PDA

View Full Version : Tại sao cần dân chủ?


adams
04-26-2011, 09:54
Tại sao cần dân chủ?

Trong cuốn Về Dân Chủ (1), Robert A. Dahl nêu lên 10 lư do để chứng minh tính chất ưu việt của các chế độ dân chủ:

1. Nó giúp ngăn chận chính phủ trở thành độc tài và tàn bạo.
2. Nó bảo đảm cho mọi công dân một số quyền căn bản vốn không hề có và không thể có trong các chế độ phi dân chủ.
3. Nó cung cấp nhiều tự do cá nhân cho các công dân hơn hẳn mọi chế độ khác.
4. Nó giúp mọi người bảo vệ được những quyền lợi căn bản của họ.
5. Chỉ có chế độ dân chủ mới cung cấp cơ hội tối đa cho người dân thực hiện quyền tự quyết, nghĩa là được sống dưới những luật pháp do họ lựa chọn.
6. Chỉ có chế độ dân chủ mới cung cấp cơ hội tối đa để mọi người thực hiện được những trách nhiệm đạo lư của ḿnh.
7. Chế độ dân chủ giúp con người được phát triển một cách hoàn chỉnh hơn hẳn mọi chế độ khác.
8. Chỉ có chế độ dân chủ mới giúp nâng cao sự b́nh đẳng chính trị của mọi công dân.
9. Các chế độ dân chủ đại biểu (representative democracy) hiện đại không hề gây chiến với nhau.
10. Các quốc gia dân chủ có khuynh hướng giàu có hơn hẳn các quốc gia phi dân chủ.

Nói một cách tóm tắt, tính chất ưu việt của dân chủ nằm ở bốn điểm chính: bảo vệ nhân quyền, nhân đạo, ḥa b́nh và thịnh vượng.

Chuyện dân chủ đi liền với nhân quyền – mà trọng tâm là tự do và b́nh đẳng – là điều dễ hiểu và dễ thấy: chúng hầu như có quan hệ nhân quả ngay từ đầu. Chính v́ nhận thức được tự do và b́nh đẳng là những thứ quyền căn bản của con người nên một số lư thuyết gia và chính trị gia tiên phong mới nảy ra sáng kiến thiết lập các chế độ dân chủ để, trước hết, bảo vệ và phát huy những thứ quyền họ xem là căn bản ấy. Ngược lại, khi tự do và b́nh đẳng được tôn trọng, chế độ dân chủ lại càng được củng cố và bền vững, bất chấp mọi biến động chính trị, kể cả việc thay đổi chính phủ một cách bất ngờ.

Nhưng nhân quyền không chỉ giới hạn ở tự do và b́nh đẳng. Trong lănh vực nhân quyền c̣n một khía cạnh khác: quyền phát triển một cách toàn diện. “Trong khi b́nh đẳng và tự do là những lư tưởng thiết yếu của dân chủ (theo de Tocqueville, 1835), ngày nay, việc bảo đảm cho các công dân những cơ hội tốt nhất để bộc lộ tài năng và năng lực của họ dường như là điều thiết yếu đối việc hiện thực hóa các lư tưởng ấy.” (2) Các chế độ độc tài, với mục đích tuyên truyền, thường đầu tư thật nhiều công sức và tiền bạc vào việc luyện một số “gà ṇi” để biểu dương trong các cuộc thi quốc tế, từ thi học sinh giỏi đến thi thể thao; c̣n quần chúng th́, nói chung, hoàn toàn bị bỏ mặc. Chế độ dân chủ, ngược lại, t́m cách tạo cơ hội đồng đều, từ cơ hội giáo dục đến cơ hội lao động và kể cả cơ hội tham gia vào sinh hoạt chính trị dưới h́nh thức này hoặc h́nh thức khác, cho mọi người.

