vuitoichat
06-28-2011, 17:59
Tại sao Mĩ không nên để cho tham vọng lănh thổ của Trung Quốc diễn ra không đối kháng.
Nguồn nguy hiểm nhất của sự bất ổn định ở châu Á là một Trung Quốc trổi dậy t́m cách tái khẳng định chính ḿnh, và nơi mà Trung Quốc rất có thể liều lĩnh đi vào một cuộc xung đột quân sự là Biển Đông. Trong thập kỉ thứ hai của thế kỉ 21, vùng biển hiếm khi yên ổn của Biển Đông đang sủi bọt từ một sự kết hợp giữa đua nhau tập trận hải quân và lời qua tiếng lại nóng bỏng. Nhiều học giả, chính trị gia, và đô đốc thấy Biển Đông như là một nơi đua tranh trong tương lai giữa các cường quốc.
Suy đoán về va chạm sắp xảy ra bắt đầu từ Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) Tháng Bảy 2010 khi Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton đưa ra một tuyên bố trễ hạn về quyền lợi của Mĩ ở Biển Đông. Bà Clinton khẳng định rằng Hoa Ḱ có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải ở Biển Đông; rằng Hoa Ḱ ủng hộ một tiến tŕnh hợp tác trong việc giải quyết tranh chấp lănh thổ ở đó, và rằng Hoa Ḱ ủng hộ tuyên bố của ASEAN-Trung Quốc về cách hành xử của các bên ở Biển Đông năm 2002.
Mặc dù tuyên bố ủng hộ của bà Clinton dành cho chính các thỏa thuận riêng của Trung Quốc với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đă đáp trả một cách tiêu cực, nói rằng tuyên bố của bà Bộ trưởng “thực tế là một sự công kích Trung Quốc.” Quân đội Trung Quốc nói rằng họ phản đối “việc quốc tế hóa” tranh chấp của sáu quốc gia và bắt đầu một cuộc tập trận hải quân mới và không b́nh hường ở Biển Đông ngay tuần lễ sau đó.
Đây là cuộc đối đầu trên biển gây ra từ khẳng định của Trung Quốc về chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông và ư đồ thực thi chủ quyền đó. Nhưng nguồn gốc của sự cao ngạo của Trung Quốc là quan điểm của họ về sứ mệnh lịch sử thống trị mọi thứ trên đời. Mở rộng biên giới của Trung Quốc hàng ngàn dặm trên Biển Đông chỉ là một biểu hiện về chính sách của cách nh́n về một trật tự thế giới mới của Trung Quốc. Nhất quán với hệ tư tưởng Hoa vi trung (Sinocentric) của họ, Bắc Kinh tin rằng quyền lực của ḿnh trên các nước láng giềng nhỏ hơn nên bao hàm trong việc xác định chính sách đối ngoại của họ. Sau khi Bà Clinton thách thức yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ biển Đông, theo như tường thuật, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đă trừng mắt nh́n một nhà ngoại giao Singapore và tuyên bố, “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là các nước nhỏ, và đó chỉ là một thực tế”. Nói thêm về quan điểm của Trung Quốc về vị thế của nó đối với các nước, hôm Thứ Hai sau đó Bộ Ngoại giao Trung Quốc đăng một tuyên bố rằng “quan điểm của Trung Quốc đại biểu cho lợi ích của ‘đồng bang châu Á.’”
Nhất quán với hệ tư tưởng Hoa vi trung (Sinocentric) của họ, Bắc Kinh tin rằng quyền lực của ḿnh trên các nước láng giềng nhỏ hơn nên vận dụng vào việc xác định chính sách đối ngoại của họ.
Các tranh chấp chủ quyền lănh thổ ở Biển Nam Trung Hoa đă xảy ra nhiều thập kỉ, nhưng ngày nay chính phủ Trung Quốc đầy cảm giác hoàn thành và Quân đội Giải phóng nhân dân được tuồn cho ngân sách quân sự phát triển nhanh nhất trên thế giới. Tuyên bố của bà Clinton có thể bắt nguồn từ tuyên bố trước đó của đối tác Trung Quốc của bà, ủy viên hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm vấn đề đối ngoại, Đới Bỉnh Quốc, trực tiếp với chính bà Clinton và lặp đi lặp lại với một số phụ tá của Mĩ rằng việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là một “lợi ích cốt lơi ” ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng. Theo tường thuật, trong khi Đới Bỉnh Quốc ngưng sử dụng từ “lợi ích cốt lơi” để mô tả chủ quyền trên biển của Trung Quốc, nhiều nhân vật trong quân đội của Trung Quốc vẫn tiếp tục sử dụng. Tháng 1 năm 2011 trang mạng của tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc, khảo sát độc giả về việc liệu Biển Đông có là “lợi ích cốt lơi” của Trung Quốc hay không, 97 % của gần 4.300 người trả lời là có.
Chưa đến nổi tới một cuộc chiến tranh bắn nhau, bảo vệ tự do hàng hải tại một trong những tuyến đường biển bận rộn nhất của thế giới đ̣i hỏi một giải pháp hoà giải cho các tranh chấp chủ quyền lănh thổ. Bắt đầu một tiến tŕnh để giải quyết hoặc trung hoà hoá các vấn đề sẽ đ̣i hỏi sự lănh đạo của Mĩ và giải quyết. Ngoại giao cương quyết được hỗ trợ bởi sức mạnh hải quân và sự lănh đạo kiên tŕ có thể tạo ra một sự cân bằng trong khu vực để bảo vệ tự do hàng hải, tính toàn vẹn của luật pháp quốc tế, và độc lập và chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á.
Giải pháp tồi tệ nhất cho các tranh chấp Biển Đông theo quan điểm của Mĩ đơn giản là để cho các nước láng giềng ASEAN của Trung Quốc ngầm bằng ḷng với vị thế của Bắc Kinh và để cho toàn bộ Biển Đông trở thành lănh thổ có chủ quyền của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Vị thế này của Bắc Kinh cũng là giải pháp tồi tệ nhất đối với ASEAN và mọi quốc gia có giao thương khác trên hành tinh. Nhưng một giải pháp cũng gần như tồi tệ như vậy là để cho Mĩ trở thành nước can dự vào một cuộc đối đầu song phương với Trung Quốc mà không có sự đồng ư và cam kết về hành động của Mĩ bởi chính các nước duyên hải đang tranh chấp và các nước đồng minh của Mĩ châu Á-Thái B́nh Dương. Nếu không có sự ủng hộ của các liên minh khu vực, Mĩ sẽ vướng vào một chiến dịch ở tận đầu cuối phía xa của đuôi hậu cần của mịnh nhưng lại sâu bên trong tầm tay của một cường quốc lớn và đang trổi dậy.
