Hanna
05-28-2011, 07:05
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Ba, ngày 24/5/2011
TTXVN (Bắc Kinh 19/5)
Bài viết “Đường đứt đoạn của Trung Quốc ở Nam Hải ra đời như thế nào” của tác giả Lư Kim Minh đăng trên Tạp chí “Tri thức thế giới” số 9/2011 đă tŕnh bày quá tŕnh ra đời của đường đứt quăng 9 đoạn h́nh chữ U do Trung Quốc hoạch định, qua đó chứng minh cho chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo cũng như các quần đảo khác ở Biển Đông là có căn cứ pháp lư mang tính lịch sử, đồng thời đi đến khẳng định “Hoà ước San Francisco” đă để lại mầm hoạ, khiến cho vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và hai thế lực thực dân là Nhật Bản và Pháp trước Chiến tranh chuyển thành tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Đông Nam Á mới giành độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. V́ thế, Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền không thể xâm phạm của Nước CHND Trung Hoa tại đảo Nam Uy (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), dù có được Mỹ và Anh quy định hay không quy định và quy định như thế nào trong dự thảo hoà ước với Nhật Bản, cũng đều không chịu bất cứ ảnh hưởng ǵ”. Dưới đây là nội dung bài viết:
Đường đứt đoạn ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) là chỉ đường đứt đoạn h́nh chữ U đánh dấu trên bản đồ Nam Hải, cũng gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”. Đường chữ U nói trên được công bố năm 1974, cộng đồng quốc tế lúc đó không hề có dị nghị, các nước Đông Nam Á ở xung quanh cũng chưa bao giờ phản đối về mặt ngoại giao, điều đó coi như đă được mặc nhận. Sau đó bản đồ xuất bản của rất nhiều nước cũng vẽ h́nh đánh dấu như vậy và chú thích rơ thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên sau khi “Viện lập Pháp Đài Loan” thông qua “Cương lĩnh chính sách Nam Hải”, gọi vùng nước trong đường đứt đoạn là “vùng nước mang tính lịch sử” từ năm 1993, đường đứt đoạn này bắt đầu khiến quốc tế quan tâm rộng răi, các nước Đông Nam Á xung quanh Nam Hải thậm chí lên tiếng thắc mắc về tính chất và địa lư pháp lư của đường đứt đoạn. Dưới đây sẽ tŕnh bày bối cảnh ra đời, hiệu lực và tác dụng của đường đứt đoạn để làm rơ diện mạo lịch sử của đường đứt đoạn đó.
Bắt đầu từ việc Pháp chiếm lĩnh 9 đảo nhỏ ở Nam Sa (Trường Sa) năm 1933
Từ khi chiếm Việt Nam làm thuộc địa năm 1885, Chính phủ Pháp luôn có dă tâm xâm chiếm các quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc. Ngoài việc nguỵ tạo ra những “sự thực lịch sử”, biên soạn ra tài liệu hoang đường như cái gọi là “đầu thế kỷ 19, vào thời vua Gia Long và vua Minh Mạng ở An Nam (nay là Việt Nam), đều đưa quân ra Tây Sa, An Nam hiện đă thuộc quyền sở hữu của Pháp nên quần đảo Tây Sa cũng thuộc quyền sở hữu của nước Pháp”, họ c̣n tỏ ư nghi ngờ tính hợp pháp của Thuỷ sư đề đốc Quảng Đông Lư Chuẩn thời nhà Thanh dẫn đầu đoàn tuần tra thị sát quần đảo Tây Sa vào năm 1909, mỗi lần ra đảo lại khắc đá đặt tên, làm nhà bằng gỗ, dựng cột buồm, treo cờ Hoàng Long khẳng định lănh thổ Trung Quốc. Tháng 3/1930, Toàn quyền Đông Dương tại Hà Nội gửi thư cho Bộ trưởng thuộc địa Pháp viết rằng tỉnh Quảng Đông quyết định nhà đương cục Hoa Nam đứng ra tuyên bố họ có chủ quyền ở quần đảo Tây Sa. Sự kiện lớn diễn ra năm 1909 về việc tuần thú quần đảo Tây Sa là nghi thức chiếm lĩnh chính thức do Toàn quyền Lưỡng Quảng đề xướng, và việc tuyên bố của chính quyền tỉnh Quảng Đông hiện nay dường như căn cứ theo nghi thức này. Đối với nước Pháp, hành động chiếm lĩnh này chỉ là biểu hiện của vũ lực, từ trước đến nay chưa bao giờ được chính thức thừa nhận, nếu muốn có hiệu lực về mặt pháp luật th́ chỉ có thể giả thiết quần đảo Tây Sa lúc đó là đất vô chủ.
Trước việc này, tháng 9/1932, Công sứ của Trung Hoa Dân quốc tại Pháp đă gửi công hàm đến Bộ Ngoại giao Pháp để phản đối, cho rằng “căn cứ theo luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế th́ điều kiện chủ yếu để có được một đảo cách xa đất liền là trước têin phải có sự chiếm lĩnh hữu hiệu, nói cách khác là có người của nước ḿnh định cư ở đó trước tiên, khiến cho quốc gia có người ở đó có được những phần lănh thổ này. Ngư dân Hải Nam định cư ở quần đảo Tây Sa, đồng thời làm nhà ở và đóng thuyền đánh cá để đáp ứng nhu cầu của họ, từ xưa đến nay chính là cách làm như vậy. Năm 1909, rơ ràng Chính phủ nhà Thanh đă đưa hải quân đến quần đảo khảo sát, đồng thời tuyên bố với các nước trên thế giới về sự chiếm đóng hữu hiệu của ḿnh, liền ngay đó là kéo cờ của Trung Quốc, bắn 21 phát đại bác. Chính phủ Pháp lúc đó không kháng nghị phản đối. Năm 1908 có tổ chức quốc tế kiến nghị xây dựng cột đèn trên một đảo thuộc quần đảo Tây Sa để bảo vệ tàu thuyền, đó là công tŕnh quan cho hàng hải quốc tế. Tháng 4/1930, tại Hội nghị khí tượng họp ở Hồng Công, Trưởng đài khí tượng của Pháp ở Đông Dương, ngài Blouson và Trưởng đài thiên văn Từ Gia Hối ở Thượng Hải là Linh mục Frock (?) tham gia hội nghị lúc đó đă kiến nghị với đại biểu Trung Quốc xây dựng một đài khí tượng ở quần đảo Tây Sa”.
