vuitoichat
06-25-2011, 10:47
Những cuộc biểu t́nh ôn ḥa diễn ra tại hai thành phố lớn nhất nước trong những tuần đầu tháng 6 vừa qua là dấu hiệu cho thấy biểu t́nh đang từng bước trở lại với đời sống chính trị của nước ta. Thế nhưng, chỉ cần lướt qua một loạt các ư kiến khác nhau trên báo chí – nhất là ư kiến của các quan chức, người ta thấy có những ngộ nhận khá trầm trọng về ư nghĩa của hai chữ biểu t́nh.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/06/catluoibotau-400x3151.jpg
Thật ra biểu t́nh là ǵ? Là quyền của người dân hay là hoạt động của chính quyền? Biểu t́nh có thật sự là nguy hiểm đối với trật tự công cộng và an ninh quốc gia hay không?
Xét một cách thật khách quan và khoa học, “mít-tinh” hay “biểu t́nh” là những khái niệm mang tính lịch sử, nhân loại, không thể hiểu một cách chủ quan, tùy tiện. Thiết nghĩ việc t́m hiểu thấu đáo nội dung của khái niệm “biểu t́nh” có thể góp phần soi sáng quan điểm của cả ba phía (Nhà nước Trung Quốc, Nhà nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam) đối với phong trào biểu t́nh đă và đang tiếp tục diễn ra. Bài viết này là một nỗ lực nhỏ nhoi nhằm vào mục đích thiết thực ấy.
“Biểu t́nh” là ǵ?
Hán-Việt Từ điển Đào Duy Anh (1931) giải thích biểu t́nh 表 情 như sau: “Dân chúng tụ họp nhau để biểu thị ẩn t́nh và ư nguyện (meeting)”. Cách giải thích này giúp ta hiểu một cách chính xác ư nghĩa của khái niệm biểu t́nh, thế nhưng tác giả đă có sự nhầm lẫn khi dùng chữ meeting để so sánh, bởi v́ từ này không tương đương với từ biểu t́nh.
Từ điển Larousse giải thích meeting (một từ gốc Anh) là “cuộc hội họp công cộng do một đảng, một công đoàn,v.v… tổ chức để thông báo hay thảo luận về một chủ đề chính trị hay xă hội” (Le Petit Larousse illustré 2011). Như vậy, chữ meeting dùng để chỉ một cuộc họp chứ không hẳn có nghĩa là biểu t́nh.
Trong tiếng Pháp, “biểu t́nh” là manifestation. Động từ manisfester có nghĩa là bày tỏ, biểu lộ, bộc lộ. Trong tiếng Anh, “biểu t́nh” là demonstration, động từ demonstrate vừa có nghĩa là “tŕnh bày hay chứng minh điều ǵ đó một cách rơ ràng” vừa có nghĩa là “phản đối hay ủng hộ một điều ǵ đó ở chỗ công cộng cùng với nhiều người khác” (Longman Dictionary of Contemporary English).
Nói một cách dễ hiểu, biểu t́nh là “bày tỏ t́nh cảm”. Nhưng khác với việc bày tỏ t́nh cảm giữa hai người (yêu nhau hay ghét nhau), biểu t́nh là cách biểu lộ t́nh cảm của một số đông người ở chốn công cộng nhằm để ủng hộ hay phản đối một điều ǵ đó. Người dân Việt biểu t́nh trong những ngày tháng 6 vừa qua là nhằm để bày tỏ thái độ phẫn nộ trước hành động vi phạm chủ quyền trắng trợn của nhà cầm quyền Trung Quốc. Khác với sự phản kháng của một cá nhân đơn độc, và cũng khác với sự kiện nhiều cá nhân lên tiếng một cách riêng lẻ, biểu t́nh là tiếng nói chung của nhiều người. V́ là sự biểu lộ t́nh cảm của một số đông người, biểu t́nh cũng đồng thời là cơ hội để biểu thị nguyện vọng và ư chí chung của những người đó. Trong những hoàn cảnh nhất định, biểu t́nh nói lên t́nh cảm và nguyện vọng chung của nhân dân. Những cuộc biểu t́nh diễn ra trong những ngày chủ nhật 5-6, 12-6 và 19-6 vừa qua, cho dù số lượng nhiều hay ít, cũng thể hiện t́nh cảm và nguyện vọng chung của cả dân tộc Việt Nam.
Nguồn gốc của quyền biểu t́nh:
Xét về nguồn gốc lịch sử, biểu t́nh xuất hiện cùng với trào lưu dân chủ hóa ở các nước phương Tây, trước hết là ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Quyền biểu t́nh thật ra không phải là một quyền riêng biệt mà được bao hàm trong quyền tự do hội họp (freedom of assembly, liberté de réunion) và là h́nh thức cao nhất của tự do hội họp. Nói là h́nh thức cao nhất v́ khác với các cuộc hội họp thông thường, biểu t́nh là hội họp ngoài trời, ở nơi công cộng và thường kèm theo khẩu hiệu, biểu ngữ, gắn với tuần hành.
Tự do hội họp xuất hiện ngay từ buổi đầu của Cách mạng Pháp. Tuy nhiên, Bản Tuyên ngôn về Quyền Con người và Quyền Công dân (Déclaration des Droits de l’Homme et du Citoyen) ngày 26-8-1789 lại không có điều khoản nào đề cập đến tự do hội họp.
Bằng đạo luật ngày 21-8-1790, Quốc hội lập hiến (Assemblée constituante) thừa nhận rằng mọi công dân “có quyền hội họp một cách ôn ḥa’. Một năm sau đó, quyền tự do hội họp đă được đưa vào Hiến pháp ngày 3-9-1791 của nước Pháp. Trong số các quyền tự nhiên và dân sự (droits naturels et civils) mà bản Hiến pháp 1791 của nước Pháp cam kết bảo đảm, ta thấy có ghi: “Tự do cho các công dân được tụ tập một cách ôn ḥa và không vũ khí, với điều kiện đáp ứng đầy đủ các luật lệ của cảnh sát”.
