Hanna
07-13-2011, 17:44
ANDREW J. NATHAN - Trung Quốc muốn ǵ: Mặc cả với Bắc Kinh
Trần Ngọc Cư dịch
Là một người sành điệu trong nghệ thuật ngoại giao tế nhị, Henry Kissinger tỏ ra rất khâm phục Trung Quốc (TQ) về nghệ thuật này. Tác phẩm mới của ông, được viết dưới dạng một cuốn lịch sử ngoại giao TQ, vẽ ra những khúc mắc chiến lược của TQ kể từ ngày thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, trích dẫn khá nhiều các cuộc hội đàm của ông với một số lănh đạo TQ. Nhưng thật ra, cuốn Bàn về Trung Quốc (On China) của Kissinger chẳng phải là một cuốn lịch sử mà cũng chẳng phải là một hồi kư. Mục đích chính của nó là nhằm tranh luận rằng Hoa Kỳ (HK) nên tử tế nhượng bộ trước sự trỗi dậy của TQ để tránh một cuộc xung đột bi thảm.
Aaron Friedberg lại đưa ra một lời khuyên ngược lại. Hiện là giáo sư của Đại học Princeton và từng là cố vấn về chính sách đối ngoại cho Phó Tổng thống Dick Cheney, Friedberg phân tích những chiến lược mà TQ và HK đă sử dụng để ứng xử với nhau kể từ đầu thập niên 1990 và cố gắng giải mă những ư định của TQ trong những thập kỷ tới. Ông lư luận rằng, để đối phó với quyền lực và tham vọng ngày càng lớn của TQ, Hoa Kỳ cần phải giữ thế mạnh trong nhiều lănh vực mà lợi ích của hai nước xung khắc lẫn nhau. Cả hai cuốn sách sẽ hé mở một cánh cửa cho thấy một sự rạn nứt chiến lược giữa các nhân vật Cộng ḥa chính thống về vấn đề TQ.
Kissinger ví chính sách ngoại giao của TQ với môn cờ vây -- weiqi (tương tự như cờ igo của Nhật), một cuộc đọ trí kiên nhẫn bằng chiến thuật bao vây, trong đó chiến thắng chỉ là tương đối. Các nhà chiến lược TQ coi một thành quả quyết định là ảo tưởng. Thay vào đó, họ chơi tṛ “vừa sống chung vừa đấu đá” (a game of combative coexistence), t́m cách cải tiến địa vị quyền lực tương đối của ḿnh giữa những thế lực biến chuyển không ngừng của chính trị thế giới. Vào lúc cần thiết, TQ có thể dàn chào địch thủ bằng một cú sốc tâm lư rồi rút lui, như họ từng làm với Ấn Độ năm 1962 nhằm chặn đứng những cuộc xâm lấn vào biên giới tranh chấp giữa hai nước, và như TQ từng làm với Liên Xô năm 1969 để ngăn chặn không cho Mác-xcơ-va thọc vào những vị trí của TQ dọc theo biên giới. Trong những trường hợp khác, TQ có thể che đậy ánh sáng và chờ thời cơ [“thao quang dưỡng hối”], như mọi người đều biết Đặng Tiểu B́nh đă khuyên các đồng chí của ḿnh vào năm 1991, bảo họ phải duy tŕ quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ trong khi xây dựng lực lượng của TQ. Hay có khi TQ lấy lư do tự ái quốc gia bị tổn thương để khẳng định toàn bộ một vấn đề nào đó là không thể thương thuyết, như Bắc Kinh đă làm trong những năm 1993-94 khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton cố đưa ra những mức thuế quan thuận lợi cho hàng hóa TQ với điều kiện TQ phải cải thiện nhân quyền, và như TQ đang coi các vấn đề lănh thổ hiện nay là không thể thương thuyết.
Kissinger nhận thấy có những tương phản rơ nét ở đây với đường lối thông thường của các nhà ngoại giao Mỹ, một điều lắm lúc làm ông bức xúc trong thời gian ông điều khiển ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Trong khi các nhà thương thuyết Mỹ muốn tách riêng các vấn đề và t́m giải pháp cho từng vấn đề một, th́ các đồng nhiệm TQ lại muốn gộp các vấn đề lại với nhau và t́m kiếm sự thông cảm từ phía bên kia. Trong khi người Mỹ tin rằng hai bên có thể đạt được những thỏa thuận trong một lănh vực nào đó và có thể nêu lên những bất đồng trên một lănh vực khác, th́ các nhà thương thuyết TQ thích mô tả toàn bộ bầu không khí là nồng ấm hay lạnh nhạt, thân thiện hay căng thẳng, tạo động lực để khuyến khích phía bên kia gác lại các bất đồng. Trong khi người Mỹ lấy làm lo ngại v́ những bế tắc, th́ phía TQ biết lợi dụng những bế tắc này để duy tŕ sức ép lên phía bên kia. Ngoại giao của Mỹ nhằm giải quyết vấn đề (transactional); ngoại giao của TQ nhằm gây tác động tâm lư (psychological).