Chuyện dân chủ ngăn chận họa độc tài và tàn bạo cũng dễ thấy và dễ hiểu. Trong suốt thế kỷ 20, tất cả các vụ giết người tập thể lớn, kể cả nạn diệt chủng, chỉ xuất hiện dưới các chế độ độc tài: từ chế độ phát xít của Hitler đến chế độ cộng sản, đặc biệt dưới quyền của Stalin ở Nga, Mao Trạch Đông ở Trung Quốc và Pol Pot ở Campuchia. Mỗi bạo chúa vừa nêu đều giết chết cả hàng triệu người, thậm chí, hàng chục triệu người. Ở đây, cần lưu ư một điểm: không phải các chế độ tự do hoàn toàn vô tội. Lịch sử từng ghi nhận một số tội ác đẫm máu do nhiều quốc gia tự do và phát triển gây ra ở các thuộc địa của họ, đặc biệt từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, nói vậy, cũng cần lưu ư đến một điểm khác: dù những tội ác ấy có tàn bạo đến mấy th́ chúng cũng trở thành cực kỳ nhỏ nhoi so với các tội ác do các chế độ độc tài gây nên. Không có một nhà nước thực dân hiện đại nào tàn sát vài triệu hay, thậm chí, chỉ vài trăm ngàn người như các nhà nước độc tài. Tuyệt đối không.

Mối quan hệ giữa dân chủ và thịnh vượng phức tạp và gây nhiều tranh căi hơn. Tuy nhiên, có một vấn đề hầu như không ai không thừa nhận: trong khi không phải nước giàu có nào cũng dân chủ (như Trung Quốc hoặc các quốc gia Hồi giáo có nhiều dầu lửa ở Trung Đông), mọi quốc gia dân chủ thực sự đều giàu có. Ví dụ rơ rệt nhất là ở các quốc gia hoặc khu vực bị chia cắt trước đây hoặc hiện nay: Tây Âu giàu có gấp bội Đông Âu; Tây Đức vượt hẳn Đông Đức về mọi mặt, đặc biệt về kinh tế, và Nam Triều Tiên hiện nay được coi là một trong những cường quốc kinh tế trên thế giới trong khi Bắc Triều Tiên vẫn ch́m ngập trong nghèo khổ với hàng triệu người lúc nào cũng đối diện với nguy cơ chết đói hoặc ít nhất, suy dinh dưỡng trầm trọng.

Mối quan hệ giữa dân chủ và ḥa b́nh thú vị hơn. Và cũng rơ ràng hơn. Trong cuốn Về Dân Chủ, Dahl nêu lên một chi tiết rất có ư nghĩa: từ năm 1945 đến 1989 trên thế giới có tổng cộng 34 cuộc chiến tranh liên quốc gia, trong đó, không có cuộc chiến tranh nào giữa các nước thực sự dân chủ với nhau cả (tr. 57) (3). Không những không có chiến tranh, họ cũng không hề chuẩn bị hay có dấu hiệu ǵ chứng tỏ họ sắp sửa có chiến tranh với nhau. Tuyệt đối không.

Chiến tranh có tầm thế giới trong thế kỷ 20 chỉ xảy ra trong hai trường hợp: một, giữa các quốc gia độc tài với nhau (trường hợp này chiếm phần lớn các cuộc chiến tranh, kể cả chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia cũng như giữa Việt Nam và Trung Quốc vào cuối thập niên 1970); và hai, giữa một/nhiều quốc gia dân chủ và một/nhiều quốc gia độc tài (như thời đế quốc và trong hai cuộc chiến tranh thế giới).

Chính v́ vậy, Dahl mới kết luận: thế giới càng dân chủ càng hứa hẹn sẽ ḥa b́nh hơn.

Chú thích:

1. Robert A. Dahl (1998), On Democracy, New Haven: Yale University Press.
2. Gian Vittorio Caprara, “Will Democracy Win?”, Journal of Social Issues, vol. 64, N. 3, 2008, tr. 639.
3. Tôi nhấn mạnh chữ “dân chủ thực sự” để phân biệt với một số quốc gia có nền dân chủ mới mẻ và hạn chế thỉnh thoảng lại gây chiến với nhau, chẳng hạn, chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan năm 1947-49 và năm 1971, giữa Israel và Lebanon trong hai năm 1978 và 1982, giữa Croatia và Yugoslavia từ 1991 đến 1992, giữa Ecuador và Peru năm 1995, v.v...