Mặc dù được Hiến pháp công nhận, quyền tự do hội họp ở Pháp đă phải trải qua nhiều giai đoạn gặp khó khăn trong khi thực hiện, thậm chí có lúc c̣n bị cấm đoán. Măi đến khi nền Đệ tam Cộng ḥa (Troisième République) được thiết lập, quyền tự do hội họp mới được bảo đảm vững chắc bằng một đạo luật. Luật về tự do hội họp (Loi sur la liberté de réunion) được ban hành vào ngày 30-6-1881. Điều 1 của Luật này quy định: “ Các cuộc hội họp công cộng hoàn toàn tự do. Chúng có thể diễn ra không cần có sự cho phép trước đó…”. Mặc dù cho phép người dân được tự do hội họp không cần phải xin giấy phép, Luật này đ̣i hỏi phải có sự khai báo (déclaration) trước khi hội họp. Măi đến năm 1907, việc khai báo mới bị hủy bỏ.
Tại Hoa Kỳ, quyền tự do hội họp (freedom of assembly) chưa xuất hiện trong Bản Tuyên ngôn Độc lập (U.S. Declaration of Independence) năm 1776 cũng như trong bản văn chính của Hiến pháp Hoa Kỳ (được thông qua năm 1787 và được phê chuẩn trên quy mô toàn quốc vào năm 1788). Nhưng đến năm 1791, quyền tự do hội họp đă được các nhà lập pháp đưa vào 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ – thường được gọi chung là Đạo luật về Quyền (Bill of Rights).
Tu chính án số 1 (1st Amendment) có nội dung như sau: “Quốc hội sẽ không làm ra bất cứ đạo luật nào nhằm chính thống hóa một tôn giáo hay ngăn cấm việc tự do thực hành của một tôn giáo, (cũng không làm ra bất cứ đạo luật nào) để hạn chế quyền tự do ngôn luận, hay tự do báo chí, hay quyền của người dân được hội họp một cách ôn ḥa và được kiến nghị lên chính quyền để sửa chữa những điều gây bất b́nh.”
Cũng dựa trên tinh thần đó, vào năm 1948, điều 20 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) của Liên Hiệp Quốc ghi rơ: “(1) Mọi người có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ḥa b́nh (2) Không ai có thể bị bắt buộc phải gia nhập vào một hiệp hội nào.”
Ngày nay, ở bất cứ quốc gia dân chủ nào, quyền tự do hội họp cũng là một trong những quyền căn bản của người công dân được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, khác với các cuộc hội họp b́nh thường, biểu t́nh là hội họp ngoài trời, ở nơi công cộng cho nên luật pháp thường quy định những giới hạn để tránh gây trở ngại đến trật tự công cộng, an ninh chung của xă hội.
Có thể lấy ví dụ từ nước Đức. Điều 8 của Luật cơ bản (Basic Law, Grundgesetz, tức Hiến pháp của nước Đức) quy định công dân có quyền hội họp một cách ôn ḥa và không có vũ khí, không cần báo trước hay xin phép trước. “Đối với các cuộc hội họp ngoài trời (open-air meetings), quyền này có thể bị hạn chế hoặc phải dựa theo một đạo luật”. Luật hội họp (Assembly Law) của nước Đức quy định: bất cứ người nào có kế hoạch tổ chức một cuộc họp ngoài trời đều phải đăng kư trước và phải khai báo về bản chất của sự kiện (event), phải ghi rơ tên của người chịu trách nhiệm lănh đạo cuộc biểu t́nh hay mít-tinh. Cơ quan có thẩm quyền có thể cho phép sự kiện được diễn ra theo dự kiến hay ngược lại, ra lệnh cấm nếu xét thấy sự kiện này có thể gây nguy hiểm tức thời cho an ninh hay trật tự công cộng. Trong trường hợp bị cấm hội họp ngoài trời, những người dự định tổ chức biểu t́nh có thể kiện lên Ṭa án Hành chính cấp bang và sau đó, có thể kháng cáo lên Ṭa án cấp trên (Ṭa án Hành chính Tối cao cấp bang hay Ṭa án Hiến pháp Liên bang)(1).
Biểu t́nh là ôn ḥa hay bạo động?
Bản tin của Thông Tấn Xă Việt Nam về các cuộc biểu t́nh ngày 5-6-2011 đă đánh giá rằng tin tức trên “một số phương tiện truyền thông ở ngoài nước” về “các cuộc biểu t́nh phản đối Trung Quốc” là “thông tin sai sự thật”. Thay v́ gọi đó là các “cuộc biểu t́nh” hay “tuần hành”, bản tin nói trên cho rằng chỉ có “một số ít người đă tự phát tụ tập, đi ngang qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng Lănh sự quán Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh để thể hiện tinh thần yêu nước…”
Vào ngày 16-6, ông Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ – Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam đă giải thích như sau:
“Sự việc mà độc giả nêu kỳ thực là do một số người dân Thủ đô Hà Nội và TP HCM bất b́nh trước sự việc tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Binh Minh 02. Sự việc này gây ra bức xúc, theo tôi sự phản đối và t́nh cảm này rất dễ hiểu. V́ người dân của ḿnh, nhất là người trẻ đă họp nhóm lại tập trung trước cổng lănh sự quán Trung Quốc ở Sài G̣n và Hà Nội nhưng có tổ chức, rất trật tự và ôn ḥa. Thậm chí nhiều người có khẩu hiệu phản đối hành động của Trung Quốc bằng giấy A4 nhưng với thái độ b́nh tĩnh.