Thấy không có chỗ nào có thể lợi dụng trong vấn đề Tây Sa, Pháp bèn chuyển ư đồ vươn đến quần đảo Nam Sá. Năm 1930, pháo hạm Pháp mang tên Malicieuse đă tự ư đến “đo đạc” ở đảo Nam Uy (Spratly) thuộc quần đảo Nam Sa, không nh́n nhận sự thực về việc ngư dân Trung Quốc đă định cư trên đẩonỳ, và bí mật cắm cờ Pháp rồi bỏ đi. Tháng 4/1933, pháo hạm Alerte và tàu đo đạc Astrolabe do Trưởng pḥng nghiên cứu hải dương Sài G̣n dẫn đầu đă đến “khảo sát” tường tận trên khắp quần đảo Nam Sa để thể hiện sự “chiếm lĩnh”. Tháng 9/1930, Chính phủ Pháp đă thông qua một tờ Công báo tuyên bố với các nước khác rằng Pháp đă chiếm lĩnh quần đảo Nam Sa. Tháng 4/1933, Pháp c̣n chính thức tổ chức nghi thức chiếm lĩnh và công bố trên báo chí chính thức của Chính phủ vào ngày 26/7/1933. Tháng 12 cùng năm, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương Giao Chỉ (tức miền Nam Việt Nam) Krautheimer đă kư pháp lệnh sáp nhập các đảo nhỏ thuộc quần đảo Nam Sa vào tỉnh Bà Rịa của An Nam. Kỳ thực, mục đích của Pháp khi đó là thôn tính toàn bộ quần đảo Nam Sa chứ không chỉ vẻn vẹn mấy đảo nhỏ. Có thể thấy rơ điều này qua thư của Bộ Quốc pḥng Pháp gửi Bộ Ngoại giao này ngày 30/3/1932 nói rằng “các ngài yêu cầu chúng tôi khi có khả năng phải chiếm lĩnh ngay quần đảo này, nhưng hành động như vậy cần phải được tiến hành trong điều kiện thời tiết thật tốt [...], chúng tôi sẽ truyền đạt yêu cầu của các ngài đến Tư lệnh hải quân ở Đông Dương, yêu cầu họ đến, lập tức chiếm lĩnh quần đảo nói trên trong điều kiện thời tiết họ cho là thuận lợi nhất”.
Trong tài liệu có tên “Trung Quốc địa lư tân chí” xuất bản ngày đó đă liệt kê các đảo nhỏ mà Pháp chiếm lĩnh gồm: 1) Đảo Trường Sa hay c̣n gọi đảo Storm (đảo băo gió), hiện nay gọi là đảo Nam Uy; 2) Đảo Itu Aba, nay gọi là đảo Thái B́nh; 3) Đảo Amboyna Cay, nay gọi là băi An Ba Sa; 4) Đảo North Danger North -east Cay, nay gọi là đảo Bắc Tử; 5) Băi North Danger South-west Cay, nay gọi là băi Nam Tử; 6) Đảo Loaita Í hay South Is., nay gọi là đảo Nam Thược; 7) Đảo Thitu, nay gọi là đảo Trung Nghiệp; 8) Đảo Nam Yet, nay gọi là đảo Hồng Ma; 9) Đảo West York, nay gọi là đảo Tây Nguyệt.
Sự kiện Pháp chiếm 9 đảo ở Nam Sa đă gây tác động rất lớn đối với Chính phủ Dân quốc lúc đó. Ngày 4/8/1933, Bộ Ngoại giao Chính phủ Dân quốc gửi công hàm cho Sứ quán Pháp, yêu cầu điều tra rơ và trả lời chính thức về tên gọi, kinh độ, vĩ độ của các đảo. Bộ Ngoại giao Pháp đă thông qua Đại sứ Trung Quốc tại Pháp lúc đó là Cố Duy Quân gửi đi bức điện báo, nói “9 đảo nói trên nằm giữa An Nam và Philippin, đều là nham thạch, được coi là tuyến đường biển quan trọng, tàu bè của Pháp thường lợi dụng chỗ hiểm yếu để tránh nạn đă chiếm giữ để xây dựng các thiết bị pḥng chống rủi ro, đồng thời nói rơ trên bản đồ, thực tế không hề liên quan ǵ đến quần đảo Tây Sa”. Trước t́nh thế như vậy, Chính phủ Dân quốc cảm thấy cần phải xuất bản bản đồ chi tiết phạm vi lănh thổ Nam Hải của Trung Quốc, thống nhất thẩm định lại tên bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Anh của các đảo và băi đá trong vùng lănh thổ đó nên đă thành lập “Uỷ ban thẩm định bản đồ biển và đất liền”. Hội nghị lần thứ 25 được tổ chức ngày 21/12/1934 đă thẩm định tên gọi tiếng Trung và tiếng Anh của các đảo ở Nam Hải. Trên tập san lần đầu tiên của Uỷ ban phát hành tháng 1/1935 đă liệt kê tương đối rơ tên gọi của 132 đảo, mỏm đá, băi đá, băi cát. Tháng 4/1935 Uỷ ban nói trên lại xuất bản “bản đồ các đảo ở Nam Hải”, xác định đường biên giới lănh thổ của Trung Quốc ở Nam Hải cực Nam đến vĩ tuyến 4, đánh dấu băi đá ngầm Tăng Mẫu vào phạm vi lănh thổ. Năm 1936, bản đồ nói trên được đưa vào tập bản đồ do Bạch Mi Sơ chủ biên, gọi là tập “Bản đồ mới kiến thiết Trung Hoa” (Trung Hoa kiến thiết tân đồ), c̣n có tên gọi khác là “Bản đồ toàn Trung Quốc sau phát triển cương vực biển phía Nam” (Hải cương Nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ). Trong lănh thổ Nam Hải trên bản đồ có đánh dấu các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Đoàn Sa, xung quanh các quần đảo này được đánh dấu rơ bằng đường ranh giới quốc gia để thể hiện rơ các đảo ở Nam Hải đều đă có trong bản đồ Trung Quốc. Đường ghi dấu lănh thổ quốc gia ở các đảo Nam Hải cực Nam nằm ở độ 4 vĩ tuyến Bắc, đồng thời đánh dấu rơ tiêu chí của băi Tăng Mẫu ở đường ranh giới quốc gia. Đó là đường ranh giới lănh thổ trên biển xuất hiện sớm nhất trên bản đồ của Trung Quốc, cũng là h́nh hài ban đầu của đường đứt quăng h́nh chữ U trên bản đồ Nam Hải của Trung Quốc hiện nay.
Thu hồi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa sau kháng chiến chống Nhật
Sau khi xâm lược Trung Quốc vào thập niên 30 thế kỷ trước, Nhật Bản đă cưỡng chiếm quần đảo Nam Sa và đổi tên thành “quần đảo Tân Nam”, hoạch định quần đảo này thuộc quyền quản lư của Toàn quyền Đài Loan (lúc đó Đài Loan là thuộc địa của Nhật Bản). Sau kháng chiến chống Nhật, Chính phủ Trung Quốc lúc đó căn cứ theo “Tuyên ngôn Cairô” – do 3 nước Trung Quốc, Mỹ và Anh kư tháng 12/1943 quy định “tôn chỉ của 3 nước [...]ở chỗ làm cho các phần lănh thổ của Trung Quốc bị Nhật Bản cướp đoạt như Măn Châu, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ được trả về cho Trung Hoa Dân quốc” – và “Thông cáo Potsdam” – hối thúc Nhật Bản đầu hàng do 3 nước Trung, Mỹ, Anh kư tháng 7/1945 về “điều kiện trong bản Tuyên ngôn Cairô sẽ phải thực thi, c̣n chủ quyền của Nhật Bản sẽ phải hạn chế trong phạm vi lănh thổ Nhật Bản hiện có, Bắc Hải đạo, Cửu Châu, cùng các đảo nhỏ khác do 4 nước và người Ngô (một tộc người ở Thường Xuân thuộc tỉnh Cát Lâm?) – quyết định” thu hồi Đài Loan, sau đó chính thức thu hồi quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ngày 25/10/1945.