Giải pháp lí tưởng sẽ là để cho các nước ASEAN phải đứng lên đối lại với Trung Quốc và nhấn mạnh vào một giải pháp đa phương cho các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc của Luật Biển và Quy tắc ứng xử quy định bởi Hiệp ước Thân thiện và Thương mại, mà Trung Quốc đă kí năm 2002. Giải pháp này sẽ không thể thực hiện được trừ khi ASEAN phát triển được các nguồn tài nguyên chính trị kinh tế và quân sự để thách thức ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong ngắn hạn, sự ủng hộ từ Hoa Ḱ và các cường quốc khu vực khác bao gồm Nhật, Ấn Độ, và Australia có thể là một lồng ấp trong khi chờ ASEAN phát triển một khả năng ngăn chặn tại chỗ. Về lâu dài, ASEAN phải tự ḿnh đứng dậy.
ASEAN sẽ miễn cưỡng chấp nhận sự trợ giúp của Mĩ nếu sự trợ giúp này thể hiện như một phần của chính sách điạ chính trị chống Trung Quốc của một cường quốc lớn.Trung Quốc không chỉ là một nước láng giềng của Đông Nam Á, mà c̣n là đối tác thương mại, nhà đầu tư quan trọng nhất của nó, và đôi lúc cũng là đồng minh chính trị. Khẳng định một mối đe dọa Trung Quốc và yêu cầu các nước ASEAN tham gia vào một liên minh chống Trung Quốc là một công thức cho sự thất bại về chính sách. Thay vào đó, Hoa Ḱ phải diễn giải thành một tầm nh́n cho các quốc gia châu Á tương phản với việc áp đặt lại quyền bá chủ Trung Quốc khi xưa. Tầm nh́n đó phải bao gồm các nguyên tắc truyền thống của phương Tây về thương mại mở, độc lập chính trị, và chủ quyền lănh thổ.
VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
Sáu nước tuyên bố các đảo của biển Nam Trung Hoa: Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei. Trung Quốc và Đài Loan (chính phủ hai nước ḱnh địch của “Trung Hoa”) đ̣i chủ quyền Biển Đông dựa trên các vật phẩm văn hóa, những ám chỉ văn chương mơ hồ, và việc chiếm đóng hoàn toàn. Việt Nam cũng đ̣i chủ quyền tất cả các đảo trong Biển Đông chủ yếu dựa trên các tài liệu lịch sử, trên việc từ bỏ chủ quyền sau chiến tranh của Nhật Bản đối với các đảo ở biển Đông, và trên sự thừa kế những di sản thực dân Pháp đối với một số một số đảo nhỏ then chốt ở biển Đông. Philippines, Malaysia, và Brunei đ̣i chủ quyền tất cả hay một phần vạt biển phía Nam của quần đảo Trường Sa phần lớn dựa trên các vùng đăc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa tương ứng. Theo UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế trải dài 200 hải lí từ đường mức triều thấp trên bờ biển của một quốc gia. Trung Quốc công bố bản đồ của Biển Đông cho thấy một đường đứt khúc trải rộng thẳng tới EEZ của đảo Natuna của Indonesia, do đó có khả năng mở rộng số lượng các bên tranh chấp mâu thuẫn nhau lên đến bảy.
Đó không phải là một vấn đề pháp lí phức tạp, nhưng là một mối đe dọa gần và nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu và hệ sinh thái khu vực. Các tuyến giao thông qua Biển Đông nối châu Âu và châu Á, làm cho Biển Đông thành một trong những đường biển nhộn nhịp nhất trong các tuyến đường thủy trên thế giới. Gần một nửa vận chuyển đường biển của thế giới đi qua đó, và một tỉ lệ đáng kể dầu mỏ phía đông bắc châu Á từ Trung Đông. Biển Đông cũng giàu hydrocarbon ở nhiều dạng khác nhau, và việc khai thác đầy đủ các tài nguyên này đang bị ḱm hăm do ranh giới chưa được giải quyết và do có đe dọa quân sự trắng trợn. Cuối cùng, do đánh bắt quá mức, có một sự suy giảm rơ rệt trong tổng số cá bắt được đă khiến ngư dân sử dụng các kĩ thuật tích cực hơn. Khi không có thỏa thuận đa phương để điều chỉnh việc đánh bắt cá ở Biển Đông, ngành công nghiệp đánh bắt cá và sinh thái biển sẽ nhanh chóng đi tới thảm hoạ.
Tranh chấp Biển Đông không phải là vấn đề pháp lí phức tạp nhưng là mối đe dọa nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu và hệ sinh thái khu vực.
Đ̣i hỏi củaTrung Quốc. Tất cả các nước nguyên đơn biện minh cho tuyên bố lănh thổ tương ứng của họ bằng cách sử dụng các định nghĩa diễn giải sâu các điều khoản UNCLOS. Tuy nhiên, chỉ có Trung Quốc biểu hiện sự kết hợp giữa đ̣i hỏi chủ quyền rộng về lănh thổ, sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự, môt lập trường ngoại giao không khoang nhượng cùng với thái độ hung hăng lộ rơ trong việc theo đuổi mục tiêu của nước này. Sự kết hợp độc nhất những đặc điểm này lập tức làm cho Bắc Kinh thành tay chơi quan trọng nhất trong việc giải quyết tranh chấp lănh thổ và là trở ngại lớn nhất để làmviệc này.
