Hanna
07-07-2011, 06:55
Làm nông cũng như những ngành sản xuất khác, ai cũng mong nông phẩm thu hoạch bán chạy và được giá cao. Nhưng nông phẩm có đặc tính là không tồn trữ được hoặc tồn trữ được trong thời gian ngắn và với chi phí rất cao. Do đặc thù đó mà người nông dân không thể chủ động về thời gian bán sản phẩm của họ và người mua lợi dụng để mua với giá rẻ mạt.
Người mua nông phẩm là các công ty, tập đoàn có giấy phép độc quyền xuất khẩu hoặc gần như độc quyền như là các doanh nghiệp chế biến. Với danh nghĩa an ninh lương thực, an ninh thực phẩm, một số Tập đoàn được nhà nước bảo đảm thu mua nông phẩm để xuất khẩu. Họ nắm rơ tổng khối lượng cần thu mua để đáp ứng hợp đồng xuất khẩu, nhưng không bao giờ hợp đồng với nông dân mà để chủ động ép giá. Khi nào cần hạ giá mua vào, họ ngưng thu mua, nông dân phải bán tháo.
Đến lượt nhà đầu cơ mua gom với giá rẻ để trữ hàng. Nhà đầu cơ là những người có chung lợi ích với những tập đoàn độc quyền được kể ra trên kia.
Tuy hoàn toàn lệ thuộc vào người mua nhưng nông dân không bao giờ kư hợp đồng với người bán trước khi đầu tư canh tác. Giá nông phẩm đầu ra vào mùa thu hoạch hoàn toàn do "thị trường" của những nhà đầu cơ chi phối.
Năm nào cũng vậy, được mùa có nghĩa là giá rớt thê thảm, thương lái hoặc d́m giá hoặc trả chậm hoặc cả hai. Người nông dân làm ra sản phẩm nhưng không có quyền ra giá hay ra điều kiện mua bán. Người mua luôn tạo ra trạng thái "ế thừa". Do đó mà trong quan hệ người mua luôn nắm vai tṛ chủ động, nông dân luôn ở thế bị động.
Khi có người mua thứ ba từ bên kia biên giới xuất hiện th́ t́nh h́nh sẽ khác, trạng thái "ế thừa" nông phẩm biến mất, tác dụng có lợi cho nông dân. Lúc này người mua truyền thống sẽ la làng lên nào là Thương nhân nước ngoài mua vét, Thương nhân nước ngoài tận thu, Thương nhân nước ngoài săn lùng nông phẩm, Chiêu phá giá của Thương nhân nước ngoài , Doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với Thương nhân nước ngoài và nhiều giọng điệu khác nữa.
Các doanh nghiệp thu mua trong nước mất thế chủ động d́m giá nông phẩm đưa ra những luận điệu phi thị trường như là Thương nhân nước ngoài tận thu làm nguồn cung thiếu trầm trọng, Thương nhân nước ngoài săn hàng đẩy giá lên cao, Doanh nghiệp lao đao với Thương nhân nước ngoài, Thương nhân nước ngoài mua vét làm cạn kiệt nguyên liệu, Chiêu kích giá của thương nhân nước ngoài làm kẻ đầu cơ trong nước lỡ đà mua hớ ...
Thế là đă rơ, khi có sự xuất hiện của người mua thứ ba , người mua "truyền thống" mất thế độc quyền để ép giá, người nông dân bán nông phẩm được lợi nhờ sự cạnh tranh. Lúc này bài ca Hài ḥa giữa lợi ích Nhà nước - Doanh nghiệp - Nông dân lại được cất lên.
Tuy không phải lúc nào nông dân cũng bán được giá cao nhưng thực tế cho thấy kư hợp đồng mua bán trước khi đầu tư nuôi trồng th́ sự thịnh vượng được thấy rơ. Điều này lại ngoài ư muốn của các doanh nghiệp thu mua nông phẩm độc quyền.
Ly Toet
Người mua nông phẩm là các công ty, tập đoàn có giấy phép độc quyền xuất khẩu hoặc gần như độc quyền như là các doanh nghiệp chế biến. Với danh nghĩa an ninh lương thực, an ninh thực phẩm, một số Tập đoàn được nhà nước bảo đảm thu mua nông phẩm để xuất khẩu. Họ nắm rơ tổng khối lượng cần thu mua để đáp ứng hợp đồng xuất khẩu, nhưng không bao giờ hợp đồng với nông dân mà để chủ động ép giá. Khi nào cần hạ giá mua vào, họ ngưng thu mua, nông dân phải bán tháo.
Đến lượt nhà đầu cơ mua gom với giá rẻ để trữ hàng. Nhà đầu cơ là những người có chung lợi ích với những tập đoàn độc quyền được kể ra trên kia.
Tuy hoàn toàn lệ thuộc vào người mua nhưng nông dân không bao giờ kư hợp đồng với người bán trước khi đầu tư canh tác. Giá nông phẩm đầu ra vào mùa thu hoạch hoàn toàn do "thị trường" của những nhà đầu cơ chi phối.
Năm nào cũng vậy, được mùa có nghĩa là giá rớt thê thảm, thương lái hoặc d́m giá hoặc trả chậm hoặc cả hai. Người nông dân làm ra sản phẩm nhưng không có quyền ra giá hay ra điều kiện mua bán. Người mua luôn tạo ra trạng thái "ế thừa". Do đó mà trong quan hệ người mua luôn nắm vai tṛ chủ động, nông dân luôn ở thế bị động.
Khi có người mua thứ ba từ bên kia biên giới xuất hiện th́ t́nh h́nh sẽ khác, trạng thái "ế thừa" nông phẩm biến mất, tác dụng có lợi cho nông dân. Lúc này người mua truyền thống sẽ la làng lên nào là Thương nhân nước ngoài mua vét, Thương nhân nước ngoài tận thu, Thương nhân nước ngoài săn lùng nông phẩm, Chiêu phá giá của Thương nhân nước ngoài , Doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với Thương nhân nước ngoài và nhiều giọng điệu khác nữa.
Các doanh nghiệp thu mua trong nước mất thế chủ động d́m giá nông phẩm đưa ra những luận điệu phi thị trường như là Thương nhân nước ngoài tận thu làm nguồn cung thiếu trầm trọng, Thương nhân nước ngoài săn hàng đẩy giá lên cao, Doanh nghiệp lao đao với Thương nhân nước ngoài, Thương nhân nước ngoài mua vét làm cạn kiệt nguyên liệu, Chiêu kích giá của thương nhân nước ngoài làm kẻ đầu cơ trong nước lỡ đà mua hớ ...
Thế là đă rơ, khi có sự xuất hiện của người mua thứ ba , người mua "truyền thống" mất thế độc quyền để ép giá, người nông dân bán nông phẩm được lợi nhờ sự cạnh tranh. Lúc này bài ca Hài ḥa giữa lợi ích Nhà nước - Doanh nghiệp - Nông dân lại được cất lên.
Tuy không phải lúc nào nông dân cũng bán được giá cao nhưng thực tế cho thấy kư hợp đồng mua bán trước khi đầu tư nuôi trồng th́ sự thịnh vượng được thấy rơ. Điều này lại ngoài ư muốn của các doanh nghiệp thu mua nông phẩm độc quyền.
Ly Toet