Kissinger trích dẫn lời khuyên của Tôn Tử, một nhà chiến lược quân sự cổ đại TQ đă cho rằng người ta có thể nắm được phần thắng trong tay trước khi ra trận bằng cách trước hết là phải giành lấy ưu thế chính trị và tâm lư. Thuở xa xưa, vào thế kỷ thứ ba, tư lệnh Gia Cát Lượng đă đẩy lui một đạo quân của địch bằng cách mở toang các cửa thành rồi lên thành nằm phơi nắng; sự dàn cảnh này tạo ấn tượng một chiếc bẫy, khiến tướng địch sợ hăi rút quân. Khoảng năm 1793-94, Hoàng đế Càn Long đă tránh né những yêu cầu của sứ thần Anh là Lord George Macartney bằng một cuộc tiếp đăi hết sức nồng hậu; khi Macartney không hiểu được thâm ư của nhà vua, triều đ́nh đă xua đuổi ông bằng một tờ thư để trên một chiếc ghế lụa. Năm 1958, Mao Trạch Đông không chỉ tiếp lănh đạo Xô-viết Nikita Khrushchev tại hồ tắm riêng mà ngay trong hồ tắm, buộc nhà lănh đạo Xô-viết phải đàm phán trong khi đang mang phao. Khi Kissinger gặp Chu Ân Lai lần đầu, năm 1971, thủ tướng TQ đă bố trí thời khắc biểu của ḿnh thế nào để chỉ dành cho Kissinger hai thời khoản thương thuyết tổng cộng là 13 giờ trong suốt thời gian Kissinger có mặt tại Bắc Kinh, buộc nhà ngoại giao Mỹ phải vội vă chấp nhận một cuộc viếng thăm TQ của tổng thống Mỹ với rất ít chi tiết được giải quyết trước.
Kissinger giải thích rằng những chiến thuật này đă biến tính hiếu khách của TQ thành “một khía cạnh chiến lược”, khiến cho khách nước ngoài phải nễ sợ, bối rối, hoặc bị dụ khị do sự giàu có, hào phóng, và điềm tĩnh của chủ nhà. Các nhà ngoại giao TQ rất khéo dùng t́nh hữu nghị, khiến “phía bên kia…cảm thấy mát ḷng [được nịnh] v́ được cho gia nhập vào ‘hội quán’ TQ trong tư cách một ‘người bạn cũ’—đây là một tư thế làm cho việc bất đồng với họ thêm khó khăn và việc đối đầu với họ trở nên nhức nhối”, Kissinger viết. Nhà ngoại giao Kỳ Anh của nhà Thanh đă nói về cách ứng sử với bọn “phiên” Anh (British barbarians) như sau: cần phải “kiềm chế chúng bằng sự chân thành của ḿnh”.
Kissinger cho rằng có gốc gác từ một nền văn minh cổ đại là một lợi thế. “Độ dài và phạm vi rộng lớn của lịch sử TQ cho phép các nhà lănh đạo TQ nhận lấy trọng trách của một lịch sử gần như dài bất tận, do đó có thể gợi lên trong tâm trí người đồng nhiệm ở phiá bên kia một sự khiêm nhượng nhất định”, Kissinger viết. Những lời chỉ trích đây đó của ông nhắm vào Hoa Kỳ -- mà văn hoá đối ngoại được ông mô tả là “có tính truyền giáo”, theo chủ nghĩa can thiệp, có viễn kiến hẹp ḥi, và thực dụng một cách thô bỉ -- chứng tỏ ông đă gặp khó khăn khi đại diện một quốc gia thiếu lợi thế đó. Trong cuộc đàm luận đầu tiên của Chu Ân Lai và Kissinger, họ Chu đă dành thâm niên (seniority) cho Hoa Kỳ bằng cách so sánh số tuổi của nước cộng ḥa Mỹ (khoảng 200 năm) với số tuổi của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (22 năm). Cách so sánh này làm mát ḷng người nghe, mặc dù Kissinger biết điều đó là không thật.