Khi thảo luận hướng về ngoại giao và một giải pháp giải đàm phán cho tranh chấp, Bắc Kinh vẫn luôn lưu ư tất cả các nước nguyên đơn khác rằng Biển Đông là lănh thổ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và từ chối đàm phán trừ khi các bên chấp nhận chủ quyền không thể chối căi của Trung Quốc. Đến nay, chiến thuật của Trung Quốc là chỉ tham gia các cuộc đàm phán song phương và né tránh việc phân xử khách quan thông qua các thủ tục của UNCLOS hoặc bất ki phe bên ngoài nào. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đưa ra các tuyên bố và cung cấp các định nghĩa diễn giải sâu làm phức tạp quá mức tiến tŕnh giải quyết tranh chấp và đặt Trung Quốc vào một cuộc đối đầu với phần c̣n lại của thế giới đi lại trên biển.
Thềm lục địa và tính phi thực tế của việc vẽ ranh giới cho các nước ven biển với bờ biển phức tạp và ḷi lơm thái quá như Na Uy, hoặc cho các quốc gia quần đảo, như Philippines hay Indonesia, đă được công nhận trong các điều khoản của UNCLOS như Điều 7 (“đường cơ sở thẳng”), Điều 47 (“đường cơ sở quần đảo”), và các Điều 76 và 77 (“Thềm lục địa”). Những điều khoản này cho phép các nước vẽ đường biên giới thẳng qua các chỗ ven biển và các hải đảo có địa h́nh phức tạp hoặc gần nhau, miễn là chúng không ảnh hưởng với thông lệ tự do hàng hải. Tuy nhiên, Bắc Kinh mở rộng định nghĩa của những điều khoản này bằng cách áp dụng chúng cho các đảo và vùng biển mà họ đ̣i chủ quyền.
Uỷ ban Thường vụ của Quốc hội Nhân dân đă thông qua “Luật về lănh hải và khu vực tiếp giáp” (Luật lănh hải) ngày 25 tháng hai năm 1992. Luật này không xác định rơ ràng đ̣i hỏi chính xác về lănh thổ của Trung Quốc, nhưng nó khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, Trung Quốc đă công bố một bản đồ cho thấy toàn bộ Biển Đông từ đảo Hải Nam cho đến đảo Natuna của Indonesia nằm trong một ṿng kín xem như lănh hải của ḿnh. Năm 1993, bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc trấn an bằng lời với đối tác Indonesia rằng đảo Natuna đông dân cư và quan trọng về kinh tế quan trọng không bị Trung Quốc đ̣i giành chủ quyền đâu, nhưng kể từ đó Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức xác nhận tuyên bố không chính thức đó.
Theo UNCLOS và thông lệ quán quốc tế, “lănh hải” kéo dài 12 hải lí từ đường vạch mức triều thấp dọc theo bờ biển của một quốc gia. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh kí kết UNCLOS họ đưa vào thêmncác tuyên bố nói rằng các định nghĩa đă được quy định về lănh hải và quyền của quốc gia ven biển khác với các định nghĩa nêu trong UNCLOS. Trong số những điều khác, Trung Quốc tuyên bố rằng:
1. Theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí và thềm lục địa.
2. Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc sẽ thực hiện, thông qua tham vấn, việc phân định ranh giới về quyền tài phán trên biển với các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp giáp với Trung Quốc, tương ứng, trên cơ sở luật pháp quốc tế và phù hợp với nguyên tắc công bằng.
3. Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với tất cả các quần đảo và đảo liệt kê trong Điều 2 của Luật của nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa về Lănh hải và vùng tiếp giáp, được ban hành ngày 25 tháng 2 năm 1992.
4. Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc tái khẳng định rằng các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển liên quan đến việc qua lại thông thường (innocent passage) qua lănh hải không làm phương hại đến quyền của một quốc gia ven biển đ̣i hỏi, theo luật pháp và các quy định của quốc gia đó, một nhà nước nước ngoài phải có được sự chấp thuận trước hoặc thông báo trước cho các quốc gia ven biển về sự di chuyển của tàu chiến của ḿnh qua lănh hải của quốc gia ven biển.
Những tuyên bố này thay đổi một cách cốt lỏi ư nghĩa của các điều khoản UNCLOS và trái ngược hẳn với luật biển truyền thống. Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của họ không chỉ là một ranh giới kinh tế mà lănh thổ có chủ quyền, do đó mở rộng biên giới biển ra xa 200 hải lí. Bắc Kinh cũng tuyên bố rằng các đảo không có người ở và các rạn san hô của Biển Đông là lănh thổ Trung Quốc, và do đó, cũng có các vùng đặc quyền kinh tế trải rộng thêm hơn 200 hải lí từ mỗi đảo, và thềm lục địa của nó trải rộng ra xa tới mức như Bắc Kinh chọn để vẽ nó. Cuối cùng, các tuyên bố này mở rộng rất nhiều đặc quyền của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia ven biển qua việc nhấn mạnh rằng tàu chiến qua lại b́nh thường trước tiên phải được sự cho phép của Trung Quốc, một lần nữa vi phạm của cả UNCLOS lẫn luật biển truyền thống.
Bắc Kinh cũng tuyên bố rằng các đảo không có người ở cũng có vùng đặc quyền kinh tế.
Vị thế của chính phủ Trung Quốc đă tác động trực tiếp đến các nền kinh tế trong vùng, tự do hàng không và tàu bè của toàn cầu và của lực lượng hải quân và không quân Mĩ. Nếu Trung Quốc được quyền thực thi chủ quyền đối với Biển Đông th́ tàu buôn đi qua vùng biển đó, dù mang cờ ǵ, cũng sẽ phải chịu ràng buộc bởi pháp luật và các quy định của Trung Quốc và bất ḱ khoản phí, thuế hoặc hạn chế khác mà Trung Quốc có thể chọn để áp đặt. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ có đặc quyền khai thác cá tôm, khoáng sản trên biển mà các nước ven biển khác phụ thuộc vào cho một phần thu nhập đáng kể tài nguyên thiên nhiên của họ. Cuối cùng, Trung Quốc nhấn mạnh rằng bất cứ tàu chiến đi qua Biển Đông trước hết phải được sự cho phép làm vô hiệu quyền của tàu chiến nước ngoài tiến hành việc đi lại b́nh thường. Hơn nữa, các tàu chiến đi qua vùng lănh hải chịu những hạn chế nghiêm trọng áp dụng trên các hoạt động của ḿnh.