Mùa Thu năm 1946, Chính phủ Trung Quốc lúc đó quyết định Bộ tư lệnh hải quân đưa binh lính và tàu chiến ra đóng ở quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa, đồng thời Bộ Quốc pḥng, Bộ Nội chính, Bộ tư lệnh không quân. Ban hậu cần cũng cử đại biểu ra thị sát; chính quyền tỉnh Quảng Đông cử nhân viên ra tiếp nhận. Những người ra tiếp nhận đi trên 4 tàu mang tên “Thái B́nh”, “Vĩnh Hưng”, “Trung Kiến”, “Trung Nghiệp”. Tháng 11 cùng năm, 2 tàu “Vĩnh Hưng”, “Trung Kiến” do Diêu Nhữ Ngọc dẫn đầu ra đến đảo chính trong quần đảo Tây Sa là đảo Vĩnh Hưng, dựng “Bia kỷ niệm hải quân thu hồi quần đảo Tây Sa” trên đó. Mặt chính của bia khắc 4 chữ lớn là “Nam Hải B́nh Phiên” (nghĩa là phên dậu Nam Hải), bắn pháo, kéo cờ tuyên bố công việc thu hồi quần đảo Tây Sa đă hoàn thành. Tháng 12, 2 tàu “Thái B́nh” và “Trung Nghiệp” do Lâm Tuân dẫn đầu ra đến đảo chính trong quần đảo Nam Sa, đă đặt tên cho đảo là đảo “Thái B́nh” để kỷ niệm tàu “Thái B́nh” tiếp nhận đảo này, đồng thời dựng bia đá ở đầu phía Đông của đảo với tên gọi “Đảo Thái B́nh quần đảo Nam Sa”, cử hành nghi thức tiếp nhận và kéo cờ bên cạnh bia đá. Sau đó nhân viên thu hồi lại đến đảo Trung Nghiệp, đảo Tây Nguyệt và đảo Nam Uy, lần lượt dựng bia để làm chứng cứ. Tại đảo Thái B́nh đă thành lập Pḥng quản lư quần đảo Nam Sa, thuộc quyền quản lư của chính quyền tỉnh Quảng Đông.
Tuy nhiên, Pháp với ư đồ khôi phục chế độ thống trị tại Đông Dương và Philippin vừa thoát khỏi ách thống trị của Mỹ đều muốn kiểm soát hữu hiệu quần đảo. Trong khi quân đội Nhật đầu hàng c̣n chờ trao trả, Pháp đă tranh thủ đến chiếm ngay một số đảo trước khi bộ đội Trung Quốc đến đóng trên các đảo ở Nam Hải, đồng thời đưa tàu chiến tuần tra thường xuyên ở Nam Hải. Tháng 7/1946, một tàu không rơ quốc tịch đă xâm nhập vùng biển thuộc quần đảo Nam Sa, sau khi biết tin Tổng bộ hải quân Trung Quốc quyết định đưa tàu chiến đến tiếp nhận quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa mới tự động rút đi sau đó mấy ngày. Tháng 10, lại có tàu chiến Chevreud của Pháp đến chiếm đảo Nam Uy và đảo Thái B́nh ở quần đảo Nam Sa, đồng thời dựng bia trên đảo Thái B́nh. Trước việc Trung Quốc quyết định thu hồi quần đảo Tây Sa và Nam Sa, Pháp lên tiếng phản đối và đưa tàu chiến Tonkinois đến quần đảo Tây Sa, trên đường đến đảo Vĩnh Hưng thấy có bộ đội Trung Quốc đóng giữ liền đổi hướng đi đến đảo San Hô, và thiết lập Trung tâm hành chính trên đảo. Philippin cũng muốn nhân cơ hội Trung Quốc chưa hoàn toàn tiếp nhận các quần đảo Tây Sa và Nam Sa, chiếm quần đảo Nam Sa làm của ḿnh. Ngày 23/7/1946 Ngoại trưởng Philippin lúc đó là Quirino tuyên bố: “Trung Quốc đă tranh chấp với Philippin về quyền sở hữu đối với quần đảo Nam Sa, quần đảo này ở cách đảo Palawan 200 hải lư về phía Tây, Philippin sẽ hợp nhất quần đảo này vào phạm vi quốc pḥng của ḿnh”.
Trong hoàn cảnh phức tạp như vậy, để bảo vệ chủ quyền đối với các đảo ở Nam Hải, Chính phủ Trung Quốc khi đó đă kịp thời có một số biện pháp cần thiết.
Trước hết, đă điều chỉnh lại tên gọi của các đảo theo vị trí địa lư của các đảo đó tại vùng biển Nam Hải, đổi lại tên gọi ban đầu của “Quần đảo Đoàn Sa” thành “Quần đảo Nam Sa”, đổi lại tên gọi cũ của “Quần đảo Nam Sa” thành “Quần đảo Trung Sa”.
Thứ hai, ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính đă mời các cơ quan hữu quan cử người đến thảo luận và ra quyết định: 1) Phạm vi lănh thổ Nam Hải cực Nam phải đến băi Tăng Mẫu, phạm vi này trước kháng chiến Chính phủ, cơ quan, trường học và các ấn phẩm xuất bản của Thư cục Trung Quốc đều lấy đó làm chuẩn; Bộ Nội chính chịu trách nhiệm lập hồ sơ, vẫn giữ nguyên không thay đổi. 2) Việc công bố chủ quyền ở quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, sau khi Bộ Nội chính đặt tên, có bản đồ minh hoạ kèm theo, tŕnh lên Chính phủ Dân quốc lập hồ sơ, vẫn do Bộ Nội chính thông báo cho cả nước biết. Trước khi công bố, Bộ tư lệnh hải quân cũng đồng thời cố gắng đưa quân ra đóng ở các đảo thuộc các quần đảo nói trên. 3) Các quần đảo Tây Sa, Nam Sa mùa cá đến nhanh, ngư dân đến các quần đảo do Bộ tư lệnh hải quân và chính quyền tỉnh Quảng Đông bảo vệ và tạo thuận lợi trong việc chuyên chở và thông báo tin tức.
