tonycarter
06-02-2011, 18:52
Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 đă định ra khung pháp lư cho các quốc gia trong việc xác định các vùng biển và quy chế pháp lư của chúng, xác định ranh giới, biên giới trên biển giữa các quốc gia.
Theo công ước, mỗi quốc gia ven biển có năm vùng biển bao gồm: nội thuỷ, lănh hải, vùng tiếp giáp lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
http://www.voh.com.vn/Data/News/201106/20110602111053vungbi en-vn-2611.jpg
Các vùng biển của Việt Nam - Đồ hoạ: V.Cường
Dựa vào các quy định của công ước, quốc gia ven biển xác định ra đường cơ sở để từ đó làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.
1. Nội thuỷ
Điều 8 của công ước Luật biển năm 1982 quy định nội thuỷ là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lănh hải. Tại nội thuỷ, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lănh thổ đất liền của ḿnh.
2. Lănh hải
Lănh hải là vùng biển nằm ngoài đường cơ sở. Chiều rộng tối đa của lănh hải là 12 hải lư (điều 3 công ước). Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lănh hải của ḿnh. Chủ quyền đối với đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển của lănh hải là tuyệt đối. Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lănh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên, chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thuỷ v́ ở lănh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại.
3. Vùng tiếp giáp lănh hải
Vùng tiếp giáp lănh hải là vùng biển nằm ngoài và sát với lănh hải. Chiều rộng của vùng tiếp giáp lănh hải cũng không quá 12 hải lư. Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa các vi phạm đối với các luật và quy định về hải quân, thuế khoá, nhập cư hay y tế trên lănh thổ hay trong lănh hải của ḿnh; và trừng trị những vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lănh thổ hay trong lănh hải của ḿnh (điều 33 công ước).
4. Vùng đặc quyền kinh tế
Đó là vùng biển nằm phía ngoài lănh hải và có chiều rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở (v́ lănh hải 12 hải lư nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lư). Trong vùng đặc quyền kinh tế th́ quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về kinh tế và quyền tài phán. Quyền chủ quyền về kinh tế bao gồm các quyền đối với khai thác tài nguyên sinh vật (điều 62), tài nguyên không sinh vật của cột nước bên trên đáy biển, của đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển. Hoạt động khai thác tài nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế đem lại lợi ích cho quốc gia ven biển như khai thác năng lượng nước, hải lưu, gió...
Mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn khai thác tài nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế phải có sự xin phép và đồng ư của quốc gia ven biển.
Quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển bao gồm quyền lắp đặt, sửa chữa các đảo nhân tạo, công tŕnh, thiết bị trên biển; quyền nghiên cứu khoa học biển; quyền bảo vệ môi trường.
5. Thềm lục địa
Thềm lục địa của quốc gia ven biển là phần đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lănh hải của quốc gia ven biển. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lư (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lư). Các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm ḍ, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của ḿnh. Cần lưu ư quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm ḍ, khai thác th́ cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ư của quốc gia ven biển.
Điều cần nhấn mạnh là một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các quyền tương ứng như đă nêu trên đối với các vùng biển của ḿnh, nhưng mặt khác họ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác.
Ngoài ra, c̣n có vùng biển quốc tế (là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển). Ở vùng biển quốc tế, các quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, đặt dây cáp và ống ngầm, đánh bắt cá, nghiên cứu khoa học... nhưng phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như phải tuân thủ các quy định có liên quan của công ước Luật biển năm 1982; và đáy biển quốc tế (hay c̣n gọi là đáy đại dương) là di sản chung của nhân loại và không quốc gia nào có quyền đ̣i hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó.
Luật gia NGUYỄN DUY CHIẾN - thạc sĩ HOÀNG VIỆT
Theo Tuổi Trẻ
Theo công ước, mỗi quốc gia ven biển có năm vùng biển bao gồm: nội thuỷ, lănh hải, vùng tiếp giáp lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
http://www.voh.com.vn/Data/News/201106/20110602111053vungbi en-vn-2611.jpg
Các vùng biển của Việt Nam - Đồ hoạ: V.Cường
Dựa vào các quy định của công ước, quốc gia ven biển xác định ra đường cơ sở để từ đó làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.
1. Nội thuỷ
Điều 8 của công ước Luật biển năm 1982 quy định nội thuỷ là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lănh hải. Tại nội thuỷ, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lănh thổ đất liền của ḿnh.
2. Lănh hải
Lănh hải là vùng biển nằm ngoài đường cơ sở. Chiều rộng tối đa của lănh hải là 12 hải lư (điều 3 công ước). Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lănh hải của ḿnh. Chủ quyền đối với đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển của lănh hải là tuyệt đối. Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lănh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên, chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thuỷ v́ ở lănh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại.
3. Vùng tiếp giáp lănh hải
Vùng tiếp giáp lănh hải là vùng biển nằm ngoài và sát với lănh hải. Chiều rộng của vùng tiếp giáp lănh hải cũng không quá 12 hải lư. Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa các vi phạm đối với các luật và quy định về hải quân, thuế khoá, nhập cư hay y tế trên lănh thổ hay trong lănh hải của ḿnh; và trừng trị những vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lănh thổ hay trong lănh hải của ḿnh (điều 33 công ước).
4. Vùng đặc quyền kinh tế
Đó là vùng biển nằm phía ngoài lănh hải và có chiều rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở (v́ lănh hải 12 hải lư nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lư). Trong vùng đặc quyền kinh tế th́ quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về kinh tế và quyền tài phán. Quyền chủ quyền về kinh tế bao gồm các quyền đối với khai thác tài nguyên sinh vật (điều 62), tài nguyên không sinh vật của cột nước bên trên đáy biển, của đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển. Hoạt động khai thác tài nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế đem lại lợi ích cho quốc gia ven biển như khai thác năng lượng nước, hải lưu, gió...
Mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn khai thác tài nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế phải có sự xin phép và đồng ư của quốc gia ven biển.
Quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển bao gồm quyền lắp đặt, sửa chữa các đảo nhân tạo, công tŕnh, thiết bị trên biển; quyền nghiên cứu khoa học biển; quyền bảo vệ môi trường.
5. Thềm lục địa
Thềm lục địa của quốc gia ven biển là phần đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lănh hải của quốc gia ven biển. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lư (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lư). Các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm ḍ, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của ḿnh. Cần lưu ư quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm ḍ, khai thác th́ cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ư của quốc gia ven biển.
Điều cần nhấn mạnh là một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các quyền tương ứng như đă nêu trên đối với các vùng biển của ḿnh, nhưng mặt khác họ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác.
Ngoài ra, c̣n có vùng biển quốc tế (là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển). Ở vùng biển quốc tế, các quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, đặt dây cáp và ống ngầm, đánh bắt cá, nghiên cứu khoa học... nhưng phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như phải tuân thủ các quy định có liên quan của công ước Luật biển năm 1982; và đáy biển quốc tế (hay c̣n gọi là đáy đại dương) là di sản chung của nhân loại và không quốc gia nào có quyền đ̣i hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó.
Luật gia NGUYỄN DUY CHIẾN - thạc sĩ HOÀNG VIỆT
Theo Tuổi Trẻ