PDA

View Full Version : Nhà thầu Việt: Bao giờ thôi 'phận làm thuê'?


adams
06-26-2011, 23:33
Nghiên cứu về các gói thầu EPC những năm gần đây cho thấy, hầu hết công tŕnh xây dựng trọng điểm phát triển kinh tế xă hội của đất nước đều là các nhà thầu nước ngoài thắng thầu. Có tới 90% công tŕnh điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim và hóa chất của Việt Nam đều do Trung Quốc đảm nhận. Hệ quả, nhà thầu Việt chỉ là “kẻ làm thuê" ngay tại nhà ḿnh, c̣n các chủ đầu tư đôi khi phải ngậm ngùi ôm “trái đắng”.

Những hệ lụy khó lường

Trong những năm qua, có đến 30 doanh nghiệp Trung Quốc tham gia làm tổng thầu EPC hoặc đối tác đầu tư cho 41 dự án ở Việt Nam.

Nếu tính cụ thể từ năm 2003 đến nay cũng có khoảng 13 dự án do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, chiếm 30% công suất toàn ngành điện. Ngành hóa chất có 6 dự án th́ hết 5 do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, chiếm 83%. Và hiện tại, với hai dự án chế biến khoáng sản (tổ hợp Bô-xít – nhôm Lâm Đồng và dự án Alumin Nhân Cơ – Đăk Nông) th́ cả hai đều do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, chiếm 100%.


http://tamnhin.net/Uploaded/vanthangnguyen/Images/tamnhin/nhiet%20dien%20hai%2 0phong%201%202%20nam .jpg


Nhà máy nhiệt điện Hải Pḥng 1 chậm tiến độ 2 năm cũng do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC


C̣n trong tổng số các dự án xi măng, với 62 dây chuyền th́ đã có 49 dây chuyền của Trung Quốc, chiếm 79%; về công suất chiếm 49,6%. Trong số 49 dây chuyền của Trung Quốc có 26 dây chuyền EP, chiếm 53% và 23 dây chuyền EPC, chiếm 27%. Sau năm 2009, tỉ lệ các dự án xi măng của Trung Quốc đă lên tới 80% tổng số dự án của các thành phần kinh tế. Đầu tư theo h́nh thức EP là chủ yếu.

Thế nhưng, phần lớn các dự án do nhà thầu nước ngoài làm tổng thầu EPC chủ yếu là Trung Quốc thường bị kéo dài thời gian xây dựng, chậm tiến độ bàn giao so với hợp đồng. Các dự án này chậm từ 3 tháng đến 2 hoặc 3 năm. Chậm nhất như dự án Nhà máy sản xuất phân bón DAP Đ́nh Vũ, Hải Pḥng của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam khởi công từ ngày 27/7/2003.

Dự án Nhà máy đạm Ninh B́nh sau 20 tháng triển khai cũng chậm 6 tháng; các dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện do ngành than quản lí và chủ đầu tư như Nhiệt điện Cao Ngạn bị chậm 28 tháng, Nhiệt điện Sơn Động chậm 24 tháng, Nhiệt điện Nông Sơn chậm 20 tháng, Nhiệt điện Cẩm Phả 1 chậm 10 tháng, Nhiệt điện Cẩm Phả 2 chậm 3 tháng.

Ngoài ra, chất lượng thiết bị trong gói thầu EPC thường không đồng đều, một số bị thấp, ảnh hưởng đến chất lượng toàn bộ công tŕnh và tiến độ triển khai. Phần lớn thiết bị phụ trợ chất lượng thấp phải thay thế.

Ví dụ, một số trường hợp như bộ phận đuôi hơi Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn; thiết bị phụ và hệ thống thải tro, xỉ dự án Nhiệt điện Sơn Động; đường ống sinh hơi, khóa nhiệt, máy nghiền và hệ thống than của dự án Nhiệt điện Hải Pḥng, Quảng Ninh… quá tŕnh vận hành thử đă bộc lộ những khiếm khuyết ở hệ thống quạt gió, thải xỉ, cấp than…

Bên cạnh đó, khi triển khai h́nh thức tổng thầu, phần thi công công tŕnh là phần sử dụng nhiều lao động, bao gồm cả lao động kĩ thuật cao, lao động có tay nghề và lao động phổ thông. Tuy nhiên, nhiều nhà thầu EPC Trung Quốc không sử dụng lao động Việt Nam, kể cả lao động phổ thông.