Thứ ba, để cụ thể hoá phạm vi lănh thổ đă xác định ở Nam Hải, năm 1947, Vụ quản lư đại phương thuộc Bộ Nội chính khi đó đă in ấn “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải”. Bản đồ này có đánh dấu các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa, đồng thời có vẽ đường đứt quăng h́nh chữ U ở xung quanh, vị trí cực Nam của đường đứt quăng ở vị trí khoảng 4 độ vĩ Bắc. Tháng 2/1948, bản đồ nói trên được đưa vào “Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân quốc” do Phó Giác Kim thuộc Vụ Phương vực Bộ Nội chính chủ biên, Vương Tích Quang vẽ và biên tập, Thương vụ ấn thư quán phát hành đối ngoại công khai. Đây chính là đường đứt quăng h́nh chữ U được đánh dấu chính thức trên bản đồ Nam Hải của Trung Quốc.
“Hoà ước San Francisco” và đường đứt quăng Nam Hải
Về ư kiến của Mỹ và Anh liên quan vệic xử lư các quần đảo Tây Sa và Nam Sa sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, gần đây trong cuốn “Biên giới châu Á- Thái B́nh Dương thời Chiến tranh Lạnh: Lănh thổ chia rẽ hệ thống San Francisco”, nghiên cứu viên Kimi Sahara thuộc Trung tâm quản lư cải cách quốc tế Canada đă tiết lộ một số dự thảo hiệp ước hoà b́nh mà ông đă được đọc trong mấy nơi như Nhà lưu giữ hồ sơ quốc gia Mỹ và Pḥng quản lư hồ sơ Học viện Park ở Maryland. Xin được tŕnh bày một số tư liệu liên quan trong đó như sau:
1. Trong văn kiện mà Bộ Ngoại giao Mỹ đă trù định sẵn ở thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới thứ Hai, văn kiện T-324 về “đảo Nam Uy và quần đảo khác (quần đảo Tân Nam)” được phác thảo ngày 25/5/1943, mục đích là để chuẩn bị cho công tác kiểm tra của Tiểu ban lănh thổ. Văn kiện xuất phát từ góc độ địa lư, chiến lược, lịch sử Nhật Bản chiếm đóng, tuyên bố của các nước tranh chấp – tên gọi chung của các nước Nhật Bản, Pháp cùng với Trung Quốc và thái độ của Mỹ để thảo luận về các quần đảo này. Vấn đề đặc biệt cần chú ư là văn kiện nói trên đă tuyên bố về việc Philippin tuyên bố chủ quyền sau chiến tranh: “Quần đảo Tân Nam chắc chắn là nằm ngoài phạm vi giới hạn mà Philippin hoạch định ngày 10/12/1898”.
2. Ngày 19/12/1944, trước Hội nghị Yalta, Uỷ ban Phân khu Viễn Đông đă chuẩn bị văn kiện CAC-301 về “Đảo Nam Uy và quần đảo khác (quần đảo Tân Nam)”. Nội dung văn kiện cũng đề cập đến khu vực giống như khu vực được đề cập trong Văn kiện T-324 nói trên. Cả hai văn kiện đều có câu nói giống nhau: “Quần đảo Tân Nam là ở ngoài phạm vi giới hạn của Philippin”. Phía trước câu nói như trên, văn kiện CAC-301 c̣n ghi thêm: “Nước Mỹ không tuyên bố chủ quyền cho ḿnh, cũng không tuyên bố chủ quyền cho Philippin ở quần đảo”.
3. Văn kiện CAC-308 theo bản thảo chính thức tháng 12/1944 về “quần đảo Tây Sa” là chuẩn bịi riêng cho quần đảo Tây Sa. Trong khi xem xét t́nh h́nh xung đột giữa các nước tranh chấp lúc đó – tức Pháp và Trung Quốc (Nhật Bản chưa bao giờ tuyên bố chính thức chủ quyền ở Tây Sa), văn kiện nói trên đă rơ ràng thừa nhận rằng tuyên bố của Trung Quốc là chiếm ưu thế về tính chất hợp pháp lịch sử.
Từ các văn kiện nói trên có thể thấy Mỹ cho rằng quần đảo Nam Sa chắc chắn nằm ngoài phạm vi giới hạn của Philippin, đồng thời Mỹ cũng không tin vào tuyên bố của Pháp, cho rằng tuyên bố của Pháp về chủ quyền ở quần đảo Tây Sa là yếu ớt, không có sức mạnh. Nước Anh cũng giữ quan điểm tương tự như vậy đối với tuyên bố của Pháp về 2 quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Tuy vậy, trong giai đoạn soạn thảo cuối cùng của “Hoà ước San Francisco đối với Nhật Bản” năm 1951, cả Mỹ và Anh lại đưa vấn đề xử lư quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa vào hiệp ước theo yêu cầu của Pháp, hơn nữa cũng đồng ư cho Pháp đưa cả các đồng minh của họ là Lào, Campuchia và Việt Nam đến hội nghị, trong khi Trung Quốc đại lục và Đài Loan Trung Quốc lại không được mời tham gia. Ngày 23/8/1951, một bức điện báo gửi từ Pari đến Bộ Ngoại giao ở Luân Đôn viết rằng “các nước đồng minh Lào, Campuchia và Việt Nam tham gia hội nghị San Francisco đă được đảm bảo, họ sẽ kư vào bản hiệp ước. Tại San Francisco, vấn đề Nhật Bản bồi thường chiến tranh do chiếm đóng sẽ được nêu lên, Pháp cần phải bảo vệ quyền lợi đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa”.
Điều nghiêm trọng hơn nữa là “Hoà ước” chỉ viết Nhật Bản từ bỏ tất cả mọi quyền lợi ở Tây Sa và Nam Sa nhưng không nêu rơ sẽ trả lại những quyền lợi đó về cho Trung Quốc. Chính điều này đă để lại mầm hoạ cho việc tranh chấp lănh thổ, khiến cho vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và 2 thế lực thực dân là Nhật Bản và Pháp trước Chiến tranh thế giới thứ Hai chuyển thành tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Đông Nam Á mới giành độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. V́ thế, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHND Trung Hoa lúc đó là Chu Ân Lai đă nghiêm túc tuyên bố: “Dự thảo văn kiện đă cố ư quy định Nhật Bản từ bỏ mọi quyền lợi ở đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa nhưng không đề cập đến vấn đề hoàn trả chủ quyền. Trên thực tế, quần đảo Tây Sa và đảo Nam Uy cũng như toàn bộ quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Đông Sa, từ trước đến nay đều thuộc lănh thổ của Trung Quốc. Trong thời kỳ đế quốc Nhật Bản phát động chiến tranh, tuy có lúc thất thủ nhưng sau khi Nhật Bản đầu hàng đă được Chính phủ Trung Quốc lúc đó thu hồi toàn bộ. V́ thế, Chính phủ Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Chủ quyền không thể xâm phạm của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại đảo Nam Uy (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), dù Mỹ và Anh có quy định hay không quy định và quy định như thế nào trong dự thảo hoà ước với Nhật Bản, cũng đều không chịu bất cứ ảnh hưởng ǵ”.