Nguyễn Hưng Quốc Blog

adams
04-26-2011, 10:00
Văn hóa dân chủ

Để có một sinh hoạt chính trị lành mạnh, cần có một văn hóa chính trị lành mạnh. Để có một văn hóa chính trị lành mạnh, cần có một văn hóa dân chủ lành mạnh.

Văn hóa chính trị (political culture) thường được hiểu là hệ thống những niềm tin và những giá trị được một cộng đồng tin tưởng và chia sẻ chủ yếu trong các vấn đề liên quan đến quan hệ và cấu trúc quyền lực giữa các thành viên trong một nước cũng như giữa nước này và nước khác. Nói đến niềm tin là nói đến chuyện đúng/sai. Nói đến giá trị là nói đến chuyện tốt/xấu. Niềm tin chính là nền tảng để bảo đảm cho tính phổ quát và sự bền vững của các giá trị. Không có niềm tin vào Thượng đế có lẽ người ta không đi đến kết luận cho “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” như những ǵ được viết trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ vào năm 1776 và được Hồ Chí Minh dẫn lại trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam vào năm 1945. Từ những niềm tin ấy, tự do, b́nh đẳng và quyền sống của mỗi người trở thành những giá trị cao quư trong xă hội và trong chính trị, và cũng từ đó, ư niệm dân chủ được ra đời và nảy nở.

Trung tâm của văn hóa chính trị hiện đại là văn hóa dân chủ tức hệ thống những niềm tin, giá trị, quy phạm và cách thế hành xử giữa người cai trị và những người bị trị. Trong văn hóa toàn trị, dưới mọi h́nh thức, từ quân chủ đến độc tài, người cai trị tự coi ḿnh nhận sứ mệnh từ một nơi nào khác, ít nhiều có tính chất huyền bí, và quyền cai trị của ḿnh là một cái ǵ có tính tuyệt đối. Quan hệ giữa họ và những người bị trị là quan hệ một chiều. Họ chỉ biết ra lệnh và đ̣i hỏi sự vâng phục. Để củng cố sự vâng phục, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn độc. Văn hóa dân chủ th́ khác. Trong chế độ dân chủ, người cai trị không có tư cách nào khác ngoài tư cách đại diện của dân và không có bổn phận nào khác ngoài việc thực hiện những ư nguyện của dân. Họ biết quyền lực của họ bị giới hạn không những bởi luật pháp mà c̣n bởi các lực lượng độc lập và đối lập, và, quan trọng nhất, tính chất nhiệm kỳ.

Văn hóa dân chủ là hệ thống những niềm tin và giá trị giúp phát huy khả năng tham dự của dân chúng vào những vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh.

Văn hóa dân chủ có nhiều nội dung, nhưng theo tôi, quan trọng nhất là sự tin cậy. Tin cậy vào hiến pháp và pháp luật. Tin cậy vào guồng máy chính quyền. Nhưng trước hết phải là sự tin cậy đối với những lư tưởng và những nguyên tắc của dân chủ, cụ thể là tin vào sự tự do và quyền b́nh đẳng của dân chúng được thể hiện một cách tập trung nhất qua quyền lựa chọn lănh đạo, và qua đó, lựa chọn chính sách của họ, nghĩa là, nói cách khác, tin vào dân chúng.

Ví dụ: đă chấp nhận luật bầu cử, điều đầu tiên là phải chấp nhận tính nghiêm minh của bầu cử và kết quả của việc bầu cử, bất kể nó có hợp hay không hợp với quyền lợi của ḿnh. Ở không ít nơi, thường xảy ra hai trường hợp: một là gian lận; hai là, nếu kết quả bầu cử không vừa ư th́ t́m mọi cách thay đổi hay xóa bỏ. Đó không phải là dân chủ. Đó là phản dân chủ.

