnson c̣n có thực quyền giải quyết cuộc chiến nhưng Nixon không có thẩm quyền là bao, ông đă được cử tri, quốc hội giao trọng trách t́m ḥa b́nh trong danh dự, bỏ VN mà đối với Nixon, việc bỏ rơi đồng minh là điều bất nhẫn nó khiến cho sự hy sinh của 58 ngàn lính Mỹ trở thành vô nghĩa. Mặc dù nỗ lực bằng mọi cách để cứu nguy sự sống c̣n của miền nam VN nhưng Nixon không thể quay ngược bánh xe lịch sử khi mà phong trào phản chiến đă nắm được quốc hội, đă tước đoạt mọi thẩm quyền của ông.
Marshall McLuhan, nhà văn, giáo sư Gia Nă Đại đă nói về truyền thông trong chiến tranh Việt Nam như sau:
“Truyền h́nh đă mang những cảnh chiến tranh tàn bạo tới căn pḥng khách ấm cúng. Việt Nam thua từ trong những căn pḥng ấm cúng ở Hoa Kỳ chứ không phải tại mặt trận bên Việt Nam”
The Media:Vietnam war, Vietnamwar.net