Thứ Ba, ngày 24/5/2011
TTXVN (Bắc Kinh 19/5)
Bài viết “Đường đứt đoạn của Trung Quốc ở Nam Hải ra đời như thế nào” của tác giả Lư Kim Minh đăng trên Tạp chí “Tri thức thế giới” số 9/2011 đă tŕnh bày quá tŕnh ra đời của đường đứt quăng 9 đoạn h́nh chữ U do Trung Quốc hoạch định, qua đó chứng minh cho chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo cũng như các quần đảo khác ở Biển Đông là có căn cứ pháp lư mang tính lịch sử, đồng thời đi đến khẳng định “Hoà ước San Francisco” đă để lại mầm hoạ, khiến cho vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và hai thế lực thực dân là Nhật Bản và Pháp trước Chiến tranh chuyển thành tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Đông Nam Á mới giành độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. V́ thế, Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền không thể xâm phạm của Nước CHND Trung Hoa tại đảo Nam Uy (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), dù có được Mỹ và Anh quy định hay không quy định và quy định như thế nào trong dự thảo hoà ước với Nhật Bản, cũng đều không chịu bất cứ ảnh hưởng ǵ”. Dưới đây là nội dung bài viết:
Đường đứt đoạn ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) là chỉ đường đứt đoạn h́nh chữ U đánh dấu trên bản đồ Nam Hải, cũng gọi là “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn”. Đường chữ U nói trên được công bố năm 1974, cộng đồng quốc tế lúc đó không hề có dị nghị, các nước Đông Nam Á ở xung quanh cũng chưa bao giờ phản đối về mặt ngoại giao, điều đó coi như đă được mặc nhận. Sau đó bản đồ xuất bản của rất nhiều nước cũng vẽ h́nh đánh dấu như vậy và chú thích rơ thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên sau khi “Viện lập Pháp Đài Loan” thông qua “Cương lĩnh chính sách Nam Hải”, gọi vùng nước trong đường đứt đoạn là “vùng nước mang tính lịch sử” từ năm 1993, đường đứt đoạn này bắt đầu khiến quốc tế quan tâm rộng răi, các nước Đông Nam Á xung quanh Nam Hải thậm chí lên tiếng thắc mắc về tính chất và địa lư pháp lư của đường đứt đoạn. Dưới đây sẽ tŕnh bày bối cảnh ra đời, hiệu lực và tác dụng của đường đứt đoạn để làm rơ diện mạo lịch sử của đường đứt đoạn đó.
Bắt đầu từ việc Pháp chiếm lĩnh 9 đảo nhỏ ở Nam Sa (Trường Sa) năm 1933
Từ khi chiếm Việt Nam làm thuộc địa năm 1885, Chính phủ Pháp luôn có dă tâm xâm chiếm các quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc. Ngoài việc nguỵ tạo ra những “sự thực lịch sử”, biên soạn ra tài liệu hoang đường như cái gọi là “đầu thế kỷ 19, vào thời vua Gia Long và vua Minh Mạng ở An Nam (nay là Việt Nam), đều đưa quân ra Tây Sa, An Nam hiện đă thuộc quyền sở hữu của Pháp nên quần đảo Tây Sa cũng thuộc quyền sở hữu của nước Pháp”, họ c̣n tỏ ư nghi ngờ tính hợp pháp của Thuỷ sư đề đốc Quảng Đông Lư Chuẩn thời nhà Thanh dẫn đầu đoàn tuần tra thị sát quần đảo Tây Sa vào năm 1909, mỗi lần ra đảo lại khắc đá đặt tên, làm nhà bằng gỗ, dựng cột buồm, treo cờ Hoàng Long khẳng định lănh thổ Trung Quốc. Tháng 3/1930, Toàn quyền Đông Dương tại Hà Nội gửi thư cho Bộ trưởng thuộc địa Pháp viết rằng tỉnh Quảng Đông quyết định nhà đương cục Hoa Nam đứng ra tuyên bố họ có chủ quyền ở quần đảo Tây Sa. Sự kiện lớn diễn ra năm 1909 về việc tuần thú quần đảo Tây Sa là nghi thức chiếm lĩnh chính thức do Toàn quyền Lưỡng Quảng đề xướng, và việc tuyên bố của chính quyền tỉnh Quảng Đông hiện nay dường như căn cứ theo nghi thức này. Đối với nước Pháp, hành động chiếm lĩnh này chỉ là biểu hiện của vũ lực, từ trước đến nay chưa bao giờ được chính thức thừa nhận, nếu muốn có hiệu lực về mặt pháp luật th́ chỉ có thể giả thiết quần đảo Tây Sa lúc đó là đất vô chủ.
Trước việc này, tháng 9/1932, Công sứ của Trung Hoa Dân quốc tại Pháp đă gửi công hàm đến Bộ Ngoại giao Pháp để phản đối, cho rằng “căn cứ theo luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế th́ điều kiện chủ yếu để có được một đảo cách xa đất liền là trước têin phải có sự chiếm lĩnh hữu hiệu, nói cách khác là có người của nước ḿnh định cư ở đó trước tiên, khiến cho quốc gia có người ở đó có được những phần lănh thổ này. Ngư dân Hải Nam định cư ở quần đảo Tây Sa, đồng thời làm nhà ở và đóng thuyền đánh cá để đáp ứng nhu cầu của họ, từ xưa đến nay chính là cách làm như vậy. Năm 1909, rơ ràng Chính phủ nhà Thanh đă đưa hải quân đến quần đảo khảo sát, đồng thời tuyên bố với các nước trên thế giới về sự chiếm đóng hữu hiệu của ḿnh, liền ngay đó là kéo cờ của Trung Quốc, bắn 21 phát đại bác. Chính phủ Pháp lúc đó không kháng nghị phản đối. Năm 1908 có tổ chức quốc tế kiến nghị xây dựng cột đèn trên một đảo thuộc quần đảo Tây Sa để bảo vệ tàu thuyền, đó là công tŕnh quan cho hàng hải quốc tế. Tháng 4/1930, tại Hội nghị khí tượng họp ở Hồng Công, Trưởng đài khí tượng của Pháp ở Đông Dương, ngài Blouson và Trưởng đài thiên văn Từ Gia Hối ở Thượng Hải là Linh mục Frock (?) tham gia hội nghị lúc đó đă kiến nghị với đại biểu Trung Quốc xây dựng một đài khí tượng ở quần đảo Tây Sa”.