Những hạn chế này, nếu áp dụng cho toàn bộ Biển Đông, sẽ hạn chế nghiêm trọng hoạt động của Hải quân Mĩ và cản trở khả năng bảo vệ việc vận chuyển đường biển của Mĩ và quốc tế. Hơn nữa, dựa trên vị thế của Trung Quốc có thể thấy rằng tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Ḱ về hoạt động của máy bay do thám EP-3 gần đảo Hải Nam tháng Tư năm 2001; nh́ều hành động sách nhiễu chống lại các tàu Mĩ USNS Impeccable và Victorious mùa xuân năm 2009 ; vụ va chạm giữa một tàu ngầm Trung Quốc với giàn phát tín hiệu của tàu USNS John McCain tháng Sáu năm 2009, và việc phô trương lực lượng gần đây qua các cuộc tập trận hải quân trong vùng biển Hoàng Hải không phải là những sự cố cô lập, mà là những chương mới nhất trong chiến dịch của Trung Quốc để khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông và cũng có thể là những ṿng đấu đầu tiên trong một trận đấu xô đẩy leo thang giữa Trung Quốc và Hoa Ḱ.
Đ̣i hỏi của Trung Quốc mạnh cỡ nào? Vào thế kỉ thứ 9, một tàu buôn chạy buồm của Ả Rập ch́m ngài khơi đảo Belitung, chỗ hiện nay thuộc lănh hải Indonesia thuộc mảng phía nam của Biển Đông. Con tàu đầy 60.000 hiện vật bằng vàng, bạc, sứ mỏng và rơ ràng phát xuất từ thành phố cảng Quảng Châu ở nam Trung Quốc và hướng tới các thị trường ở Đông Nam Á. Tàu buôn này do ngư dân Indonesia phát hiện vào năm 1998 và hiện được coi là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong khảo cổ học biển.
Xác tàu Belitung này không phải là một tàu buôn Trung Quốc (nhà Đường Trung Quốc đă không có một văn hoá đi biển chuyên nghiệp), nhưng nó là biểu tượng của ư thức hệ Hoa vi trung (Sinocentric) mới vể sự nổi trội của Trung Quốc ở Đông Á. Đ̣i hỏi chủ quyên Biển Đông của Chính phủ Trung Quốc một phần dựa trên các di tích cổ xưa, tiền kim loại, mảnh gốm, và đại loại những thứ như thế mà Trung Quốc vất (xả rác) trên các đảo nhỏ ở Biển Đông. Sự kiện là các hiện vật đó có nh́ều khả năng nhất là không do các thủy thủ Trung Quốc bỏ lại, h́nh như không ảnh hưởng đến các tuyên bố ḱ quặc của Bắc Kinh.
Trung Quốc cũng biện minh cho các tuyên bố của ḿnh về Biển Đông với những bài viết mơ hồ khác nhau cách đây hơn 2.000 năm.
Không thể nào Bắc Kinh chứng minh được rằng người Trung Quốc đă từng thường trú ở các quần Trường Sa hay Hoàng Sa, bởi v́ các đảo này là không thể ở được. Nhiều đảo hoàn toàn hoặc từng lúc bị ch́m dưới nước. Những đảo hầu như khô ráo th́ lại thiếu nguồn nước ngọt, và các địa h́nh thấp này phải luân phiên phô tiếp với các loại gió mùa. Ngày nay, dân số duy nhất trên các hải đảo và các rạn san hô ở đây chỉ là các đơn vị quân đội được duy tŕ ở mức chi phí quân sự to lớn từ các chính phủ tương ứng và những người này phải chịu mức nguy cơ cá nhân cao. Các đảo này hoàn toàn không thể nói là có “một đời sống kinh tế của riêng ḿnh” và do đó không thể sinh ra một vùng đặc quyền kinh tế riêng cho chúng theo Điều 121 của UNCLOS.
Trung Quốc cũng trích dẫn nhiều văn bản lịch sử mơ hồ, đầy nghi vấn, và ngoài lề (off-point) trở ngược hơn 2.000 năm trong nỗ lực lập hồ sơ đ̣i hỏi chủ quyền đối với Biển Đông. Chắc chắn rằng các nhà thám hiểm và ngư dânTrung Quốc đă từng đi thuyền trên Biển Đông trong 2000 năm qua, và một số đă ghi lại những khám phá của họ, nhưng cũng rơ ràng như thế rằng theo truyền thống, Trung Quốc đă xem đảo Hải Nam là tiền đồn cực Nam của nền văn minh của họ, chắc chắn cho đến cuối thế kỉ 19.
Những tài liệu cổ của Trung Quốc không bác bỏ những tuyên bố của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay Indonesia. Có bằng chứng khảo cổ học đáng kể cho thấy rằng những người khu vực Đông Nam Á hiện nay đă từng sống trên những quần đảo này rất lâu trước khi Trung Quốc có sử viết. Nhiều làn sóng di dân đă tới Indonesia và quần đảo Phi Luật Tân xa xưa tới cỡ 250 000 năm. Những giống dân đầu tiên đi thuyền chèo hoặc buồm trên Biển Đông để đi đến nơi mà con cháu của họ đang sống ngày nay. Mặc dù quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa quá nhỏ để cư trú thường xuyên, các dân tộc của tất cả các nước ven biển này đă đánh bắt tôm cá và khai thác kinh tế hai quần đảo đó trước khiTrung Quốc tồn tại.
Đối với các quốc gia ven Biển Đông, đ̣i hỏi chủ quyền của Trung Quốc tương tự như một trong những hàng xóm của bạn tuyên bố rằng toàn bộ đường phố trước nhà của bạn là tài sản cá nhân của anh ta. Hơn nữa, anh ta c̣n cho rằng vỉa hè, lối lái xe vào nhà của bạn, và sân trước đến tận trước cửa nhà bạn cũng thuộc về anh ta. Các bảo vệ có vũ trang của anh ta đậu xe trên lối vào nhà bạn và anh ta bẽ hoa ở vườn bạn. Nếu bạn hay người hàng xóm của bạn phản đối, anh ta phủ nhận tính hợp lệ của chủ quyền của bạn và từ chối giải quyết ở ṭa án. Nếu ai đó nằng ń về về quyền sở hữu của ḿnh th́ các bảo vệ của anh ta sẽ đánh người đó.