Tôi cho rằng cách đưa tin như thế là được. C̣n việc ai đó quan niệm sự việc đó là biểu t́nh là quyền của người ta, chúng ta không tranh căi. Theo tôi th́ đó là hành động người Việt Nam biểu thị ḷng yêu nước, ḷng tự tôn dân tộc và phản đối nước ngoài đối với quyền chủ quyền của ḿnh. Bản chất sự việc là như thế. C̣n TTXVN và một số báo đưa tin tụ tập đông người… đây là việc không nên tranh căi, bởi v́ các cơ quan chức năng cho biết không có một hành động quá khích nào.”(2)
Như vậy là theo ông Tiến sĩ này, những hành động như “họp nhóm lại tập trung trước cổng lănh sự quán Trung Quốc” nhưng “có tổ chức, rất trật tự và ôn ḥa”, “phản đối…với thái độ b́nh tĩnh”, “không có hành động quá khích nào” th́ không thể gọi là “biểu t́nh”. Ông c̣n lư sự: “C̣n việc ai đó quan niệm sự việc đó là biểu t́nh là quyền của người ta, chúng ta không tranh căi.”
Vậy th́ biểu t́nh là ôn ḥa hay quá khích, bất bạo động hay bạo động, trật tự hay mất trật tự?
Luật pháp của nước Pháp phân biệt biểu t́nh (manifestation) với tụ tập gây náo loạn (attroupement) – một thuật ngữ pháp lư đặc biệt. Theo định nghĩa tại điều 431-3 của Luật h́nh sự (Code pénal), “tụ tập gây náo loạn” là “tất cả các cuộc tập hợp của nhiều người trên đường đi công cộng hay trong một địa điểm công cộng có thể gây xáo trộn cho trật tự công cộng”. Một cuộc tụ tập gây náo loạn có thể bị lực lượng giữ ǵn trật tự giải tán sau hai lần ra lệnh giải tán mà không có hiệu quả(3).
Cần lưu ư là trong bản dịch tiếng Anh, attroupement được dịch là “unlawful assembly” (tụ tập bất hợp pháp). Như vậy, “tụ tập gây náo loạn” là hành động phi pháp, trong khi biểu t́nh (manifestation) là hoạt động hợp pháp. Theo quy định của sắc lệnh-luật (décret-loi) ngày 23-10-1935, mặc dù không cần phải xin giấy phép nhưng những người tổ chức biểu t́nh phải khai báo trước (déclaration préalable) theo đúng thủ tục(4).
Trong tiếng Anh, người ta cũng phân biệt rất rơ biểu t́nh (demonstration) với tụ tập bạo động (riot). Từ điển Longman định nghĩa tụ tập bạo động (riot) như sau: “một t́nh huống mà một số đông người cư xử theo cách dùng bạo lực và không bị kiềm chế, đặc biệt là khi đám đông phản kháng về một điều ǵ đó”. Động từ tụ tập bạo động (to riot) càng nói rơ hơn về điều này: “nếu một đám đông người tụ tập bạo động, họ hành xử theo cách dùng bạo lực và không bị kiềm chế, ví dụ như chống lại cảnh sát và gây hư hại cho xe cộ hay các ṭa nhà”.
Trong cụm từ “quyền của người dân được tụ tập một cách ôn ḥa” (the right of the people peaceably to assemble) của Tu chính án số 1, các nhà lập pháp ở Hoa Kỳ đă sử dụng một từ bổ nghĩa “peaceably” (một cách ôn ḥa) để nhấn mạnh rằng hiến pháp chỉ bảo đảm quyền tự do hội họp khi quyền này được thực hiện một cách ôn ḥa. Nói cách khác, nếu một nhóm người tập hợp để khởi sự một cuộc tụ tập để phá rối trật tự hoặc gây bạo động để lật đổ chính quyền, họ không thể dựa vào một quyền được bảo đảm bởi Hiến pháp.
Ngày nay, nhằm để ngăn ngừa các cuộc tụ tập phá rối, tụ tập bạo động, bạo loạn do những thành phần cực đoan của cánh tả hoặc cánh hữu gây ra, các quốc gia dân chủ đă thành lập lực lượng cảnh sát chống bạo động (riot police) (5). Cùng với việc h́nh thành lực lượng này là các loại vũ khí không sát thương (non-lethal weapons) hay ít sát thương (less-lethal weapons): lựu đạn cay, đạn cao su, ṿi rồng, v.v… Mục đích là giải tán đám đông nhưng tránh gây thương vong. Chỉ có chính quyền tại các quốc gia phi-dân chủ hay dân chủ giả hiệu mới sử dụng biện pháp chống bạo động một cách tùy tiện: như dùng súng bắn đạn thật, thậm chí cả xe tăng, để bắn vào những người dân biểu t́nh ôn ḥa (Vụ đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn – Bắc Kinh, 3 và 4-6-1989). Ở nước ta, có nơi c̣n dùng “cảnh sát cơ động” để giải tán những người dân oan tụ tập khiếu kiện trước các trụ sở tiếp dân, thậm chí giải tỏa nhà và chiếm đất của dân để cấp cho các vị quan chức.
Như vậy, dưới các chế độ dân chủ được mệnh danh là “tư sản”, biểu t́nh không phải là tụ tập gây bạo loạn nhằm gây mất trật tự công cộng hay lật đổ chế độ. Biểu t́nh là một quyền được hiến pháp và pháp luật bảo hộ. Chính phủ ở các nước này không thể viện cớ ngăn ngừa bạo loạn, lật đổ để bác bỏ quyền tự do hội họp, biểu t́nh, tuần hành của người dân. Ngược lại, trong các quốc gia cộng sản, phát-xít hay độc tài Hồi giáo, chính quyền luôn viện cớ ngăn ngừa bạo loạn, lật đổ để ngăn cấm mọi h́nh thức tụ tập, kể cả biểu t́nh hay hội họp ôn ḥa.
