Log in

View Full Version : Khó giải bài toán giảm nhập siêu từ Trung Quốc


woaini1982
06-21-2011, 20:46
Hiện Trung Quốc cung cấp đến hơn 60% nguyên liệu cho Việt Nam, đồng thời Trung Quốc cũng là nước cung cấp những thiết bị, công nghệ rẻ tiền để gia tăng xuất khẩu trong thời gian qua. V́ vậy, nếu thời gian tới đây, chúng ta không có chủ trương gia tăng mạnh xuất khẩu những mặt hàng phụ thuộc Trung Quốc, th́ Việt Nam sẽ có điều kiện giảm nhập khẩu từ nước này.



Đó là nhận định của TS Đinh Văn Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương, trước bối cảnh nhập siêu hàng Trung Quốc tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng mạnh.

- Ông đánh giá như thế nào về chính sách thương mại để phát triển bền vững của Việt Nam?

Thời gian qua, mục tiêu của chúng ta là gia tăng tối đa cho xuất khẩu và lấy xuất khẩu làm động lực cho tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm. So với mục tiêu đề ra giai đoạn 2001 – 2010 là tăng trưởng xuất khẩu gấp đôi GDP, th́ hiện Việt Nam, tăng trưởng GDP gần 8% và tăng trưởng xuất khẩu gần 19%. Như vậy, mục tiêu gia tăng xuất khẩu cơ bản đă đạt được.

http://images.vnmedia.vn/images_upload/2011/vnm_2011_359249.jpg


Tuy nhiên, mục tiêu thứ hai cũng không kém phần quan trọng mà chúng ta đă đặt ra là cân bằng cán cân thương mại vào năm 2010, đă không đạt được. Điều đáng nói là không những không đạt được mục tiêu này mà mức độ gia tăng của nhập siêu lại ngày càng gia tăng. Đấy là những điểm mấu chốt nhất của chính sách thương mại trong thời gian qua.

- Vậy theo ông, Việt Nam cần làm thế nào để có thể hạn chế nhập siêu và gia tăng xuất khẩu?



Theo tôi, giai đoạn tới đây, trong chiến lược phát triển kinh tế xă hội năm 2011 - 2020, Chính

http://images.vnmedia.vn/images_upload/2011/vnm_2011_359215.JPG

TS Đinh Văn Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương. Ảnh: MH

phủ đă đạt ra mục tiêu giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Chúng ta đă đặt ra tăng trưởng kinh tế từ 7,5 - 8%, nhưng tăng trưởng xuất khẩu chỉ đặt ra là 12%, như vậy nhịp độ tăng trưởng này giảm nhiều so với trước. Với việc điều chỉnh này, Việt Nam sẽ có điều kiện tái cấu trúc cơ cấu hàng xuất khẩu.

Nếu trước đây chúng ta c̣n dành một phần rất lớn cho xuất khẩu khoáng sản, nông sản thô, th́ tới đây sẽ phải tập trung cho xuất hàng công nghiệp chế biến cũng như nông sản chế biến. Như thế, tất yếu kéo theo là kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm và tác động đến công ăn việc làm.

Ví dụ, nếu chúng ta vẫn tiếp tục đưa xuất khẩu của ngành như dệt may, giày dép lên cao, th́ có tới 80 - 85% nguyên liệu sản xuất đầu vào đều phải nhập của nước ngoài. V́ vậy, nếu vẫn tiếp tục muốn tăng trưởng xuất khẩu của những ngành hàng này th́ phải tăng nhập khẩu. Nhưng tới đây, chúng ta giảm mục tiêu tăng xuất khẩu những mặt hàng gia công, hoặc những ngành c̣n ở mức độ chế biến thấp, giá trị gia tăng thấp. Hành động này sẽ là điều kiện để giảm nhập khẩu, giúp cán cân thương mại dần đi vào thăng bằng lại.