Nguồn nguy hiểm nhất của sự bất ổn định ở châu Á là một Trung Quốc trổi dậy t́m cách tái khẳng định chính ḿnh, và nơi mà Trung Quốc rất có thể liều lĩnh đi vào một cuộc xung đột quân sự là Biển Đông. Trong thập kỉ thứ hai của thế kỉ 21, vùng biển hiếm khi yên ổn của Biển Đông đang sủi bọt từ một sự kết hợp giữa đua nhau tập trận hải quân và lời qua tiếng lại nóng bỏng. Nhiều học giả, chính trị gia, và đô đốc thấy Biển Đông như là một nơi đua tranh trong tương lai giữa các cường quốc.
Suy đoán về va chạm sắp xảy ra bắt đầu từ Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) Tháng Bảy 2010 khi Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton đưa ra một tuyên bố trễ hạn về quyền lợi của Mĩ ở Biển Đông. Bà Clinton khẳng định rằng Hoa Ḱ có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải ở Biển Đông; rằng Hoa Ḱ ủng hộ một tiến tŕnh hợp tác trong việc giải quyết tranh chấp lănh thổ ở đó, và rằng Hoa Ḱ ủng hộ tuyên bố của ASEAN-Trung Quốc về cách hành xử của các bên ở Biển Đông năm 2002.
Mặc dù tuyên bố ủng hộ của bà Clinton dành cho chính các thỏa thuận riêng của Trung Quốc với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đă đáp trả một cách tiêu cực, nói rằng tuyên bố của bà Bộ trưởng “thực tế là một sự công kích Trung Quốc.” Quân đội Trung Quốc nói rằng họ phản đối “việc quốc tế hóa” tranh chấp của sáu quốc gia và bắt đầu một cuộc tập trận hải quân mới và không b́nh hường ở Biển Đông ngay tuần lễ sau đó.
Đây là cuộc đối đầu trên biển gây ra từ khẳng định của Trung Quốc về chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông và ư đồ thực thi chủ quyền đó. Nhưng nguồn gốc của sự cao ngạo của Trung Quốc là quan điểm của họ về sứ mệnh lịch sử thống trị mọi thứ trên đời. Mở rộng biên giới của Trung Quốc hàng ngàn dặm trên Biển Đông chỉ là một biểu hiện về chính sách của cách nh́n về một trật tự thế giới mới của Trung Quốc. Nhất quán với hệ tư tưởng Hoa vi trung (Sinocentric) của họ, Bắc Kinh tin rằng quyền lực của ḿnh trên các nước láng giềng nhỏ hơn nên bao hàm trong việc xác định chính sách đối ngoại của họ. Sau khi Bà Clinton thách thức yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ biển Đông, theo như tường thuật, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đă trừng mắt nh́n một nhà ngoại giao Singapore và tuyên bố, “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là các nước nhỏ, và đó chỉ là một thực tế”. Nói thêm về quan điểm của Trung Quốc về vị thế của nó đối với các nước, hôm Thứ Hai sau đó Bộ Ngoại giao Trung Quốc đăng một tuyên bố rằng “quan điểm của Trung Quốc đại biểu cho lợi ích của ‘đồng bang châu Á.’”
Nhất quán với hệ tư tưởng Hoa vi trung (Sinocentric) của họ, Bắc Kinh tin rằng quyền lực của ḿnh trên các nước láng giềng nhỏ hơn nên vận dụng vào việc xác định chính sách đối ngoại của họ.
Các tranh chấp chủ quyền lănh thổ ở Biển Nam Trung Hoa đă xảy ra nhiều thập kỉ, nhưng ngày nay chính phủ Trung Quốc đầy cảm giác hoàn thành và Quân đội Giải phóng nhân dân được tuồn cho ngân sách quân sự phát triển nhanh nhất trên thế giới. Tuyên bố của bà Clinton có thể bắt nguồn từ tuyên bố trước đó của đối tác Trung Quốc của bà, ủy viên hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm vấn đề đối ngoại, Đới Bỉnh Quốc, trực tiếp với chính bà Clinton và lặp đi lặp lại với một số phụ tá của Mĩ rằng việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là một “lợi ích cốt lơi ” ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng. Theo tường thuật, trong khi Đới Bỉnh Quốc ngưng sử dụng từ “lợi ích cốt lơi” để mô tả chủ quyền trên biển của Trung Quốc, nhiều nhân vật trong quân đội của Trung Quốc vẫn tiếp tục sử dụng. Tháng 1 năm 2011 trang mạng của tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc, khảo sát độc giả về việc liệu Biển Đông có là “lợi ích cốt lơi” của Trung Quốc hay không, 97 % của gần 4.300 người trả lời là có.
Chưa đến nổi tới một cuộc chiến tranh bắn nhau, bảo vệ tự do hàng hải tại một trong những tuyến đường biển bận rộn nhất của thế giới đ̣i hỏi một giải pháp hoà giải cho các tranh chấp chủ quyền lănh thổ. Bắt đầu một tiến tŕnh để giải quyết hoặc trung hoà hoá các vấn đề sẽ đ̣i hỏi sự lănh đạo của Mĩ và giải quyết. Ngoại giao cương quyết được hỗ trợ bởi sức mạnh hải quân và sự lănh đạo kiên tŕ có thể tạo ra một sự cân bằng trong khu vực để bảo vệ tự do hàng hải, tính toàn vẹn của luật pháp quốc tế, và độc lập và chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á.
Giải pháp tồi tệ nhất cho các tranh chấp Biển Đông theo quan điểm của Mĩ đơn giản là để cho các nước láng giềng ASEAN của Trung Quốc ngầm bằng ḷng với vị thế của Bắc Kinh và để cho toàn bộ Biển Đông trở thành lănh thổ có chủ quyền của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Vị thế này của Bắc Kinh cũng là giải pháp tồi tệ nhất đối với ASEAN và mọi quốc gia có giao thương khác trên hành tinh. Nhưng một giải pháp cũng gần như tồi tệ như vậy là để cho Mĩ trở thành nước can dự vào một cuộc đối đầu song phương với Trung Quốc mà không có sự đồng ư và cam kết về hành động của Mĩ bởi chính các nước duyên hải đang tranh chấp và các nước đồng minh của Mĩ châu Á-Thái B́nh Dương. Nếu không có sự ủng hộ của các liên minh khu vực, Mĩ sẽ vướng vào một chiến dịch ở tận đầu cuối phía xa của đuôi hậu cần của mịnh nhưng lại sâu bên trong tầm tay của một cường quốc lớn và đang trổi dậy.