Việc những người có thẩm quyền như ông Tiến sĩ Phó Trưởng ban Tuyên giáo nói trên quan niệm một cách sai lệch về biểu t́nh cho thấy dưới chế độ cộng sản, không có sự phân biệt giữa biểu t́nh ôn ḥa và tụ tập bạo động và cũng không hề tôn trọng quyền biểu t́nh và tự do hội họp của người dân. Chế độ toàn trị biến biểu t́nh thành hai chữ cấm kỵ, đặt khái niệm biểu t́nh vào phạm trù “vấn đề nhạy cảm”, cho dù những người sáng lập nên chế độ toàn trị hiện nay cũng chính là những người xưa kia đă từng đi đầu trong việc đấu tranh đ̣i hỏi thực hiện quyền “biểu t́nh”.
Điều mỉa mai là trong khi báo chí nước ngoài (kể cả các kênh truyền h́nh như BBC của Anh, NHK của Nhật Bản,…) cũng như báo chí “lề trái” đă tŕnh bày biết bao tin tức và h́nh ảnh phong phú, sinh động về các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc ở hai đầu đất nước th́ hơn 700 tờ báo trong nước vẫn không dám nhắc đến hai chữ “biểu t́nh”. Điều đó nói lên thực chất của cái-gọi-là “quyền tự do báo chí” trong một chế độ tự xưng là “dân chủ gấp triệu lần so với nền dân chủ tư sản”!
Biểu t́nh là quyền của công dân hay là quyền của Nhà nước?
Vào ngày 5-6-2011, giữa lúc các cuộc biểu t́nh nổ ra tại quốc nội th́ Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đang tham dự diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La tại Singapore. Trả lời phỏng vấn đài BBC, ông cho biết đă nhận được thông tin về các cuộc biểu t́nh qua điện thoại. Ông thừa nhận: “”Cuộc tuần hành theo tôi được biết đã diễn ra bình tĩnh, trật tự, không cản trở giao thông và cũng không mang các biểu ngữ mang tính kích động.” Mặc dù vậy, ông vẫn cho rằng: “Đây là hành động tự phát của người dân” và tâm sự với đài BBC rằng theo “quan điểm của riêng ông”, các hoạt động biểu tình như trên là “không nên, dù đây là bắt nguồn từ lòng yêu nước”.(6)
Sự lo ngại của Tướng Vịnh không phải là vô cớ. Muốn biết rơ tại sao các nhà lănh đạo Đảng cộng sản Việt Nam lại lo ngại về các cuộc “biểu t́nh”, có lẽ chúng ta phải t́m hiểu những phản ứng từ phía Trung Quốc.
Người bộc lộ ư kiến rơ ràng nhất về vấn đề này có lẽ là ông Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh thuộc Viện Luật pháp Quốc tế thuộc Đại học Khoa học Xã hội Trung Quốc. Trả lời đài BBC, ông này nhận định: “Tôi cho là nếu không có việc chính phủ bật đèn xanh, thì biểu tình không thể xảy ra được ở Việt Nam. Hãy nhớ sau các cuộc biểu tình cuối năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã cố gắng ngăn chặn biểu tình như thế nào.” Chẳng những tỏ ra bực bội về các cuộc biểu t́nh, ông ta c̣n lên giọng khuyến cáo: “Quan điểm của tôi là các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông phải được dàn xếp một cách hòa bình giữa hai nhà nước, thông qua thương lượng. Những cuộc biểu tình như vừa qua sẽ không giúp ích gì cho tiến trình này.”(7)
Như vậy, ở cả hai phía – Việt Nam lẫn Trung Quốc – quan niệm chính thống vẫn cho rằng biểu t́nh không phải là quyền của người dân. Chính v́ vậy, khi biểu t́nh xảy ra, một bên (Trung Quốc) cho rằng biểu t́nh là do Nhà nước (Việt Nam) xúi giục, bật đèn xanh, c̣n bên kia (Nhà nước Việt Nam) t́m cách thoái thác trách nhiệm, sợ đối phương chê trách hay trừng phạt ḿnh về việc “bật đèn xanh” cho các cuộc biểu t́nh.
Như phần trên đă tŕnh bày, trong các quốc gia dân chủ, biểu t́nh là quyền của công dân, Nhà nước có trách nhiệm ban hành luật pháp để người dân thực thi quyền đó. Nhà nước không chịu trách nhiệm về nội dung của các cuộc biểu t́nh. Nhưng chế độ chính trị ở Việt Nam và ở Trung Quốc đều là chế độ toàn trị (totalitarianism, totalitarisme), toàn bộ xă hội dân sự đều bị Đảng cộng sản kiểm soát, khống chế. Biểu t́nh của người dân bị triệt tiêu, toàn bộ các cuộc hội họp, mít-tinh, biểu t́nh,… đều do các đoàn thể của Đảng đứng ra tổ chức và được Nhà nước giám sát chặt chẽ nhằm phục vụ cho ư đồ, mong muốn của người cầm quyền. Chính v́ thế khi xảy ra biểu t́nh, phía Trung Quốc mới có cớ để trách móc, quy trách nhiệm cho Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Nếu chế độ chính trị ở Việt Nam là một chế độ dân chủ th́ quyền biểu t́nh và tự do hội họp được bảo đảm. Trong trường hợp đó, không thể xảy ra trường hợp chính phủ của Trung Quốc có quyền trách cứ chính phủ Việt Nam rằng “tại sao để cho người dân biểu t́nh làm ảnh hưởng đến t́nh hữu nghị của nhân dân hai nước?”. Nhất là khi t́nh hữu nghị ấy chỉ là một “huyền thoại”, một “chiêu bài” để che giấu mối quan hệ “thực dân mới – thuộc địa kiểu mới” trong thực tế.