Vấn đề với cuốn sách của Kissinger không nằm ở sự kiện. Những sự kiện được đưa ra là có cơ sở vững chắc trong tác phẩm nghiên cứu này và, đây đó trong cuốn sách, ở những ghi chú về các cuộc đàm đạo mà chính Kissinger có tham dự. Nhưng từ bấy đến nay những nghiên cứu mới mẻ đă hoài nghi bất cứ một lư thuyết nào về các yếu tính (essentialism) liên quan đến TQ như “tính đơn nhất”, “tính trung tâm”, hay “óc nhẫn nại chiến lược” (singularity, centrality, or strategic patience). Mặc dù Kissinger không nói ra, nhưng bức tranh ông vẽ lên nói về một nước Trung Hoa trường cửu – và rất Đông phương. Và Kissinger không cắt nghĩa rơ ràng lư do tại sao lịch sử ngoại giao lâu đời của TQ lại khiến Hoa Kỳ phải nhượng bộ những tham vọng của TQ. Một lập luận như thế thiếu sự phân tích những thực tế vật chất tạo nên quyền lực tương đối hiện nay của TQ --thậm chí sau 20 năm tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, trên nhiều mặt những thực tế vật chất này vẫn c̣n rất bất lợi.
NHỮNG Ư ĐỊNH LÔI THÔI CỦA TQ
Friedberg cũng phóng đại sức mạnh của TQ, mặc dù ông đi theo một lập luận khác. Nhưng tác phẩm của ông là một cuốn sách sâu sắc và đầy đủ thông tin nhất trong một loạt sách nói về hiểm họa TQ được xuất bản từ giữa thập niên 1990 cho đến nay. Trong thể loại này, sự đóng góp của Friedberg là tập trung vào những ư định chiến lược của TQ. Mặc dù Friedberg đồng ư với lô-gic thực tế cổ điển (the classical realist logic), theo đó một sự thay đổi trong tương quan quyền lực sẽ tất yếu tạo ra cạnh tranh quyền lực, nhưng ông nghĩ rằng điều quan trọng là phải t́m cho ra TQ thật sự muốn ǵ – theo cách diễn tả của ông.
Phương pháp của Friedberg là tổng hợp quan điểm của các nhà trí thức TQ đă công khai viết ra trên các tạp chí nghiên cứu chính sách TQ có chức năng tương tự như tạp chí Foreign Affairs tại Mỹ và các phương tiện truyền thông khác. Các tác giả mà ông trích dẫn là giáo sư đại học hay những nhà nghiên cứu (và một số sinh viên theo đuổi chương tŕnh thạc sĩ và tiến sĩ) tại các đại học và các viện nghiên cứu chính sách. Ông cũng dựa vào một số sĩ quan quân đội làm việc trong các ngành được phép viết sách, báo phục vụ độc giả quần chúng. Friedberg lư giải rằng những tư liệu này “phản ánh những luồng dư luận chính ‘có trách nhiệm’” trong giới viết lách tại TQ. “Người ta biết rằng một số trong những nhà văn này được phép tiếp cận với các giới lănh đạo trung ương của đảng và nhà nước”. Điều mà ông đọc được từ những chuyên gia này là, TQ phải t́m cách “thay thế Mỹ trong vai tṛ khống chế tại Đông Á, và có thể đẩy Mỹ ra khỏi hẳn khu vực”. Nhưng phương pháp đánh giá các ư định của TQ mà Friedberg sử dụng có rất nhiều khuyết điểm. Các tác giả viết cho công chúng TQ cần phải tranh giành sự chú ư của bạn đọc, cũng giống như các trí thức quần chúng (public intellectuals) tại Mỹ mà thôi, nghĩa là phải có quan điểm gay gắt và lối viết sống động. Thật vậy, các tác giả mà Friedberg trích dẫn có lập trường rất khác nhau, từ lập trường của Đại tá Lưu Minh Phúc, một người muốn TQ trở thành “số một trên thế giới” (world number one), đến lập trường của học giả Vương Tập Tư, một người nhấn mạnh những lợi ích chung giữa TQ và HK. Việc Friedberg cố gắng tổng hợp những quan điểm này đă tạo ra một sự hợp nhất không thật (a false unity), cùng với sự kiện ông chỉ tập trung vào những tác giả phát biểu những điều sắc bén nhất. Hơn nữa, như Thomas Christensen đă vạch ra trong tạp chí này [bản dịch trên BauxiteVN, “Những lợi thế của một Trung Quốc biết khẳng định”, DG], trong thực tế các nhà hoạch định chính sách TQ luôn luôn thận trọng hơn giọng điệu trên các phương tiện truyền thông TQ. Điều đáng tiếp thu từ sự phân tích của Friedberg là: dân chúng TQ được báo đài trong nước thiết đăi những món ăn đầy cảm tính dân tộc chủ nghĩa (a rich diet of nationalist sentimentality) -- dù với bất cứ lư do ǵ, điều này được cho phép, hay thậm chí được giao phó bởi ban tuyên giáo, một cơ quan nhiên hậu kiểm soát hết mọi báo đài TQ.