Giải pháp lí tưởng sẽ là để cho các nước ASEAN phải đứng lên đối lại với Trung Quốc và nhấn mạnh vào một giải pháp đa phương cho các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc của Luật Biển và Quy tắc ứng xử quy định bởi Hiệp ước Thân thiện và Thương mại, mà Trung Quốc đă kí năm 2002. Giải pháp này sẽ không thể thực hiện được trừ khi ASEAN phát triển được các nguồn tài nguyên chính trị kinh tế và quân sự để thách thức ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong ngắn hạn, sự ủng hộ từ Hoa Ḱ và các cường quốc khu vực khác bao gồm Nhật, Ấn Độ, và Australia có thể là một lồng ấp trong khi chờ ASEAN phát triển một khả năng ngăn chặn tại chỗ. Về lâu dài, ASEAN phải tự ḿnh đứng dậy.
ASEAN sẽ miễn cưỡng chấp nhận sự trợ giúp của Mĩ nếu sự trợ giúp này thể hiện như một phần của chính sách điạ chính trị chống Trung Quốc của một cường quốc lớn.Trung Quốc không chỉ là một nước láng giềng của Đông Nam Á, mà c̣n là đối tác thương mại, nhà đầu tư quan trọng nhất của nó, và đôi lúc cũng là đồng minh chính trị. Khẳng định một mối đe dọa Trung Quốc và yêu cầu các nước ASEAN tham gia vào một liên minh chống Trung Quốc là một công thức cho sự thất bại về chính sách. Thay vào đó, Hoa Ḱ phải diễn giải thành một tầm nh́n cho các quốc gia châu Á tương phản với việc áp đặt lại quyền bá chủ Trung Quốc khi xưa. Tầm nh́n đó phải bao gồm các nguyên tắc truyền thống của phương Tây về thương mại mở, độc lập chính trị, và chủ quyền lănh thổ.
VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
Sáu nước tuyên bố các đảo của biển Nam Trung Hoa: Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei. Trung Quốc và Đài Loan (chính phủ hai nước ḱnh địch của “Trung Hoa”) đ̣i chủ quyền Biển Đông dựa trên các vật phẩm văn hóa, những ám chỉ văn chương mơ hồ, và việc chiếm đóng hoàn toàn. Việt Nam cũng đ̣i chủ quyền tất cả các đảo trong Biển Đông chủ yếu dựa trên các tài liệu lịch sử, trên việc từ bỏ chủ quyền sau chiến tranh của Nhật Bản đối với các đảo ở biển Đông, và trên sự thừa kế những di sản thực dân Pháp đối với một số một số đảo nhỏ then chốt ở biển Đông. Philippines, Malaysia, và Brunei đ̣i chủ quyền tất cả hay một phần vạt biển phía Nam của quần đảo Trường Sa phần lớn dựa trên các vùng đăc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa tương ứng. Theo UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế trải dài 200 hải lí từ đường mức triều thấp trên bờ biển của một quốc gia. Trung Quốc công bố bản đồ của Biển Đông cho thấy một đường đứt khúc trải rộng thẳng tới EEZ của đảo Natuna của Indonesia, do đó có khả năng mở rộng số lượng các bên tranh chấp mâu thuẫn nhau lên đến bảy.
Đó không phải là một vấn đề pháp lí phức tạp, nhưng là một mối đe dọa gần và nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu và hệ sinh thái khu vực. Các tuyến giao thông qua Biển Đông nối châu Âu và châu Á, làm cho Biển Đông thành một trong những đường biển nhộn nhịp nhất trong các tuyến đường thủy trên thế giới. Gần một nửa vận chuyển đường biển của thế giới đi qua đó, và một tỉ lệ đáng kể dầu mỏ phía đông bắc châu Á từ Trung Đông. Biển Đông cũng giàu hydrocarbon ở nhiều dạng khác nhau, và việc khai thác đầy đủ các tài nguyên này đang bị ḱm hăm do ranh giới chưa được giải quyết và do có đe dọa quân sự trắng trợn. Cuối cùng, do đánh bắt quá mức, có một sự suy giảm rơ rệt trong tổng số cá bắt được đă khiến ngư dân sử dụng các kĩ thuật tích cực hơn. Khi không có thỏa thuận đa phương để điều chỉnh việc đánh bắt cá ở Biển Đông, ngành công nghiệp đánh bắt cá và sinh thái biển sẽ nhanh chóng đi tới thảm hoạ.
Tranh chấp Biển Đông không phải là vấn đề pháp lí phức tạp nhưng là mối đe dọa nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu và hệ sinh thái khu vực.
Đ̣i hỏi củaTrung Quốc. Tất cả các nước nguyên đơn biện minh cho tuyên bố lănh thổ tương ứng của họ bằng cách sử dụng các định nghĩa diễn giải sâu các điều khoản UNCLOS. Tuy nhiên, chỉ có Trung Quốc biểu hiện sự kết hợp giữa đ̣i hỏi chủ quyền rộng về lănh thổ, sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự, môt lập trường ngoại giao không khoang nhượng cùng với thái độ hung hăng lộ rơ trong việc theo đuổi mục tiêu của nước này. Sự kết hợp độc nhất những đặc điểm này lập tức làm cho Bắc Kinh thành tay chơi quan trọng nhất trong việc giải quyết tranh chấp lănh thổ và là trở ngại lớn nhất để làmviệc này.