Xem ra việc tước đoạt quyền biểu t́nh và tự do hội họp của người dân lại gián tiếp có lợi cho chính sách bành trướng của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Một khi nhân dân mất tự do, phía Trung Quốc chỉ cần khống chế hay mua chuộc một số hay phần lớn các ủy viên Bộ Chính trị là có thể khống chế được toàn bộ dân tộc Việt Nam.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/06/catluoibotau-400x3151.jpg
Thật ra biểu t́nh là ǵ? Là quyền của người dân hay là hoạt động của chính quyền? Biểu t́nh có thật sự là nguy hiểm đối với trật tự công cộng và an ninh quốc gia hay không?
Xét một cách thật khách quan và khoa học, “mít-tinh” hay “biểu t́nh” là những khái niệm mang tính lịch sử, nhân loại, không thể hiểu một cách chủ quan, tùy tiện. Thiết nghĩ việc t́m hiểu thấu đáo nội dung của khái niệm “biểu t́nh” có thể góp phần soi sáng quan điểm của cả ba phía (Nhà nước Trung Quốc, Nhà nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam) đối với phong trào biểu t́nh đă và đang tiếp tục diễn ra. Bài viết này là một nỗ lực nhỏ nhoi nhằm vào mục đích thiết thực ấy.
“Biểu t́nh” là ǵ?
Hán-Việt Từ điển Đào Duy Anh (1931) giải thích biểu t́nh 表 情 như sau: “Dân chúng tụ họp nhau để biểu thị ẩn t́nh và ư nguyện (meeting)”. Cách giải thích này giúp ta hiểu một cách chính xác ư nghĩa của khái niệm biểu t́nh, thế nhưng tác giả đă có sự nhầm lẫn khi dùng chữ meeting để so sánh, bởi v́ từ này không tương đương với từ biểu t́nh.
Từ điển Larousse giải thích meeting (một từ gốc Anh) là “cuộc hội họp công cộng do một đảng, một công đoàn,v.v… tổ chức để thông báo hay thảo luận về một chủ đề chính trị hay xă hội” (Le Petit Larousse illustré 2011). Như vậy, chữ meeting dùng để chỉ một cuộc họp chứ không hẳn có nghĩa là biểu t́nh.
Trong tiếng Pháp, “biểu t́nh” là manifestation. Động từ manisfester có nghĩa là bày tỏ, biểu lộ, bộc lộ. Trong tiếng Anh, “biểu t́nh” là demonstration, động từ demonstrate vừa có nghĩa là “tŕnh bày hay chứng minh điều ǵ đó một cách rơ ràng” vừa có nghĩa là “phản đối hay ủng hộ một điều ǵ đó ở chỗ công cộng cùng với nhiều người khác” (Longman Dictionary of Contemporary English).
Nói một cách dễ hiểu, biểu t́nh là “bày tỏ t́nh cảm”. Nhưng khác với việc bày tỏ t́nh cảm giữa hai người (yêu nhau hay ghét nhau), biểu t́nh là cách biểu lộ t́nh cảm của một số đông người ở chốn công cộng nhằm để ủng hộ hay phản đối một điều ǵ đó. Người dân Việt biểu t́nh trong những ngày tháng 6 vừa qua là nhằm để bày tỏ thái độ phẫn nộ trước hành động vi phạm chủ quyền trắng trợn của nhà cầm quyền Trung Quốc. Khác với sự phản kháng của một cá nhân đơn độc, và cũng khác với sự kiện nhiều cá nhân lên tiếng một cách riêng lẻ, biểu t́nh là tiếng nói chung của nhiều người. V́ là sự biểu lộ t́nh cảm của một số đông người, biểu t́nh cũng đồng thời là cơ hội để biểu thị nguyện vọng và ư chí chung của những người đó. Trong những hoàn cảnh nhất định, biểu t́nh nói lên t́nh cảm và nguyện vọng chung của nhân dân. Những cuộc biểu t́nh diễn ra trong những ngày chủ nhật 5-6, 12-6 và 19-6 vừa qua, cho dù số lượng nhiều hay ít, cũng thể hiện t́nh cảm và nguyện vọng chung của cả dân tộc Việt Nam.
Nguồn gốc của quyền biểu t́nh:
Xét về nguồn gốc lịch sử, biểu t́nh xuất hiện cùng với trào lưu dân chủ hóa ở các nước phương Tây, trước hết là ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Quyền biểu t́nh thật ra không phải là một quyền riêng biệt mà được bao hàm trong quyền tự do hội họp (freedom of assembly, liberté de réunion) và là h́nh thức cao nhất của tự do hội họp. Nói là h́nh thức cao nhất v́ khác với các cuộc hội họp thông thường, biểu t́nh là hội họp ngoài trời, ở nơi công cộng và thường kèm theo khẩu hiệu, biểu ngữ, gắn với tuần hành.
Tự do hội họp xuất hiện ngay từ buổi đầu của Cách mạng Pháp. Tuy nhiên, Bản Tuyên ngôn về Quyền Con người và Quyền Công dân (Déclaration des Droits de l’Homme et du Citoyen) ngày 26-8-1789 lại không có điều khoản nào đề cập đến tự do hội họp.
Bằng đạo luật ngày 21-8-1790, Quốc hội lập hiến (Assemblée constituante) thừa nhận rằng mọi công dân “có quyền hội họp một cách ôn ḥa’. Một năm sau đó, quyền tự do hội họp đă được đưa vào Hiến pháp ngày 3-9-1791 của nước Pháp. Trong số các quyền tự nhiên và dân sự (droits naturels et civils) mà bản Hiến pháp 1791 của nước Pháp cam kết bảo đảm, ta thấy có ghi: “Tự do cho các công dân được tụ tập một cách ôn ḥa và không vũ khí, với điều kiện đáp ứng đầy đủ các luật lệ của cảnh sát”.