Bằng cách tập trung vào ư định của TQ, Friedberg, cũng như Kissinger, đă không đề cập một cách nghiêm túc những khả năng TQ cần phải có để thực hiện những mục tiêu mà nhiều học giả khác nhau của TQ đă đề xuất. Một sự kiểm toán như thế, nếu có, sẽ cho thấy rằng TQ đang sa lầy cả trong nước lẫn tại châu Á nói chung. Ở trong nước, TQ đă dành nhiều nguồn lực hết sức to lớn, kể cả các nguồn lực quân sự, để duy tŕ quyền kiểm soát trên 2/5 lănh thổ TQ, gồm Tân Cương và Tây Tạng, để duy tŕ trật tự dân sự khắp miền trung châu của người Hán quá đông đúc và bất ổn, và để ngăn chặn phong trào độc lập của Đài Loan. Chung quanh biên giới của ḿnh, TQ bị bao vây chủ yếu bởi hai loại quốc gia: những nước mất ổn định mà gần như bất cứ một thay đổi nào xảy ra ở đó đều đặt các nhà chiến lược TQ vào t́nh trạng khó xử (chẳng hạn Miến Điện, Bắc Hàn, và các nước nhược tiểu Trung Á) và các quốc gia hùng mạnh có khả năng vươn lên trong tương lai để cạnh tranh với TQ (như Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, và Việt Nam). Và khắp nơi trên chu vi của TQ, trên bộ và trên biển, TQ đều phải đối mặt với sự hiện diện hùng hậu của Hoa Kỳ. Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ vẫn là một lực lượng có cơ bắp lớn nhất trong sáu bộ tư lệnh chiến đấu khu vực (regional combatant commands) của quân lực Hoa Kỳ, chỉ đứng sau Bộ Tư lệnh Trung ương (đang điều hành hai cuộc chiến). Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương tiếp tục điều chỉnh chiến lược của ḿnh trong khi quân đội TQ hiện đại hóa.
Friedberg c̣n tỏ ra thiếu chính xác, khi nhan đề A Contest for Supremacy (Cuộc thi đua giành địa vị siêu cường) nói lên một điều, mà một phần của tiểu đề the Struggle for Mastery in Asia (cuộc tranh đấu giành quyền bá chủ tại châu Á) lại có nói lên một điều khác – và cả hai ư tưởng này không được phần chính của cuốn sách biện minh. Nhưng lư luận của ông có phần vững chăi hơn khi ông viết rằng “nếu quyền lực của TQ tiếp tục gia tăng, và nếu TQ tiếp tục bị cai trị bởi một chế độ độc tài độc đảng, th́ quan hệ Mỹ-Trung sẽ trở nên ngày càng căng thẳng và cạnh tranh.” Nhưng va chạm không có nghĩa là xung đột.
Và tất cả điều này dựa trên giả định cho rằng sự trỗi dậy của TQ sẽ tiếp diễn không ngừng. Một cách chừng mực vừa phải, Friedberg chỉ đưa ra giả định này với mục đích tranh luận. Nhưng đây không phải là một giả thuyết có thể đúng về lâu về dài, v́ mô h́nh kinh tế và chính trị TQ đang gặp phải quá nhiều sơ hở. Chồng chất lên những mối lo âu của giới lănh đạo TQ, như Friedberg vạch ra, là những ư đồ của Hoa Kỳ: “gạt bỏ những tế nhị ngoại giao qua một bên, mục đích sau cùng trong chiến lược Mỹ là thúc đẩy một cuộc cách mạng, dù là một cuộc cách mạng ôn ḥa [diễn biến hoà b́nh], để cuốn phăng nhà nước độc tài độc đảng của TQ”. Điều này giúp giải thích tại sao các lănh đạo TQ đang hành xử như những kẻ bị vây khốn hơn là những kẻ đang trên đường đi gây chiến tranh bành trướng.