Trong đó, nhiều lao động nước ngoài đến làm việc chưa được cấp phép theo quy định của pháp luật. Một số chủ đầu tư chưa chấp hành đúng các quy định về sử dụng đúng lao động nước ngoài, không thực hiện đúng quy định của Chính phủ nêu tại Khoản b, Điều 23, Nghị định 85/2009/ND-CP, ngày 15/10/2009.

Làm ǵ để không “sập bẫy” giá rẻ?

Con số 90% nhà thầu Trung Quốc nắm giữ các dự án về thủy điện, nhiệt điện, xây dựng cơ bản của Việt Nam khiến nhiều người “giật ḿnh”.

Phải chăng chúng ta đang thiếu hệ thống kiểm soát chất lượng như: tiêu chuẩn không đồng bộ, lỗi thời, thiếu các văn bản pháp qui về qui định áp dụng các tiêu chuẩn kiểm soát, kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm...


http://tamnhin.net/Uploaded/vanthangnguyen/Images/tamnhin/trung%20quoc.jpg

Khi nào nhà thầu Việt rũ bỏ "chiếc áo cũ" nhà thầu phụ?

C̣n các nhà thầu Trung Quốc đang lờ đi việc này hay cố t́nh không áp dụng hệ thống kiểm soát chất lượng, để mặc cho chủ đầu tư, hoặc tư vấn giám sát quyết định. Điều này đă tạo cơ hội cho các nhà thầu Trung Quốc vào Việt Nam bỏ thầu với giá thành thấp hơn so với các nhà thầu khác.

Nhưng, các cụ nhà ta vẫn dặn “tiền nào của nấy”. Có lẽ giá rẻ sẽ không hẳn đi đôi với chất lượng tốt. Vậy câu hỏi đặt ra là “chừng nào chủ đầu tư Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước cơ quan có thẩm quyền khi nhận “nhầm” nhà thầu thực hiện những công tŕnh quan trọng của quốc gia?”.

Mặc dù thời gian qua các nhà thầu Trung Quốc ở “thế thượng phong”, nhưng cũng đă và đang bộc lộ những khuyết điểm thấy rơ, gây ảnh hưởng đến nhiều công tŕnh trọng điểm của quốc gia. Đây cũng chính là cơ hội để các nhà thầu trong nước vươn lên khẳng định năng lực của ḿnh. Khi nhà thầu Việt tự nâng cao được sức mạnh của doanh nghiệp, tạo được niềm tin của chủ đầu tư th́ trong tương lai không xa, việc giành lại thị phần các công tŕnh quốc gia sẽ không phải là điều quá khó.

Được biết, ngày 17/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đă ban hành chỉ thị 734/CT-TTg về “Chấn chính công tác quản lí đối với các gói thầu EPC”, quy định việc phân chia các gói thầu EPC thành các gói thầu riêng biệt, không triển khai gói thầu theo h́nh thức EPC khi không thực sự cần thiết.

Theo đó, chủ trương này sẽ tạo điều kiện cho nhà thầu Việt vươn lên mạnh mẽ để thắng thầu, mở đường cho các nhà thầu nội phát huy nội lực, cạnh tranh với các nhà thầu ngoại.

Hơn hết, ngoài việc chờ đợi sự trợ giúp từ phía Nhà nước, bản thân các nhà thầu Việt cần tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ, năng lực tài chính…; tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, qua đó tiếp nhận công nghệ tiên tiến, hiện đại áp dụng vào các gói thầu trọng điểm. Có như vậy nhà thầu Việt mới có thể giành thế chủ động trên “sân nhà”.

Nguyễn Thắng
TamnhinNet