Mặc dù được Hiến pháp công nhận, quyền tự do hội họp ở Pháp đă phải trải qua nhiều giai đoạn gặp khó khăn trong khi thực hiện, thậm chí có lúc c̣n bị cấm đoán. Măi đến khi nền Đệ tam Cộng ḥa (Troisième République) được thiết lập, quyền tự do hội họp mới được bảo đảm vững chắc bằng một đạo luật. Luật về tự do hội họp (Loi sur la liberté de réunion) được ban hành vào ngày 30-6-1881. Điều 1 của Luật này quy định: “ Các cuộc hội họp công cộng hoàn toàn tự do. Chúng có thể diễn ra không cần có sự cho phép trước đó…”. Mặc dù cho phép người dân được tự do hội họp không cần phải xin giấy phép, Luật này đ̣i hỏi phải có sự khai báo (déclaration) trước khi hội họp. Măi đến năm 1907, việc khai báo mới bị hủy bỏ.
Tại Hoa Kỳ, quyền tự do hội họp (freedom of assembly) chưa xuất hiện trong Bản Tuyên ngôn Độc lập (U.S. Declaration of Independence) năm 1776 cũng như trong bản văn chính của Hiến pháp Hoa Kỳ (được thông qua năm 1787 và được phê chuẩn trên quy mô toàn quốc vào năm 1788). Nhưng đến năm 1791, quyền tự do hội họp đă được các nhà lập pháp đưa vào 10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ – thường được gọi chung là Đạo luật về Quyền (Bill of Rights).
Tu chính án số 1 (1st Amendment) có nội dung như sau: “Quốc hội sẽ không làm ra bất cứ đạo luật nào nhằm chính thống hóa một tôn giáo hay ngăn cấm việc tự do thực hành của một tôn giáo, (cũng không làm ra bất cứ đạo luật nào) để hạn chế quyền tự do ngôn luận, hay tự do báo chí, hay quyền của người dân được hội họp một cách ôn ḥa và được kiến nghị lên chính quyền để sửa chữa những điều gây bất b́nh.”
Cũng dựa trên tinh thần đó, vào năm 1948, điều 20 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) của Liên Hiệp Quốc ghi rơ: “(1) Mọi người có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ḥa b́nh (2) Không ai có thể bị bắt buộc phải gia nhập vào một hiệp hội nào.”
Ngày nay, ở bất cứ quốc gia dân chủ nào, quyền tự do hội họp cũng là một trong những quyền căn bản của người công dân được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, khác với các cuộc hội họp b́nh thường, biểu t́nh là hội họp ngoài trời, ở nơi công cộng cho nên luật pháp thường quy định những giới hạn để tránh gây trở ngại đến trật tự công cộng, an ninh chung của xă hội.
Có thể lấy ví dụ từ nước Đức. Điều 8 của Luật cơ bản (Basic Law, Grundgesetz, tức Hiến pháp của nước Đức) quy định công dân có quyền hội họp một cách ôn ḥa và không có vũ khí, không cần báo trước hay xin phép trước. “Đối với các cuộc hội họp ngoài trời (open-air meetings), quyền này có thể bị hạn chế hoặc phải dựa theo một đạo luật”. Luật hội họp (Assembly Law) của nước Đức quy định: bất cứ người nào có kế hoạch tổ chức một cuộc họp ngoài trời đều phải đăng kư trước và phải khai báo về bản chất của sự kiện (event), phải ghi rơ tên của người chịu trách nhiệm lănh đạo cuộc biểu t́nh hay mít-tinh. Cơ quan có thẩm quyền có thể cho phép sự kiện được diễn ra theo dự kiến hay ngược lại, ra lệnh cấm nếu xét thấy sự kiện này có thể gây nguy hiểm tức thời cho an ninh hay trật tự công cộng. Trong trường hợp bị cấm hội họp ngoài trời, những người dự định tổ chức biểu t́nh có thể kiện lên Ṭa án Hành chính cấp bang và sau đó, có thể kháng cáo lên Ṭa án cấp trên (Ṭa án Hành chính Tối cao cấp bang hay Ṭa án Hiến pháp Liên bang)(1).
Biểu t́nh là ôn ḥa hay bạo động?
Bản tin của Thông Tấn Xă Việt Nam về các cuộc biểu t́nh ngày 5-6-2011 đă đánh giá rằng tin tức trên “một số phương tiện truyền thông ở ngoài nước” về “các cuộc biểu t́nh phản đối Trung Quốc” là “thông tin sai sự thật”. Thay v́ gọi đó là các “cuộc biểu t́nh” hay “tuần hành”, bản tin nói trên cho rằng chỉ có “một số ít người đă tự phát tụ tập, đi ngang qua Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng Lănh sự quán Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh để thể hiện tinh thần yêu nước…”
Vào ngày 16-6, ông Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ – Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam đă giải thích như sau:
“Sự việc mà độc giả nêu kỳ thực là do một số người dân Thủ đô Hà Nội và TP HCM bất b́nh trước sự việc tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Binh Minh 02. Sự việc này gây ra bức xúc, theo tôi sự phản đối và t́nh cảm này rất dễ hiểu. V́ người dân của ḿnh, nhất là người trẻ đă họp nhóm lại tập trung trước cổng lănh sự quán Trung Quốc ở Sài G̣n và Hà Nội nhưng có tổ chức, rất trật tự và ôn ḥa. Thậm chí nhiều người có khẩu hiệu phản đối hành động của Trung Quốc bằng giấy A4 nhưng với thái độ b́nh tĩnh.