Trần Ngọc Cư dịch
Là một người sành điệu trong nghệ thuật ngoại giao tế nhị, Henry Kissinger tỏ ra rất khâm phục Trung Quốc (TQ) về nghệ thuật này. Tác phẩm mới của ông, được viết dưới dạng một cuốn lịch sử ngoại giao TQ, vẽ ra những khúc mắc chiến lược của TQ kể từ ngày thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, trích dẫn khá nhiều các cuộc hội đàm của ông với một số lănh đạo TQ. Nhưng thật ra, cuốn Bàn về Trung Quốc (On China) của Kissinger chẳng phải là một cuốn lịch sử mà cũng chẳng phải là một hồi kư. Mục đích chính của nó là nhằm tranh luận rằng Hoa Kỳ (HK) nên tử tế nhượng bộ trước sự trỗi dậy của TQ để tránh một cuộc xung đột bi thảm.
Aaron Friedberg lại đưa ra một lời khuyên ngược lại. Hiện là giáo sư của Đại học Princeton và từng là cố vấn về chính sách đối ngoại cho Phó Tổng thống Dick Cheney, Friedberg phân tích những chiến lược mà TQ và HK đă sử dụng để ứng xử với nhau kể từ đầu thập niên 1990 và cố gắng giải mă những ư định của TQ trong những thập kỷ tới. Ông lư luận rằng, để đối phó với quyền lực và tham vọng ngày càng lớn của TQ, Hoa Kỳ cần phải giữ thế mạnh trong nhiều lănh vực mà lợi ích của hai nước xung khắc lẫn nhau. Cả hai cuốn sách sẽ hé mở một cánh cửa cho thấy một sự rạn nứt chiến lược giữa các nhân vật Cộng ḥa chính thống về vấn đề TQ.
Kissinger ví chính sách ngoại giao của TQ với môn cờ vây -- weiqi (tương tự như cờ igo của Nhật), một cuộc đọ trí kiên nhẫn bằng chiến thuật bao vây, trong đó chiến thắng chỉ là tương đối. Các nhà chiến lược TQ coi một thành quả quyết định là ảo tưởng. Thay vào đó, họ chơi tṛ “vừa sống chung vừa đấu đá” (a game of combative coexistence), t́m cách cải tiến địa vị quyền lực tương đối của ḿnh giữa những thế lực biến chuyển không ngừng của chính trị thế giới. Vào lúc cần thiết, TQ có thể dàn chào địch thủ bằng một cú sốc tâm lư rồi rút lui, như họ từng làm với Ấn Độ năm 1962 nhằm chặn đứng những cuộc xâm lấn vào biên giới tranh chấp giữa hai nước, và như TQ từng làm với Liên Xô năm 1969 để ngăn chặn không cho Mác-xcơ-va thọc vào những vị trí của TQ dọc theo biên giới. Trong những trường hợp khác, TQ có thể che đậy ánh sáng và chờ thời cơ [“thao quang dưỡng hối”], như mọi người đều biết Đặng Tiểu B́nh đă khuyên các đồng chí của ḿnh vào năm 1991, bảo họ phải duy tŕ quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ trong khi xây dựng lực lượng của TQ. Hay có khi TQ lấy lư do tự ái quốc gia bị tổn thương để khẳng định toàn bộ một vấn đề nào đó là không thể thương thuyết, như Bắc Kinh đă làm trong những năm 1993-94 khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton cố đưa ra những mức thuế quan thuận lợi cho hàng hóa TQ với điều kiện TQ phải cải thiện nhân quyền, và như TQ đang coi các vấn đề lănh thổ hiện nay là không thể thương thuyết.
Kissinger nhận thấy có những tương phản rơ nét ở đây với đường lối thông thường của các nhà ngoại giao Mỹ, một điều lắm lúc làm ông bức xúc trong thời gian ông điều khiển ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Trong khi các nhà thương thuyết Mỹ muốn tách riêng các vấn đề và t́m giải pháp cho từng vấn đề một, th́ các đồng nhiệm TQ lại muốn gộp các vấn đề lại với nhau và t́m kiếm sự thông cảm từ phía bên kia. Trong khi người Mỹ tin rằng hai bên có thể đạt được những thỏa thuận trong một lănh vực nào đó và có thể nêu lên những bất đồng trên một lănh vực khác, th́ các nhà thương thuyết TQ thích mô tả toàn bộ bầu không khí là nồng ấm hay lạnh nhạt, thân thiện hay căng thẳng, tạo động lực để khuyến khích phía bên kia gác lại các bất đồng. Trong khi người Mỹ lấy làm lo ngại v́ những bế tắc, th́ phía TQ biết lợi dụng những bế tắc này để duy tŕ sức ép lên phía bên kia. Ngoại giao của Mỹ nhằm giải quyết vấn đề (transactional); ngoại giao của TQ nhằm gây tác động tâm lư (psychological).