Nhưng có một vấn đề là hiện tại Việt Nam không thể giảm tốc ngay mức độ nhập khẩu được, v́ nó sẽ ảnh hưởng đến công ăn việc làm của hàng triệu lao động và tác động tới vấn đề an sinh xă hội. V́ vậy, tới đây Bộ sẽ nguyên cứu chính sách sao cho một mặt giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, đồng thời cũng sẽ phải thay đổi cơ cấu này, để đảm bảo rằng khi chúng ta xuất khẩu phải có giá trị gia tăng cao. Có như vậy, mục tiêu chính sách đặt ra mới có thể đạt được.

- Vậy có thể thấy rằng, thu hút đầu tư nước ngoài là để gia tăng xuất khẩu. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay các doanh nghiệp FDI lại đa số nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng hóa tiêu dùng trong nước. Điều này, trong thời gian tới cần thay đổi như thế nào?



Có thể nói rằng, hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam, động cơ là lợi nhuận. Họ sẽ tính toán xem, hàng hóa của họ tiêu thụ ở thị trường trong nước hay xuất khẩu có lợi hơn để chọn.

Đồng thời, doanh nghiệp FDI muốn đầu tư chu kỳ ngắn hạn th́ người ta sẽ nhập công nghệ thiết bị lạc hậu hơn, để khấu hao trong thời gian ngắn hơn. Họ sẽ không muốn đầu tư công nghệ đắt tiền để v́ thời gian khấu hao dài.

Ngoài ra, một trong những yếu tố nữa đó là chính sách, cũng như chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của chúng ta vừa qua cũng mở rộng tối đa để các doanh nghiệp FDI tham gia vào Việt Nam.

V́ vậy, theo tôi tới đây chính sách này cần phải thay đổi như quy định hàm lượng công nghệ ở mức độ nào mới cho tham gia vào Việt Nam bằng cách quy định những tiêu chuẩn kỹ thuật.

- Ông đánh giá như thế nào về thương mại Việt Nam, Trung Quốc?

Đây là vấn đề rất đau đầu, chúng tôi đang cân đối, tính toán. Trung Quốc cung cấp đến hơn 60% nguyên liệu cho nước ta phát triển, đồng thời Trung Quốc là nước cung cấp cho ta những thiết bị, công nghệ rẻ tiền để gia tăng xuất khẩu trong thời gian qua. Nếu tới đây, chúng ta không có chủ trương gia tăng mạnh xuất khẩu những mặt hàng phụ thuộc Trung Quốc th́ tất nhiên chúng ta sẽ có điều kiện để giảm nhập khẩu từ nước này.

Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đă chuyển hướng từ lấy động lực tăng trưởng kinh tế là đầu tư, xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng trong nước. Nếu thực sự Trung Quốc chuyển chiến lược của họ th́ đó là điều kiện thuận lợi cho chúng ta có thể xuất khẩu trở lại Trung Quốc, sau đó lại nhập. Đây là điều kiện tốt để Việt Nam cân đối cán cân thương mại.

- Vậy c̣n các biện pháp hạn chế nhập khẩu trong thời gian vừa qua?

Theo tôi, các biện pháp hạn chế nhập khẩu hoàn toàn phù hợp với cam kết gia nhập WTO, v́ theo nguyên tắc, cho phép các nước thành viên có quyền thực hiện các biện pháp khẩn cấp để đảm bảo cán cân thương mại, sau đó là cán cân thanh toán.

Hơn nữa chúng ta cũng đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nếu nhập khẩu hàng hóa không được bảo hành, bảo dưỡng th́ chúng ta hoàn toàn có quyền đưa ra các quy định phù hợp. Chúng ta không muốn sử dụng máy móc tiêu tốn năng lượng rất lớn, nên việc đưa ra các quy định để cho những máy móc tiêu hao nhiều năng lượng ít vào Việt Nam là hoàn toàn những quy định phù hợp với việc bảo vệ môi trường.

- Xin cảm ơn ông!

Minh Hường - vnmedia