Tôi cho rằng cách đưa tin như thế là được. C̣n việc ai đó quan niệm sự việc đó là biểu t́nh là quyền của người ta, chúng ta không tranh căi. Theo tôi th́ đó là hành động người Việt Nam biểu thị ḷng yêu nước, ḷng tự tôn dân tộc và phản đối nước ngoài đối với quyền chủ quyền của ḿnh. Bản chất sự việc là như thế. C̣n TTXVN và một số báo đưa tin tụ tập đông người… đây là việc không nên tranh căi, bởi v́ các cơ quan chức năng cho biết không có một hành động quá khích nào.”(2)
Như vậy là theo ông Tiến sĩ này, những hành động như “họp nhóm lại tập trung trước cổng lănh sự quán Trung Quốc” nhưng “có tổ chức, rất trật tự và ôn ḥa”, “phản đối…với thái độ b́nh tĩnh”, “không có hành động quá khích nào” th́ không thể gọi là “biểu t́nh”. Ông c̣n lư sự: “C̣n việc ai đó quan niệm sự việc đó là biểu t́nh là quyền của người ta, chúng ta không tranh căi.”
Vậy th́ biểu t́nh là ôn ḥa hay quá khích, bất bạo động hay bạo động, trật tự hay mất trật tự?
Luật pháp của nước Pháp phân biệt biểu t́nh (manifestation) với tụ tập gây náo loạn (attroupement) – một thuật ngữ pháp lư đặc biệt. Theo định nghĩa tại điều 431-3 của Luật h́nh sự (Code pénal), “tụ tập gây náo loạn” là “tất cả các cuộc tập hợp của nhiều người trên đường đi công cộng hay trong một địa điểm công cộng có thể gây xáo trộn cho trật tự công cộng”. Một cuộc tụ tập gây náo loạn có thể bị lực lượng giữ ǵn trật tự giải tán sau hai lần ra lệnh giải tán mà không có hiệu quả(3).
Cần lưu ư là trong bản dịch tiếng Anh, attroupement được dịch là “unlawful assembly” (tụ tập bất hợp pháp). Như vậy, “tụ tập gây náo loạn” là hành động phi pháp, trong khi biểu t́nh (manifestation) là hoạt động hợp pháp. Theo quy định của sắc lệnh-luật (décret-loi) ngày 23-10-1935, mặc dù không cần phải xin giấy phép nhưng những người tổ chức biểu t́nh phải khai báo trước (déclaration préalable) theo đúng thủ tục(4).
Trong tiếng Anh, người ta cũng phân biệt rất rơ biểu t́nh (demonstration) với tụ tập bạo động (riot). Từ điển Longman định nghĩa tụ tập bạo động (riot) như sau: “một t́nh huống mà một số đông người cư xử theo cách dùng bạo lực và không bị kiềm chế, đặc biệt là khi đám đông phản kháng về một điều ǵ đó”. Động từ tụ tập bạo động (to riot) càng nói rơ hơn về điều này: “nếu một đám đông người tụ tập bạo động, họ hành xử theo cách dùng bạo lực và không bị kiềm chế, ví dụ như chống lại cảnh sát và gây hư hại cho xe cộ hay các ṭa nhà”.
Trong cụm từ “quyền của người dân được tụ tập một cách ôn ḥa” (the right of the people peaceably to assemble) của Tu chính án số 1, các nhà lập pháp ở Hoa Kỳ đă sử dụng một từ bổ nghĩa “peaceably” (một cách ôn ḥa) để nhấn mạnh rằng hiến pháp chỉ bảo đảm quyền tự do hội họp khi quyền này được thực hiện một cách ôn ḥa. Nói cách khác, nếu một nhóm người tập hợp để khởi sự một cuộc tụ tập để phá rối trật tự hoặc gây bạo động để lật đổ chính quyền, họ không thể dựa vào một quyền được bảo đảm bởi Hiến pháp.
Ngày nay, nhằm để ngăn ngừa các cuộc tụ tập phá rối, tụ tập bạo động, bạo loạn do những thành phần cực đoan của cánh tả hoặc cánh hữu gây ra, các quốc gia dân chủ đă thành lập lực lượng cảnh sát chống bạo động (riot police) (5). Cùng với việc h́nh thành lực lượng này là các loại vũ khí không sát thương (non-lethal weapons) hay ít sát thương (less-lethal weapons): lựu đạn cay, đạn cao su, ṿi rồng, v.v… Mục đích là giải tán đám đông nhưng tránh gây thương vong. Chỉ có chính quyền tại các quốc gia phi-dân chủ hay dân chủ giả hiệu mới sử dụng biện pháp chống bạo động một cách tùy tiện: như dùng súng bắn đạn thật, thậm chí cả xe tăng, để bắn vào những người dân biểu t́nh ôn ḥa (Vụ đàn áp tại Quảng trường Thiên An Môn – Bắc Kinh, 3 và 4-6-1989). Ở nước ta, có nơi c̣n dùng “cảnh sát cơ động” để giải tán những người dân oan tụ tập khiếu kiện trước các trụ sở tiếp dân, thậm chí giải tỏa nhà và chiếm đất của dân để cấp cho các vị quan chức.
Như vậy, dưới các chế độ dân chủ được mệnh danh là “tư sản”, biểu t́nh không phải là tụ tập gây bạo loạn nhằm gây mất trật tự công cộng hay lật đổ chế độ. Biểu t́nh là một quyền được hiến pháp và pháp luật bảo hộ. Chính phủ ở các nước này không thể viện cớ ngăn ngừa bạo loạn, lật đổ để bác bỏ quyền tự do hội họp, biểu t́nh, tuần hành của người dân. Ngược lại, trong các quốc gia cộng sản, phát-xít hay độc tài Hồi giáo, chính quyền luôn viện cớ ngăn ngừa bạo loạn, lật đổ để ngăn cấm mọi h́nh thức tụ tập, kể cả biểu t́nh hay hội họp ôn ḥa.