Kissinger trích dẫn lời khuyên của Tôn Tử, một nhà chiến lược quân sự cổ đại TQ đă cho rằng người ta có thể nắm được phần thắng trong tay trước khi ra trận bằng cách trước hết là phải giành lấy ưu thế chính trị và tâm lư. Thuở xa xưa, vào thế kỷ thứ ba, tư lệnh Gia Cát Lượng đă đẩy lui một đạo quân của địch bằng cách mở toang các cửa thành rồi lên thành nằm phơi nắng; sự dàn cảnh này tạo ấn tượng một chiếc bẫy, khiến tướng địch sợ hăi rút quân. Khoảng năm 1793-94, Hoàng đế Càn Long đă tránh né những yêu cầu của sứ thần Anh là Lord George Macartney bằng một cuộc tiếp đăi hết sức nồng hậu; khi Macartney không hiểu được thâm ư của nhà vua, triều đ́nh đă xua đuổi ông bằng một tờ thư để trên một chiếc ghế lụa. Năm 1958, Mao Trạch Đông không chỉ tiếp lănh đạo Xô-viết Nikita Khrushchev tại hồ tắm riêng mà ngay trong hồ tắm, buộc nhà lănh đạo Xô-viết phải đàm phán trong khi đang mang phao. Khi Kissinger gặp Chu Ân Lai lần đầu, năm 1971, thủ tướng TQ đă bố trí thời khắc biểu của ḿnh thế nào để chỉ dành cho Kissinger hai thời khoản thương thuyết tổng cộng là 13 giờ trong suốt thời gian Kissinger có mặt tại Bắc Kinh, buộc nhà ngoại giao Mỹ phải vội vă chấp nhận một cuộc viếng thăm TQ của tổng thống Mỹ với rất ít chi tiết được giải quyết trước.
Kissinger giải thích rằng những chiến thuật này đă biến tính hiếu khách của TQ thành “một khía cạnh chiến lược”, khiến cho khách nước ngoài phải nễ sợ, bối rối, hoặc bị dụ khị do sự giàu có, hào phóng, và điềm tĩnh của chủ nhà. Các nhà ngoại giao TQ rất khéo dùng t́nh hữu nghị, khiến “phía bên kia…cảm thấy mát ḷng [được nịnh] v́ được cho gia nhập vào ‘hội quán’ TQ trong tư cách một ‘người bạn cũ’—đây là một tư thế làm cho việc bất đồng với họ thêm khó khăn và việc đối đầu với họ trở nên nhức nhối”, Kissinger viết. Nhà ngoại giao Kỳ Anh của nhà Thanh đă nói về cách ứng sử với bọn “phiên” Anh (British barbarians) như sau: cần phải “kiềm chế chúng bằng sự chân thành của ḿnh”.
Kissinger cho rằng có gốc gác từ một nền văn minh cổ đại là một lợi thế. “Độ dài và phạm vi rộng lớn của lịch sử TQ cho phép các nhà lănh đạo TQ nhận lấy trọng trách của một lịch sử gần như dài bất tận, do đó có thể gợi lên trong tâm trí người đồng nhiệm ở phiá bên kia một sự khiêm nhượng nhất định”, Kissinger viết. Những lời chỉ trích đây đó của ông nhắm vào Hoa Kỳ -- mà văn hoá đối ngoại được ông mô tả là “có tính truyền giáo”, theo chủ nghĩa can thiệp, có viễn kiến hẹp ḥi, và thực dụng một cách thô bỉ -- chứng tỏ ông đă gặp khó khăn khi đại diện một quốc gia thiếu lợi thế đó. Trong cuộc đàm luận đầu tiên của Chu Ân Lai và Kissinger, họ Chu đă dành thâm niên (seniority) cho Hoa Kỳ bằng cách so sánh số tuổi của nước cộng ḥa Mỹ (khoảng 200 năm) với số tuổi của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (22 năm). Cách so sánh này làm mát ḷng người nghe, mặc dù Kissinger biết điều đó là không thật.