Thấy không có chỗ nào có thể lợi dụng trong vấn đề Tây Sa, Pháp bèn chuyển ư đồ vươn đến quần đảo Nam Sá. Năm 1930, pháo hạm Pháp mang tên Malicieuse đă tự ư đến “đo đạc” ở đảo Nam Uy (Spratly) thuộc quần đảo Nam Sa, không nh́n nhận sự thực về việc ngư dân Trung Quốc đă định cư trên đẩonỳ, và bí mật cắm cờ Pháp rồi bỏ đi. Tháng 4/1933, pháo hạm Alerte và tàu đo đạc Astrolabe do Trưởng pḥng nghiên cứu hải dương Sài G̣n dẫn đầu đă đến “khảo sát” tường tận trên khắp quần đảo Nam Sa để thể hiện sự “chiếm lĩnh”. Tháng 9/1930, Chính phủ Pháp đă thông qua một tờ Công báo tuyên bố với các nước khác rằng Pháp đă chiếm lĩnh quần đảo Nam Sa. Tháng 4/1933, Pháp c̣n chính thức tổ chức nghi thức chiếm lĩnh và công bố trên báo chí chính thức của Chính phủ vào ngày 26/7/1933. Tháng 12 cùng năm, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương Giao Chỉ (tức miền Nam Việt Nam) Krautheimer đă kư pháp lệnh sáp nhập các đảo nhỏ thuộc quần đảo Nam Sa vào tỉnh Bà Rịa của An Nam. Kỳ thực, mục đích của Pháp khi đó là thôn tính toàn bộ quần đảo Nam Sa chứ không chỉ vẻn vẹn mấy đảo nhỏ. Có thể thấy rơ điều này qua thư của Bộ Quốc pḥng Pháp gửi Bộ Ngoại giao này ngày 30/3/1932 nói rằng “các ngài yêu cầu chúng tôi khi có khả năng phải chiếm lĩnh ngay quần đảo này, nhưng hành động như vậy cần phải được tiến hành trong điều kiện thời tiết thật tốt [...], chúng tôi sẽ truyền đạt yêu cầu của các ngài đến Tư lệnh hải quân ở Đông Dương, yêu cầu họ đến, lập tức chiếm lĩnh quần đảo nói trên trong điều kiện thời tiết họ cho là thuận lợi nhất”.
Trong tài liệu có tên “Trung Quốc địa lư tân chí” xuất bản ngày đó đă liệt kê các đảo nhỏ mà Pháp chiếm lĩnh gồm: 1) Đảo Trường Sa hay c̣n gọi đảo Storm (đảo băo gió), hiện nay gọi là đảo Nam Uy; 2) Đảo Itu Aba, nay gọi là đảo Thái B́nh; 3) Đảo Amboyna Cay, nay gọi là băi An Ba Sa; 4) Đảo North Danger North -east Cay, nay gọi là đảo Bắc Tử; 5) Băi North Danger South-west Cay, nay gọi là băi Nam Tử; 6) Đảo Loaita Í hay South Is., nay gọi là đảo Nam Thược; 7) Đảo Thitu, nay gọi là đảo Trung Nghiệp; 8) Đảo Nam Yet, nay gọi là đảo Hồng Ma; 9) Đảo West York, nay gọi là đảo Tây Nguyệt.
Sự kiện Pháp chiếm 9 đảo ở Nam Sa đă gây tác động rất lớn đối với Chính phủ Dân quốc lúc đó. Ngày 4/8/1933, Bộ Ngoại giao Chính phủ Dân quốc gửi công hàm cho Sứ quán Pháp, yêu cầu điều tra rơ và trả lời chính thức về tên gọi, kinh độ, vĩ độ của các đảo. Bộ Ngoại giao Pháp đă thông qua Đại sứ Trung Quốc tại Pháp lúc đó là Cố Duy Quân gửi đi bức điện báo, nói “9 đảo nói trên nằm giữa An Nam và Philippin, đều là nham thạch, được coi là tuyến đường biển quan trọng, tàu bè của Pháp thường lợi dụng chỗ hiểm yếu để tránh nạn đă chiếm giữ để xây dựng các thiết bị pḥng chống rủi ro, đồng thời nói rơ trên bản đồ, thực tế không hề liên quan ǵ đến quần đảo Tây Sa”. Trước t́nh thế như vậy, Chính phủ Dân quốc cảm thấy cần phải xuất bản bản đồ chi tiết phạm vi lănh thổ Nam Hải của Trung Quốc, thống nhất thẩm định lại tên bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Anh của các đảo và băi đá trong vùng lănh thổ đó nên đă thành lập “Uỷ ban thẩm định bản đồ biển và đất liền”. Hội nghị lần thứ 25 được tổ chức ngày 21/12/1934 đă thẩm định tên gọi tiếng Trung và tiếng Anh của các đảo ở Nam Hải. Trên tập san lần đầu tiên của Uỷ ban phát hành tháng 1/1935 đă liệt kê tương đối rơ tên gọi của 132 đảo, mỏm đá, băi đá, băi cát. Tháng 4/1935 Uỷ ban nói trên lại xuất bản “bản đồ các đảo ở Nam Hải”, xác định đường biên giới lănh thổ của Trung Quốc ở Nam Hải cực Nam đến vĩ tuyến 4, đánh dấu băi đá ngầm Tăng Mẫu vào phạm vi lănh thổ. Năm 1936, bản đồ nói trên được đưa vào tập bản đồ do Bạch Mi Sơ chủ biên, gọi là tập “Bản đồ mới kiến thiết Trung Hoa” (Trung Hoa kiến thiết tân đồ), c̣n có tên gọi khác là “Bản đồ toàn Trung Quốc sau phát triển cương vực biển phía Nam” (Hải cương Nam triển hậu chi Trung Quốc toàn đồ). Trong lănh thổ Nam Hải trên bản đồ có đánh dấu các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Đoàn Sa, xung quanh các quần đảo này được đánh dấu rơ bằng đường ranh giới quốc gia để thể hiện rơ các đảo ở Nam Hải đều đă có trong bản đồ Trung Quốc. Đường ghi dấu lănh thổ quốc gia ở các đảo Nam Hải cực Nam nằm ở độ 4 vĩ tuyến Bắc, đồng thời đánh dấu rơ tiêu chí của băi Tăng Mẫu ở đường ranh giới quốc gia. Đó là đường ranh giới lănh thổ trên biển xuất hiện sớm nhất trên bản đồ của Trung Quốc, cũng là h́nh hài ban đầu của đường đứt quăng h́nh chữ U trên bản đồ Nam Hải của Trung Quốc hiện nay.
Thu hồi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa sau kháng chiến chống Nhật
Sau khi xâm lược Trung Quốc vào thập niên 30 thế kỷ trước, Nhật Bản đă cưỡng chiếm quần đảo Nam Sa và đổi tên thành “quần đảo Tân Nam”, hoạch định quần đảo này thuộc quyền quản lư của Toàn quyền Đài Loan (lúc đó Đài Loan là thuộc địa của Nhật Bản). Sau kháng chiến chống Nhật, Chính phủ Trung Quốc lúc đó căn cứ theo “Tuyên ngôn Cairô” – do 3 nước Trung Quốc, Mỹ và Anh kư tháng 12/1943 quy định “tôn chỉ của 3 nước [...]ở chỗ làm cho các phần lănh thổ của Trung Quốc bị Nhật Bản cướp đoạt như Măn Châu, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ được trả về cho Trung Hoa Dân quốc” – và “Thông cáo Potsdam” – hối thúc Nhật Bản đầu hàng do 3 nước Trung, Mỹ, Anh kư tháng 7/1945 về “điều kiện trong bản Tuyên ngôn Cairô sẽ phải thực thi, c̣n chủ quyền của Nhật Bản sẽ phải hạn chế trong phạm vi lănh thổ Nhật Bản hiện có, Bắc Hải đạo, Cửu Châu, cùng các đảo nhỏ khác do 4 nước và người Ngô (một tộc người ở Thường Xuân thuộc tỉnh Cát Lâm?) – quyết định” thu hồi Đài Loan, sau đó chính thức thu hồi quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ngày 25/10/1945.
