Log in

View Full Version : Lập luận về “đường lưỡi ḅ” vừa phi lư vừa lạc hậu


Hanna
07-02-2011, 08:33
Xung quanh vấn đề biển Đông, Trung Quốc luôn cho rằng có chủ quyền với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam có đầy đủ tư liệu chứng minh chủ quyền. Và dựa trên chủ quyền tự nhận đó, Trung Quốc lại đ̣i các quyền ở biển Đông thể hiện qua “đường lưỡi ḅ” vô lư.

Đặc biệt, căn cứ theo các quy định luật Quốc tế về Biển hiện hành và các tiền lệ th́ yêu sách của Trung Quốc hoàn toàn thiếu cơ sở và lạc hậu.

http://media.nguoiduatin.vn/public/data/images/huebt/2011/thang6/tuan7/xh/nguoiduatin-luoi-bo.jpg
Đường yêu sách 9 đoạn của Trung Quốc trên biển đông

Những quyền không thể tranh căi của Việt Nam

Biển Đông là một trong những biển nửa kín lớn nhất thế giới, bao quanh bởi các quốc gia như Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan), Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Brunei và Philippines. Mỗi quốc gia đă đưa ra yêu sách về các vùng biển của ḿnh bao gồm cả 200 hải lư vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam và Malaysia đă đệ tŕnh yêu sách về thềm lục địa mở rộng đến ủy ban về Ŕa ngoài của thềm lục địa (CLCS).

Malaysia và Việt Nam theo như nội dung của tuyên bố phúc đáp tuyên bố phản đối của Trung Quốc về thềm lục địa mở rộng đă lập luận rằng đệ tŕnh/ đệ tŕnh chung của hai nước "không làm phương hại tới các vấn đề phân định biển giữa các quốc gia tiếp liền hay đối diện, cũng như lợi ích của các bên trong tranh chấp chủ quyền và vùng biển". Cụm từ "không làm phương hại" ngụ ư rằng thềm lục địa mở rộng mà Việt Nam và Malaysia yêu sách không tạo ra chồng lấn về vùng biển.

Trong khi đó, Trung Quốc khi đưa ra tuyên bố phản đối yêu sách thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và Malaysia đă lập luận rằng "Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh căi đối với các đảo trong biển Đông và các vùng biển tiếp liền, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển có liên quan cũng như đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển tương ứng". Việt Nam đă nhiều lần phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam có đầy đủ chứng cứ để khẳng định chủ quyền.

Không những thế quan điểm của Trung Quốc về hướng tiếp cận lấy vấn đề chủ quyền các đảo để vạch ra “đường lưỡi ḅ” cũng không phù hợp với luật pháp quốc tế. Cụm từ "quyền chủ quyền và quyền tài phán" và "vùng biển có liên quan" ám chỉ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, có nghĩa là Trung Quốc ủng hộ quan điểm Hoàng Sa và Trường Sa có đầy đủ các vùng biển.

Đặc biệt, bản đồ “đường lưỡi ḅ” lần đầu tiên được đính kèm với tuyên bố này một cách chính thức ngụ ư rằng Trung Quốc muốn sử dụng “đường lưỡi ḅ” để yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo trong biển Đông, thay thế cho yêu sách lịch sử trước đây.

Quan điểm “đường lưỡi ḅ” vô lư và lạc hậu

Phản ứng trước yêu cầu phi lư về “đường lưỡi ḅ” của Trung Quốc, cả Việt Nam, Indonesia và Malaysia đều cùng quan điểm khi tuyên bố rằng "các đảo xa và nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa không thể tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc cho phép các đảo đá không có người cư trú và các băi san hô nằm cách biệt với đất liền, giữa biển cả, được sử dụng làm điểm cơ sở để tạo ra các vùng biển vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Công ước Luật Biển và xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cộng đồng quốc tế". Điều này là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.

Luật Quốc tế về phân định biển mới chỉ được phát triển trong thời gian gần đây thông qua bước khởi đầu tại các Công ước về Luật Biển năm 1958. Điều 6 và Điều 12 của hai Công ước 1958 về Thềm lục địa và Tiếp giáp lănh hải đă quy định nguyên tắc phân định biển theo công thức đường cách đều và các hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, 11 năm sau, trong vụ "Thềm lục địa biển Bắc", Luật Quốc tế về phân định biển đă phát triển theo một hướng khác. Phán quyết trong vụ việc này đă không công nhận nguyên tắc được quy định tại Điều 6 của Công ước 1958 là luật tập quán quốc tế mà để ngỏ cho khả năng áp dụng của nhiều phương pháp phân định biển để đạt đến kết quả công bằng, trong đó công thức đường cách đều và các hoàn cảnh đặc biệt không phải là phương pháp bắt buộc.

Hơn nữa, phán quyết cũng xác nhận lại một nguyên tắc quan trọng, "đất thống trị biển", theo đó các vùng biển chỉ có thể được tạo ra từ các danh nghĩa chủ quyền của quốc gia đối với lănh thổ...

Cách tiếp cận hướng tới giải pháp công bằng của vụ Thềm lục địa biển Bắc đă tạo ra ảnh hưởng đối với các vụ việc sau đó, ví dụ như trong vụ phân định giữa Tunisia và Libya vào năm 1982 đường cách đều đă hoàn toàn bị bỏ qua. Phán quyết năm 1982 này cũng phản ánh quá tŕnh đàm phán và kư kết.

Công ước Luật Biển năm 1982 trong đó các Điều 74 và 83 đă pháp điển hóa một nguyên tắc thỏa thuận và giải pháp công bằng. Từ thời điểm này, người ta thấy phương pháp phân định biển đă thay đổi từ công thức đường cách đều/ hoàn cảnh đặc biệt của năm 1958 sang thỏa thuận/ giải pháp công bằng của năm 1982. Giải pháp công bằng không loại trừ việc áp dụng công thức đường cách đều và các hoàn cảnh đặc biệt nhưng đường cách đều cũng không coi là bước khởi đầu cho quá tŕnh phân định biển.

Với việc nh́n một cách đầy đủ về Công ước của Liên hiệp quốc về luật Biển qua các thời kỳ để thấy quan điểm về “đường lưỡi ḅ” của Trung Quốc không những được đưa ra dựa trên một đ̣i hỏi chủ quyền với các đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam một cách vô lư mà quan điểm tiếp cận đ̣i hỏi các quyền khác ở biển Đông cũng hoàn toàn không phù hợp với luật pháp quốc tế. Đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về LuậtBiển năm 1982.

TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt Nam)

*Bài viết được trích trong tham luận của tác giả tại Hội thảo khoa học quốc tế: "Biển Đông-Hợp tác v́ an ninh và phát triển trong khu vực". Các tiêu đề do toà soạn đặt.

Nguoiduatin