Việc những người có thẩm quyền như ông Tiến sĩ Phó Trưởng ban Tuyên giáo nói trên quan niệm một cách sai lệch về biểu t́nh cho thấy dưới chế độ cộng sản, không có sự phân biệt giữa biểu t́nh ôn ḥa và tụ tập bạo động và cũng không hề tôn trọng quyền biểu t́nh và tự do hội họp của người dân. Chế độ toàn trị biến biểu t́nh thành hai chữ cấm kỵ, đặt khái niệm biểu t́nh vào phạm trù “vấn đề nhạy cảm”, cho dù những người sáng lập nên chế độ toàn trị hiện nay cũng chính là những người xưa kia đă từng đi đầu trong việc đấu tranh đ̣i hỏi thực hiện quyền “biểu t́nh”.
Điều mỉa mai là trong khi báo chí nước ngoài (kể cả các kênh truyền h́nh như BBC của Anh, NHK của Nhật Bản,…) cũng như báo chí “lề trái” đă tŕnh bày biết bao tin tức và h́nh ảnh phong phú, sinh động về các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc ở hai đầu đất nước th́ hơn 700 tờ báo trong nước vẫn không dám nhắc đến hai chữ “biểu t́nh”. Điều đó nói lên thực chất của cái-gọi-là “quyền tự do báo chí” trong một chế độ tự xưng là “dân chủ gấp triệu lần so với nền dân chủ tư sản”!
Biểu t́nh là quyền của công dân hay là quyền của Nhà nước?
Vào ngày 5-6-2011, giữa lúc các cuộc biểu t́nh nổ ra tại quốc nội th́ Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đang tham dự diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La tại Singapore. Trả lời phỏng vấn đài BBC, ông cho biết đă nhận được thông tin về các cuộc biểu t́nh qua điện thoại. Ông thừa nhận: “”Cuộc tuần hành theo tôi được biết đã diễn ra bình tĩnh, trật tự, không cản trở giao thông và cũng không mang các biểu ngữ mang tính kích động.” Mặc dù vậy, ông vẫn cho rằng: “Đây là hành động tự phát của người dân” và tâm sự với đài BBC rằng theo “quan điểm của riêng ông”, các hoạt động biểu tình như trên là “không nên, dù đây là bắt nguồn từ lòng yêu nước”.(6)
Sự lo ngại của Tướng Vịnh không phải là vô cớ. Muốn biết rơ tại sao các nhà lănh đạo Đảng cộng sản Việt Nam lại lo ngại về các cuộc “biểu t́nh”, có lẽ chúng ta phải t́m hiểu những phản ứng từ phía Trung Quốc.
Người bộc lộ ư kiến rơ ràng nhất về vấn đề này có lẽ là ông Tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh thuộc Viện Luật pháp Quốc tế thuộc Đại học Khoa học Xã hội Trung Quốc. Trả lời đài BBC, ông này nhận định: “Tôi cho là nếu không có việc chính phủ bật đèn xanh, thì biểu tình không thể xảy ra được ở Việt Nam. Hãy nhớ sau các cuộc biểu tình cuối năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã cố gắng ngăn chặn biểu tình như thế nào.” Chẳng những tỏ ra bực bội về các cuộc biểu t́nh, ông ta c̣n lên giọng khuyến cáo: “Quan điểm của tôi là các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông phải được dàn xếp một cách hòa bình giữa hai nhà nước, thông qua thương lượng. Những cuộc biểu tình như vừa qua sẽ không giúp ích gì cho tiến trình này.”(7)
Như vậy, ở cả hai phía – Việt Nam lẫn Trung Quốc – quan niệm chính thống vẫn cho rằng biểu t́nh không phải là quyền của người dân. Chính v́ vậy, khi biểu t́nh xảy ra, một bên (Trung Quốc) cho rằng biểu t́nh là do Nhà nước (Việt Nam) xúi giục, bật đèn xanh, c̣n bên kia (Nhà nước Việt Nam) t́m cách thoái thác trách nhiệm, sợ đối phương chê trách hay trừng phạt ḿnh về việc “bật đèn xanh” cho các cuộc biểu t́nh.
Như phần trên đă tŕnh bày, trong các quốc gia dân chủ, biểu t́nh là quyền của công dân, Nhà nước có trách nhiệm ban hành luật pháp để người dân thực thi quyền đó. Nhà nước không chịu trách nhiệm về nội dung của các cuộc biểu t́nh. Nhưng chế độ chính trị ở Việt Nam và ở Trung Quốc đều là chế độ toàn trị (totalitarianism, totalitarisme), toàn bộ xă hội dân sự đều bị Đảng cộng sản kiểm soát, khống chế. Biểu t́nh của người dân bị triệt tiêu, toàn bộ các cuộc hội họp, mít-tinh, biểu t́nh,… đều do các đoàn thể của Đảng đứng ra tổ chức và được Nhà nước giám sát chặt chẽ nhằm phục vụ cho ư đồ, mong muốn của người cầm quyền. Chính v́ thế khi xảy ra biểu t́nh, phía Trung Quốc mới có cớ để trách móc, quy trách nhiệm cho Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Nếu chế độ chính trị ở Việt Nam là một chế độ dân chủ th́ quyền biểu t́nh và tự do hội họp được bảo đảm. Trong trường hợp đó, không thể xảy ra trường hợp chính phủ của Trung Quốc có quyền trách cứ chính phủ Việt Nam rằng “tại sao để cho người dân biểu t́nh làm ảnh hưởng đến t́nh hữu nghị của nhân dân hai nước?”. Nhất là khi t́nh hữu nghị ấy chỉ là một “huyền thoại”, một “chiêu bài” để che giấu mối quan hệ “thực dân mới – thuộc địa kiểu mới” trong thực tế.
Xem ra việc tước đoạt quyền biểu t́nh và tự do hội họp của người dân lại gián tiếp có lợi cho chính sách bành trướng của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Một khi nhân dân mất tự do, phía Trung Quốc chỉ cần khống chế hay mua chuộc một số hay phần lớn các ủy viên Bộ Chính trị là có thể khống chế được toàn bộ dân tộc Việt Nam.