Sống ở Tây phương, một trong những điều tôi thích nhất là theo dơi các cuộc bầu cử. Trong các cuộc bầu cử, hai sự kiện tôi thích nhất là: một, các cuộc tranh luận công khai trên truyền h́nh giữa các đối thủ; và hai, những bài phát biểu trong đêm kiểm phiếu, khi kết quả đă rơ ràng. Tranh luận bao giờ cũng gay gắt nhưng bao giờ cũng lịch sự. C̣n đêm kiểm phiếu, khi kết quả đă ngă ngũ, hầu như là một quy luật: bao giờ người thất bại cũng, thứ nhất, nh́n nhận ḿnh thất bại; và thứ hai, chúc mừng người chiến thắng. Phân tích những lư do khiến ḿnh thất bại, người ta có thể nói thế này thế khác, nhưng tuyệt đối người ta không đổ lỗi cho dân chúng, chẳng hạn, cho dân chúng ngu hay nhẹ dạ nên đă bỏ phiếu cho cái kẻ không xứng đáng bằng ḿnh! Trong cuộc chơi dân chủ, hầu như mọi người đều chấp nhận luật chơi: cử tri bao giờ cũng có lư. Ứng cử viên, ngay cả khi có tài năng kiệt xuất thực sự và có chính sách đúng đắn thực sự, nếu thất cử, cũng phải tự xét lại ḿnh ít nhất ở một khía cạnh: khả năng thuyết phục quần chúng chưa đủ giỏi.

Ở các nước độc tài, ngược lại, dù người ta hay nói đến sức mạnh của quần chúng, nhưng trong thâm tâm và cả trong chính sách, bao giờ người ta cũng thiếu sự tin cậy, thậm chí, coi thường quần chúng. Một lập luận thường nghe nhất là: tŕnh độ dân trí thấp, cho họ được tự do lựa chọn, thứ nhất, họ sẽ chọn lầm người; và thứ hai, từ đó, sẽ dẫn đến sự hỗn loạn. Người ta dùng viễn tượng hỗn loạn như một con ngáo ộp để hạn chế tự do và để tránh né nhu cầu dân chủ hóa.

Chính quyền không tin dân chúng, coi dân chúng chỉ là những kẻ khờ khạo dốt nát. Dân chúng, ngược lại, cũng không hề tin cậy chính quyền. Nh́n đâu, người ta cũng thấy giả. Phát biểu: giả. Hành động: giả. Từ đó dẫn đến thái độ hờ hững đối với chính trị cũng như đối với mọi vấn đề sinh tử của quốc gia, một thái độ được người Việt đặt tên rất hay: chủ nghĩa mặc-kệ-nó, mackeno.

Một thái độ như vậy rơ ràng không thuộc văn hóa dân chủ và tuyệt đối không có lợi cho tiến tŕnh tranh đấu cho dân chủ. Chính quyền độc tài nào cũng biết điều đó nên họ t́m mọi cách để duy tŕ sự thụ động và vô cảm của mọi người. Những người tranh đấu cho dân chủ cũng nên biết điều đó để t́m cách phê phán và giảm thiểu thứ chủ nghĩa mặc-kệ-nó vốn như một thứ độc tố làm chết ṃn mọi ước mơ thay đổi, trong đó có sự thay đổi theo chiều hướng dân chủ hóa.

Nguyễn Hưng Quốc Blog

nguyen.minhdung
04-26-2011, 17:47
VN đâu cần dân chủ đâu! ! V́ dân chủ th́ có cạnh tranh mà cạnh tranh th́ ḷi cái dốt của tầng lớp lảnh đạo hiện nay làm sao? Đang kiếm tiền làm giàu ko cần tri thức tự nhiên mấy người có học chen vào th́ làm sao làm giàu được! Bằng mọi giá dả dảo bọn trí thức , quyết bảo về cái ghế đang trị vị như nhà vua vậy!