Vấn đề với cuốn sách của Kissinger không nằm ở sự kiện. Những sự kiện được đưa ra là có cơ sở vững chắc trong tác phẩm nghiên cứu này và, đây đó trong cuốn sách, ở những ghi chú về các cuộc đàm đạo mà chính Kissinger có tham dự. Nhưng từ bấy đến nay những nghiên cứu mới mẻ đă hoài nghi bất cứ một lư thuyết nào về các yếu tính (essentialism) liên quan đến TQ như “tính đơn nhất”, “tính trung tâm”, hay “óc nhẫn nại chiến lược” (singularity, centrality, or strategic patience). Mặc dù Kissinger không nói ra, nhưng bức tranh ông vẽ lên nói về một nước Trung Hoa trường cửu – và rất Đông phương. Và Kissinger không cắt nghĩa rơ ràng lư do tại sao lịch sử ngoại giao lâu đời của TQ lại khiến Hoa Kỳ phải nhượng bộ những tham vọng của TQ. Một lập luận như thế thiếu sự phân tích những thực tế vật chất tạo nên quyền lực tương đối hiện nay của TQ --thậm chí sau 20 năm tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, trên nhiều mặt những thực tế vật chất này vẫn c̣n rất bất lợi.
NHỮNG Ư ĐỊNH LÔI THÔI CỦA TQ
Friedberg cũng phóng đại sức mạnh của TQ, mặc dù ông đi theo một lập luận khác. Nhưng tác phẩm của ông là một cuốn sách sâu sắc và đầy đủ thông tin nhất trong một loạt sách nói về hiểm họa TQ được xuất bản từ giữa thập niên 1990 cho đến nay. Trong thể loại này, sự đóng góp của Friedberg là tập trung vào những ư định chiến lược của TQ. Mặc dù Friedberg đồng ư với lô-gic thực tế cổ điển (the classical realist logic), theo đó một sự thay đổi trong tương quan quyền lực sẽ tất yếu tạo ra cạnh tranh quyền lực, nhưng ông nghĩ rằng điều quan trọng là phải t́m cho ra TQ thật sự muốn ǵ – theo cách diễn tả của ông.
Phương pháp của Friedberg là tổng hợp quan điểm của các nhà trí thức TQ đă công khai viết ra trên các tạp chí nghiên cứu chính sách TQ có chức năng tương tự như tạp chí Foreign Affairs tại Mỹ và các phương tiện truyền thông khác. Các tác giả mà ông trích dẫn là giáo sư đại học hay những nhà nghiên cứu (và một số sinh viên theo đuổi chương tŕnh thạc sĩ và tiến sĩ) tại các đại học và các viện nghiên cứu chính sách. Ông cũng dựa vào một số sĩ quan quân đội làm việc trong các ngành được phép viết sách, báo phục vụ độc giả quần chúng. Friedberg lư giải rằng những tư liệu này “phản ánh những luồng dư luận chính ‘có trách nhiệm’” trong giới viết lách tại TQ. “Người ta biết rằng một số trong những nhà văn này được phép tiếp cận với các giới lănh đạo trung ương của đảng và nhà nước”. Điều mà ông đọc được từ những chuyên gia này là, TQ phải t́m cách “thay thế Mỹ trong vai tṛ khống chế tại Đông Á, và có thể đẩy Mỹ ra khỏi hẳn khu vực”. Nhưng phương pháp đánh giá các ư định của TQ mà Friedberg sử dụng có rất nhiều khuyết điểm. Các tác giả viết cho công chúng TQ cần phải tranh giành sự chú ư của bạn đọc, cũng giống như các trí thức quần chúng (public intellectuals) tại Mỹ mà thôi, nghĩa là phải có quan điểm gay gắt và lối viết sống động. Thật vậy, các tác giả mà Friedberg trích dẫn có lập trường rất khác nhau, từ lập trường của Đại tá Lưu Minh Phúc, một người muốn TQ trở thành “số một trên thế giới” (world number one), đến lập trường của học giả Vương Tập Tư, một người nhấn mạnh những lợi ích chung giữa TQ và HK. Việc Friedberg cố gắng tổng hợp những quan điểm này đă tạo ra một sự hợp nhất không thật (a false unity), cùng với sự kiện ông chỉ tập trung vào những tác giả phát biểu những điều sắc bén nhất. Hơn nữa, như Thomas Christensen đă vạch ra trong tạp chí này [bản dịch trên BauxiteVN, “Những lợi thế của một Trung Quốc biết khẳng định”, DG], trong thực tế các nhà hoạch định chính sách TQ luôn luôn thận trọng hơn giọng điệu trên các phương tiện truyền thông TQ. Điều đáng tiếp thu từ sự phân tích của Friedberg là: dân chúng TQ được báo đài trong nước thiết đăi những món ăn đầy cảm tính dân tộc chủ nghĩa (a rich diet of nationalist sentimentality) -- dù với bất cứ lư do ǵ, điều này được cho phép, hay thậm chí được giao phó bởi ban tuyên giáo, một cơ quan nhiên hậu kiểm soát hết mọi báo đài TQ.