Mùa Thu năm 1946, Chính phủ Trung Quốc lúc đó quyết định Bộ tư lệnh hải quân đưa binh lính và tàu chiến ra đóng ở quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa, đồng thời Bộ Quốc pḥng, Bộ Nội chính, Bộ tư lệnh không quân. Ban hậu cần cũng cử đại biểu ra thị sát; chính quyền tỉnh Quảng Đông cử nhân viên ra tiếp nhận. Những người ra tiếp nhận đi trên 4 tàu mang tên “Thái B́nh”, “Vĩnh Hưng”, “Trung Kiến”, “Trung Nghiệp”. Tháng 11 cùng năm, 2 tàu “Vĩnh Hưng”, “Trung Kiến” do Diêu Nhữ Ngọc dẫn đầu ra đến đảo chính trong quần đảo Tây Sa là đảo Vĩnh Hưng, dựng “Bia kỷ niệm hải quân thu hồi quần đảo Tây Sa” trên đó. Mặt chính của bia khắc 4 chữ lớn là “Nam Hải B́nh Phiên” (nghĩa là phên dậu Nam Hải), bắn pháo, kéo cờ tuyên bố công việc thu hồi quần đảo Tây Sa đă hoàn thành. Tháng 12, 2 tàu “Thái B́nh” và “Trung Nghiệp” do Lâm Tuân dẫn đầu ra đến đảo chính trong quần đảo Nam Sa, đă đặt tên cho đảo là đảo “Thái B́nh” để kỷ niệm tàu “Thái B́nh” tiếp nhận đảo này, đồng thời dựng bia đá ở đầu phía Đông của đảo với tên gọi “Đảo Thái B́nh quần đảo Nam Sa”, cử hành nghi thức tiếp nhận và kéo cờ bên cạnh bia đá. Sau đó nhân viên thu hồi lại đến đảo Trung Nghiệp, đảo Tây Nguyệt và đảo Nam Uy, lần lượt dựng bia để làm chứng cứ. Tại đảo Thái B́nh đă thành lập Pḥng quản lư quần đảo Nam Sa, thuộc quyền quản lư của chính quyền tỉnh Quảng Đông.
Tuy nhiên, Pháp với ư đồ khôi phục chế độ thống trị tại Đông Dương và Philippin vừa thoát khỏi ách thống trị của Mỹ đều muốn kiểm soát hữu hiệu quần đảo. Trong khi quân đội Nhật đầu hàng c̣n chờ trao trả, Pháp đă tranh thủ đến chiếm ngay một số đảo trước khi bộ đội Trung Quốc đến đóng trên các đảo ở Nam Hải, đồng thời đưa tàu chiến tuần tra thường xuyên ở Nam Hải. Tháng 7/1946, một tàu không rơ quốc tịch đă xâm nhập vùng biển thuộc quần đảo Nam Sa, sau khi biết tin Tổng bộ hải quân Trung Quốc quyết định đưa tàu chiến đến tiếp nhận quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa mới tự động rút đi sau đó mấy ngày. Tháng 10, lại có tàu chiến Chevreud của Pháp đến chiếm đảo Nam Uy và đảo Thái B́nh ở quần đảo Nam Sa, đồng thời dựng bia trên đảo Thái B́nh. Trước việc Trung Quốc quyết định thu hồi quần đảo Tây Sa và Nam Sa, Pháp lên tiếng phản đối và đưa tàu chiến Tonkinois đến quần đảo Tây Sa, trên đường đến đảo Vĩnh Hưng thấy có bộ đội Trung Quốc đóng giữ liền đổi hướng đi đến đảo San Hô, và thiết lập Trung tâm hành chính trên đảo. Philippin cũng muốn nhân cơ hội Trung Quốc chưa hoàn toàn tiếp nhận các quần đảo Tây Sa và Nam Sa, chiếm quần đảo Nam Sa làm của ḿnh. Ngày 23/7/1946 Ngoại trưởng Philippin lúc đó là Quirino tuyên bố: “Trung Quốc đă tranh chấp với Philippin về quyền sở hữu đối với quần đảo Nam Sa, quần đảo này ở cách đảo Palawan 200 hải lư về phía Tây, Philippin sẽ hợp nhất quần đảo này vào phạm vi quốc pḥng của ḿnh”.
Trong hoàn cảnh phức tạp như vậy, để bảo vệ chủ quyền đối với các đảo ở Nam Hải, Chính phủ Trung Quốc khi đó đă kịp thời có một số biện pháp cần thiết.
Trước hết, đă điều chỉnh lại tên gọi của các đảo theo vị trí địa lư của các đảo đó tại vùng biển Nam Hải, đổi lại tên gọi ban đầu của “Quần đảo Đoàn Sa” thành “Quần đảo Nam Sa”, đổi lại tên gọi cũ của “Quần đảo Nam Sa” thành “Quần đảo Trung Sa”.
Thứ hai, ngày 14/4/1947, Bộ Nội chính đă mời các cơ quan hữu quan cử người đến thảo luận và ra quyết định: 1) Phạm vi lănh thổ Nam Hải cực Nam phải đến băi Tăng Mẫu, phạm vi này trước kháng chiến Chính phủ, cơ quan, trường học và các ấn phẩm xuất bản của Thư cục Trung Quốc đều lấy đó làm chuẩn; Bộ Nội chính chịu trách nhiệm lập hồ sơ, vẫn giữ nguyên không thay đổi. 2) Việc công bố chủ quyền ở quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, sau khi Bộ Nội chính đặt tên, có bản đồ minh hoạ kèm theo, tŕnh lên Chính phủ Dân quốc lập hồ sơ, vẫn do Bộ Nội chính thông báo cho cả nước biết. Trước khi công bố, Bộ tư lệnh hải quân cũng đồng thời cố gắng đưa quân ra đóng ở các đảo thuộc các quần đảo nói trên. 3) Các quần đảo Tây Sa, Nam Sa mùa cá đến nhanh, ngư dân đến các quần đảo do Bộ tư lệnh hải quân và chính quyền tỉnh Quảng Đông bảo vệ và tạo thuận lợi trong việc chuyên chở và thông báo tin tức.