Khi thảo luận hướng về ngoại giao và một giải pháp giải đàm phán cho tranh chấp, Bắc Kinh vẫn luôn lưu ư tất cả các nước nguyên đơn khác rằng Biển Đông là lănh thổ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và từ chối đàm phán trừ khi các bên chấp nhận chủ quyền không thể chối căi của Trung Quốc. Đến nay, chiến thuật của Trung Quốc là chỉ tham gia các cuộc đàm phán song phương và né tránh việc phân xử khách quan thông qua các thủ tục của UNCLOS hoặc bất ki phe bên ngoài nào. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đưa ra các tuyên bố và cung cấp các định nghĩa diễn giải sâu làm phức tạp quá mức tiến tŕnh giải quyết tranh chấp và đặt Trung Quốc vào một cuộc đối đầu với phần c̣n lại của thế giới đi lại trên biển.
Thềm lục địa và tính phi thực tế của việc vẽ ranh giới cho các nước ven biển với bờ biển phức tạp và ḷi lơm thái quá như Na Uy, hoặc cho các quốc gia quần đảo, như Philippines hay Indonesia, đă được công nhận trong các điều khoản của UNCLOS như Điều 7 (“đường cơ sở thẳng”), Điều 47 (“đường cơ sở quần đảo”), và các Điều 76 và 77 (“Thềm lục địa”). Những điều khoản này cho phép các nước vẽ đường biên giới thẳng qua các chỗ ven biển và các hải đảo có địa h́nh phức tạp hoặc gần nhau, miễn là chúng không ảnh hưởng với thông lệ tự do hàng hải. Tuy nhiên, Bắc Kinh mở rộng định nghĩa của những điều khoản này bằng cách áp dụng chúng cho các đảo và vùng biển mà họ đ̣i chủ quyền.
Uỷ ban Thường vụ của Quốc hội Nhân dân đă thông qua “Luật về lănh hải và khu vực tiếp giáp” (Luật lănh hải) ngày 25 tháng hai năm 1992. Luật này không xác định rơ ràng đ̣i hỏi chính xác về lănh thổ của Trung Quốc, nhưng nó khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, Trung Quốc đă công bố một bản đồ cho thấy toàn bộ Biển Đông từ đảo Hải Nam cho đến đảo Natuna của Indonesia nằm trong một ṿng kín xem như lănh hải của ḿnh. Năm 1993, bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc trấn an bằng lời với đối tác Indonesia rằng đảo Natuna đông dân cư và quan trọng về kinh tế quan trọng không bị Trung Quốc đ̣i giành chủ quyền đâu, nhưng kể từ đó Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức xác nhận tuyên bố không chính thức đó.
Theo UNCLOS và thông lệ quán quốc tế, “lănh hải” kéo dài 12 hải lí từ đường vạch mức triều thấp dọc theo bờ biển của một quốc gia. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh kí kết UNCLOS họ đưa vào thêmncác tuyên bố nói rằng các định nghĩa đă được quy định về lănh hải và quyền của quốc gia ven biển khác với các định nghĩa nêu trong UNCLOS. Trong số những điều khác, Trung Quốc tuyên bố rằng:
1. Theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc được hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí và thềm lục địa.
2. Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc sẽ thực hiện, thông qua tham vấn, việc phân định ranh giới về quyền tài phán trên biển với các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp giáp với Trung Quốc, tương ứng, trên cơ sở luật pháp quốc tế và phù hợp với nguyên tắc công bằng.
3. Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với tất cả các quần đảo và đảo liệt kê trong Điều 2 của Luật của nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa về Lănh hải và vùng tiếp giáp, được ban hành ngày 25 tháng 2 năm 1992.
4. Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc tái khẳng định rằng các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển liên quan đến việc qua lại thông thường (innocent passage) qua lănh hải không làm phương hại đến quyền của một quốc gia ven biển đ̣i hỏi, theo luật pháp và các quy định của quốc gia đó, một nhà nước nước ngoài phải có được sự chấp thuận trước hoặc thông báo trước cho các quốc gia ven biển về sự di chuyển của tàu chiến của ḿnh qua lănh hải của quốc gia ven biển.
Những tuyên bố này thay đổi một cách cốt lỏi ư nghĩa của các điều khoản UNCLOS và trái ngược hẳn với luật biển truyền thống. Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của họ không chỉ là một ranh giới kinh tế mà lănh thổ có chủ quyền, do đó mở rộng biên giới biển ra xa 200 hải lí. Bắc Kinh cũng tuyên bố rằng các đảo không có người ở và các rạn san hô của Biển Đông là lănh thổ Trung Quốc, và do đó, cũng có các vùng đặc quyền kinh tế trải rộng thêm hơn 200 hải lí từ mỗi đảo, và thềm lục địa của nó trải rộng ra xa tới mức như Bắc Kinh chọn để vẽ nó. Cuối cùng, các tuyên bố này mở rộng rất nhiều đặc quyền của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia ven biển qua việc nhấn mạnh rằng tàu chiến qua lại b́nh thường trước tiên phải được sự cho phép của Trung Quốc, một lần nữa vi phạm của cả UNCLOS lẫn luật biển truyền thống.
Bắc Kinh cũng tuyên bố rằng các đảo không có người ở cũng có vùng đặc quyền kinh tế.
Vị thế của chính phủ Trung Quốc đă tác động trực tiếp đến các nền kinh tế trong vùng, tự do hàng không và tàu bè của toàn cầu và của lực lượng hải quân và không quân Mĩ. Nếu Trung Quốc được quyền thực thi chủ quyền đối với Biển Đông th́ tàu buôn đi qua vùng biển đó, dù mang cờ ǵ, cũng sẽ phải chịu ràng buộc bởi pháp luật và các quy định của Trung Quốc và bất ḱ khoản phí, thuế hoặc hạn chế khác mà Trung Quốc có thể chọn để áp đặt. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ có đặc quyền khai thác cá tôm, khoáng sản trên biển mà các nước ven biển khác phụ thuộc vào cho một phần thu nhập đáng kể tài nguyên thiên nhiên của họ. Cuối cùng, Trung Quốc nhấn mạnh rằng bất cứ tàu chiến đi qua Biển Đông trước hết phải được sự cho phép làm vô hiệu quyền của tàu chiến nước ngoài tiến hành việc đi lại b́nh thường. Hơn nữa, các tàu chiến đi qua vùng lănh hải chịu những hạn chế nghiêm trọng áp dụng trên các hoạt động của ḿnh.