Bằng cách tập trung vào ư định của TQ, Friedberg, cũng như Kissinger, đă không đề cập một cách nghiêm túc những khả năng TQ cần phải có để thực hiện những mục tiêu mà nhiều học giả khác nhau của TQ đă đề xuất. Một sự kiểm toán như thế, nếu có, sẽ cho thấy rằng TQ đang sa lầy cả trong nước lẫn tại châu Á nói chung. Ở trong nước, TQ đă dành nhiều nguồn lực hết sức to lớn, kể cả các nguồn lực quân sự, để duy tŕ quyền kiểm soát trên 2/5 lănh thổ TQ, gồm Tân Cương và Tây Tạng, để duy tŕ trật tự dân sự khắp miền trung châu của người Hán quá đông đúc và bất ổn, và để ngăn chặn phong trào độc lập của Đài Loan. Chung quanh biên giới của ḿnh, TQ bị bao vây chủ yếu bởi hai loại quốc gia: những nước mất ổn định mà gần như bất cứ một thay đổi nào xảy ra ở đó đều đặt các nhà chiến lược TQ vào t́nh trạng khó xử (chẳng hạn Miến Điện, Bắc Hàn, và các nước nhược tiểu Trung Á) và các quốc gia hùng mạnh có khả năng vươn lên trong tương lai để cạnh tranh với TQ (như Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, và Việt Nam). Và khắp nơi trên chu vi của TQ, trên bộ và trên biển, TQ đều phải đối mặt với sự hiện diện hùng hậu của Hoa Kỳ. Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ vẫn là một lực lượng có cơ bắp lớn nhất trong sáu bộ tư lệnh chiến đấu khu vực (regional combatant commands) của quân lực Hoa Kỳ, chỉ đứng sau Bộ Tư lệnh Trung ương (đang điều hành hai cuộc chiến). Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương tiếp tục điều chỉnh chiến lược của ḿnh trong khi quân đội TQ hiện đại hóa.
Friedberg c̣n tỏ ra thiếu chính xác, khi nhan đề A Contest for Supremacy (Cuộc thi đua giành địa vị siêu cường) nói lên một điều, mà một phần của tiểu đề the Struggle for Mastery in Asia (cuộc tranh đấu giành quyền bá chủ tại châu Á) lại có nói lên một điều khác – và cả hai ư tưởng này không được phần chính của cuốn sách biện minh. Nhưng lư luận của ông có phần vững chăi hơn khi ông viết rằng “nếu quyền lực của TQ tiếp tục gia tăng, và nếu TQ tiếp tục bị cai trị bởi một chế độ độc tài độc đảng, th́ quan hệ Mỹ-Trung sẽ trở nên ngày càng căng thẳng và cạnh tranh.” Nhưng va chạm không có nghĩa là xung đột.
Và tất cả điều này dựa trên giả định cho rằng sự trỗi dậy của TQ sẽ tiếp diễn không ngừng. Một cách chừng mực vừa phải, Friedberg chỉ đưa ra giả định này với mục đích tranh luận. Nhưng đây không phải là một giả thuyết có thể đúng về lâu về dài, v́ mô h́nh kinh tế và chính trị TQ đang gặp phải quá nhiều sơ hở. Chồng chất lên những mối lo âu của giới lănh đạo TQ, như Friedberg vạch ra, là những ư đồ của Hoa Kỳ: “gạt bỏ những tế nhị ngoại giao qua một bên, mục đích sau cùng trong chiến lược Mỹ là thúc đẩy một cuộc cách mạng, dù là một cuộc cách mạng ôn ḥa [diễn biến hoà b́nh], để cuốn phăng nhà nước độc tài độc đảng của TQ”. Điều này giúp giải thích tại sao các lănh đạo TQ đang hành xử như những kẻ bị vây khốn hơn là những kẻ đang trên đường đi gây chiến tranh bành trướng.