Thứ ba, để cụ thể hoá phạm vi lănh thổ đă xác định ở Nam Hải, năm 1947, Vụ quản lư đại phương thuộc Bộ Nội chính khi đó đă in ấn “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam Hải”. Bản đồ này có đánh dấu các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa, đồng thời có vẽ đường đứt quăng h́nh chữ U ở xung quanh, vị trí cực Nam của đường đứt quăng ở vị trí khoảng 4 độ vĩ Bắc. Tháng 2/1948, bản đồ nói trên được đưa vào “Bản đồ khu vực hành chính Trung Hoa Dân quốc” do Phó Giác Kim thuộc Vụ Phương vực Bộ Nội chính chủ biên, Vương Tích Quang vẽ và biên tập, Thương vụ ấn thư quán phát hành đối ngoại công khai. Đây chính là đường đứt quăng h́nh chữ U được đánh dấu chính thức trên bản đồ Nam Hải của Trung Quốc.
“Hoà ước San Francisco” và đường đứt quăng Nam Hải
Về ư kiến của Mỹ và Anh liên quan vệic xử lư các quần đảo Tây Sa và Nam Sa sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, gần đây trong cuốn “Biên giới châu Á- Thái B́nh Dương thời Chiến tranh Lạnh: Lănh thổ chia rẽ hệ thống San Francisco”, nghiên cứu viên Kimi Sahara thuộc Trung tâm quản lư cải cách quốc tế Canada đă tiết lộ một số dự thảo hiệp ước hoà b́nh mà ông đă được đọc trong mấy nơi như Nhà lưu giữ hồ sơ quốc gia Mỹ và Pḥng quản lư hồ sơ Học viện Park ở Maryland. Xin được tŕnh bày một số tư liệu liên quan trong đó như sau:
1. Trong văn kiện mà Bộ Ngoại giao Mỹ đă trù định sẵn ở thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới thứ Hai, văn kiện T-324 về “đảo Nam Uy và quần đảo khác (quần đảo Tân Nam)” được phác thảo ngày 25/5/1943, mục đích là để chuẩn bị cho công tác kiểm tra của Tiểu ban lănh thổ. Văn kiện xuất phát từ góc độ địa lư, chiến lược, lịch sử Nhật Bản chiếm đóng, tuyên bố của các nước tranh chấp – tên gọi chung của các nước Nhật Bản, Pháp cùng với Trung Quốc và thái độ của Mỹ để thảo luận về các quần đảo này. Vấn đề đặc biệt cần chú ư là văn kiện nói trên đă tuyên bố về việc Philippin tuyên bố chủ quyền sau chiến tranh: “Quần đảo Tân Nam chắc chắn là nằm ngoài phạm vi giới hạn mà Philippin hoạch định ngày 10/12/1898”.
2. Ngày 19/12/1944, trước Hội nghị Yalta, Uỷ ban Phân khu Viễn Đông đă chuẩn bị văn kiện CAC-301 về “Đảo Nam Uy và quần đảo khác (quần đảo Tân Nam)”. Nội dung văn kiện cũng đề cập đến khu vực giống như khu vực được đề cập trong Văn kiện T-324 nói trên. Cả hai văn kiện đều có câu nói giống nhau: “Quần đảo Tân Nam là ở ngoài phạm vi giới hạn của Philippin”. Phía trước câu nói như trên, văn kiện CAC-301 c̣n ghi thêm: “Nước Mỹ không tuyên bố chủ quyền cho ḿnh, cũng không tuyên bố chủ quyền cho Philippin ở quần đảo”.
3. Văn kiện CAC-308 theo bản thảo chính thức tháng 12/1944 về “quần đảo Tây Sa” là chuẩn bịi riêng cho quần đảo Tây Sa. Trong khi xem xét t́nh h́nh xung đột giữa các nước tranh chấp lúc đó – tức Pháp và Trung Quốc (Nhật Bản chưa bao giờ tuyên bố chính thức chủ quyền ở Tây Sa), văn kiện nói trên đă rơ ràng thừa nhận rằng tuyên bố của Trung Quốc là chiếm ưu thế về tính chất hợp pháp lịch sử.
Từ các văn kiện nói trên có thể thấy Mỹ cho rằng quần đảo Nam Sa chắc chắn nằm ngoài phạm vi giới hạn của Philippin, đồng thời Mỹ cũng không tin vào tuyên bố của Pháp, cho rằng tuyên bố của Pháp về chủ quyền ở quần đảo Tây Sa là yếu ớt, không có sức mạnh. Nước Anh cũng giữ quan điểm tương tự như vậy đối với tuyên bố của Pháp về 2 quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Tuy vậy, trong giai đoạn soạn thảo cuối cùng của “Hoà ước San Francisco đối với Nhật Bản” năm 1951, cả Mỹ và Anh lại đưa vấn đề xử lư quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa vào hiệp ước theo yêu cầu của Pháp, hơn nữa cũng đồng ư cho Pháp đưa cả các đồng minh của họ là Lào, Campuchia và Việt Nam đến hội nghị, trong khi Trung Quốc đại lục và Đài Loan Trung Quốc lại không được mời tham gia. Ngày 23/8/1951, một bức điện báo gửi từ Pari đến Bộ Ngoại giao ở Luân Đôn viết rằng “các nước đồng minh Lào, Campuchia và Việt Nam tham gia hội nghị San Francisco đă được đảm bảo, họ sẽ kư vào bản hiệp ước. Tại San Francisco, vấn đề Nhật Bản bồi thường chiến tranh do chiếm đóng sẽ được nêu lên, Pháp cần phải bảo vệ quyền lợi đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa”.
Điều nghiêm trọng hơn nữa là “Hoà ước” chỉ viết Nhật Bản từ bỏ tất cả mọi quyền lợi ở Tây Sa và Nam Sa nhưng không nêu rơ sẽ trả lại những quyền lợi đó về cho Trung Quốc. Chính điều này đă để lại mầm hoạ cho việc tranh chấp lănh thổ, khiến cho vấn đề tranh chấp giữa Trung Quốc và 2 thế lực thực dân là Nhật Bản và Pháp trước Chiến tranh thế giới thứ Hai chuyển thành tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Đông Nam Á mới giành độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. V́ thế, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHND Trung Hoa lúc đó là Chu Ân Lai đă nghiêm túc tuyên bố: “Dự thảo văn kiện đă cố ư quy định Nhật Bản từ bỏ mọi quyền lợi ở đảo Nam Uy và quần đảo Tây Sa nhưng không đề cập đến vấn đề hoàn trả chủ quyền. Trên thực tế, quần đảo Tây Sa và đảo Nam Uy cũng như toàn bộ quần đảo Nam Sa, quần đảo Trung Sa và quần đảo Đông Sa, từ trước đến nay đều thuộc lănh thổ của Trung Quốc. Trong thời kỳ đế quốc Nhật Bản phát động chiến tranh, tuy có lúc thất thủ nhưng sau khi Nhật Bản đầu hàng đă được Chính phủ Trung Quốc lúc đó thu hồi toàn bộ. V́ thế, Chính phủ Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: Chủ quyền không thể xâm phạm của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại đảo Nam Uy (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), dù Mỹ và Anh có quy định hay không quy định và quy định như thế nào trong dự thảo hoà ước với Nhật Bản, cũng đều không chịu bất cứ ảnh hưởng ǵ”.