Những hạn chế này, nếu áp dụng cho toàn bộ Biển Đông, sẽ hạn chế nghiêm trọng hoạt động của Hải quân Mĩ và cản trở khả năng bảo vệ việc vận chuyển đường biển của Mĩ và quốc tế. Hơn nữa, dựa trên vị thế của Trung Quốc có thể thấy rằng tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Ḱ về hoạt động của máy bay do thám EP-3 gần đảo Hải Nam tháng Tư năm 2001; nh́ều hành động sách nhiễu chống lại các tàu Mĩ USNS Impeccable và Victorious mùa xuân năm 2009 ; vụ va chạm giữa một tàu ngầm Trung Quốc với giàn phát tín hiệu của tàu USNS John McCain tháng Sáu năm 2009, và việc phô trương lực lượng gần đây qua các cuộc tập trận hải quân trong vùng biển Hoàng Hải không phải là những sự cố cô lập, mà là những chương mới nhất trong chiến dịch của Trung Quốc để khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông và cũng có thể là những ṿng đấu đầu tiên trong một trận đấu xô đẩy leo thang giữa Trung Quốc và Hoa Ḱ.
Đ̣i hỏi của Trung Quốc mạnh cỡ nào? Vào thế kỉ thứ 9, một tàu buôn chạy buồm của Ả Rập ch́m ngài khơi đảo Belitung, chỗ hiện nay thuộc lănh hải Indonesia thuộc mảng phía nam của Biển Đông. Con tàu đầy 60.000 hiện vật bằng vàng, bạc, sứ mỏng và rơ ràng phát xuất từ thành phố cảng Quảng Châu ở nam Trung Quốc và hướng tới các thị trường ở Đông Nam Á. Tàu buôn này do ngư dân Indonesia phát hiện vào năm 1998 và hiện được coi là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong khảo cổ học biển.
Xác tàu Belitung này không phải là một tàu buôn Trung Quốc (nhà Đường Trung Quốc đă không có một văn hoá đi biển chuyên nghiệp), nhưng nó là biểu tượng của ư thức hệ Hoa vi trung (Sinocentric) mới vể sự nổi trội của Trung Quốc ở Đông Á. Đ̣i hỏi chủ quyên Biển Đông của Chính phủ Trung Quốc một phần dựa trên các di tích cổ xưa, tiền kim loại, mảnh gốm, và đại loại những thứ như thế mà Trung Quốc vất (xả rác) trên các đảo nhỏ ở Biển Đông. Sự kiện là các hiện vật đó có nh́ều khả năng nhất là không do các thủy thủ Trung Quốc bỏ lại, h́nh như không ảnh hưởng đến các tuyên bố ḱ quặc của Bắc Kinh.
Trung Quốc cũng biện minh cho các tuyên bố của ḿnh về Biển Đông với những bài viết mơ hồ khác nhau cách đây hơn 2.000 năm.
Không thể nào Bắc Kinh chứng minh được rằng người Trung Quốc đă từng thường trú ở các quần Trường Sa hay Hoàng Sa, bởi v́ các đảo này là không thể ở được. Nhiều đảo hoàn toàn hoặc từng lúc bị ch́m dưới nước. Những đảo hầu như khô ráo th́ lại thiếu nguồn nước ngọt, và các địa h́nh thấp này phải luân phiên phô tiếp với các loại gió mùa. Ngày nay, dân số duy nhất trên các hải đảo và các rạn san hô ở đây chỉ là các đơn vị quân đội được duy tŕ ở mức chi phí quân sự to lớn từ các chính phủ tương ứng và những người này phải chịu mức nguy cơ cá nhân cao. Các đảo này hoàn toàn không thể nói là có “một đời sống kinh tế của riêng ḿnh” và do đó không thể sinh ra một vùng đặc quyền kinh tế riêng cho chúng theo Điều 121 của UNCLOS.
Trung Quốc cũng trích dẫn nhiều văn bản lịch sử mơ hồ, đầy nghi vấn, và ngoài lề (off-point) trở ngược hơn 2.000 năm trong nỗ lực lập hồ sơ đ̣i hỏi chủ quyền đối với Biển Đông. Chắc chắn rằng các nhà thám hiểm và ngư dânTrung Quốc đă từng đi thuyền trên Biển Đông trong 2000 năm qua, và một số đă ghi lại những khám phá của họ, nhưng cũng rơ ràng như thế rằng theo truyền thống, Trung Quốc đă xem đảo Hải Nam là tiền đồn cực Nam của nền văn minh của họ, chắc chắn cho đến cuối thế kỉ 19.
Những tài liệu cổ của Trung Quốc không bác bỏ những tuyên bố của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay Indonesia. Có bằng chứng khảo cổ học đáng kể cho thấy rằng những người khu vực Đông Nam Á hiện nay đă từng sống trên những quần đảo này rất lâu trước khi Trung Quốc có sử viết. Nhiều làn sóng di dân đă tới Indonesia và quần đảo Phi Luật Tân xa xưa tới cỡ 250 000 năm. Những giống dân đầu tiên đi thuyền chèo hoặc buồm trên Biển Đông để đi đến nơi mà con cháu của họ đang sống ngày nay. Mặc dù quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa quá nhỏ để cư trú thường xuyên, các dân tộc của tất cả các nước ven biển này đă đánh bắt tôm cá và khai thác kinh tế hai quần đảo đó trước khiTrung Quốc tồn tại.
Đối với các quốc gia ven Biển Đông, đ̣i hỏi chủ quyền của Trung Quốc tương tự như một trong những hàng xóm của bạn tuyên bố rằng toàn bộ đường phố trước nhà của bạn là tài sản cá nhân của anh ta. Hơn nữa, anh ta c̣n cho rằng vỉa hè, lối lái xe vào nhà của bạn, và sân trước đến tận trước cửa nhà bạn cũng thuộc về anh ta. Các bảo vệ có vũ trang của anh ta đậu xe trên lối vào nhà bạn và anh ta bẽ hoa ở vườn bạn. Nếu bạn hay người hàng xóm của bạn phản đối, anh ta phủ nhận tính hợp lệ của chủ quyền của bạn và từ chối giải quyết ở ṭa án. Nếu ai đó nằng ń về về quyền sở hữu của ḿnh th́ các bảo vệ của anh ta sẽ đánh người đó.