vuitoichat
07-20-2011, 10:39
Ngày 28/6/2011, theo báo chí Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xă hội, trong Hội nghị Triển khai chương tŕnh pḥng, chống mại dâm giai đoạn 2011–2015 tại Quảng Ninh đă phát biểu : không nên coi mại dâm là một « tệ nạn xă hội ».
http://www.viet.rfi.fr/sites/viet.filesrfi/imagecache/rfi_43_large/sites/images.rfi.fr/files/aef_image/Hong%201.jpg
Tiến sĩ Khuất Thu Hồng (ảnh do tác giả gửi)
Nhiều ư kiến vui mừng cho rằng, đây là một ngày quan trọng đối với những phụ nữ làm nghề bán dâm. Tuy nhiên, phát biểu kể trên sau đó đă không được một số viên chức thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xă hội công nhận.
Trên thực tế, tại Việt Nam theo ước tính của giới chuyên môn hàng trăm ngh́n phụ nữ kiếm sống bằng nghề bị coi là bất hợp pháp này. Rất nhiều tệ nạn xă hội đi kèm với nghề mại dâm đă phát triển ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền, cũng như nhiều căn bệnh lây nhiễm qua đường t́nh dục, đặc biệt là nhiều phần của dịch virus HIV/SIDA đă phát triển ngoài sự theo dơi của các cơ quan y tế.
Từ khoảng mươi năm trở lại đây, bản thân quan điểm chính thống tại Việt Nam cho mua bán dâm là hành động phạm pháp, đă trở thành đối tượng chỉ trích của nhiều công dân trong đó có những người thuộc giới khoa học và hoạt động xă hội.
Để đưa đến thính giả với một trong những tiếng nói có uy tín trong vấn đề này, RFI đặt câu hỏi với tiến sĩ Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xă hội (ISDC), người đă nhiều năm nghiên cứu về đề tài này và kiên tŕ bảo vệ quan điểm cần coi mại dâm là một "dịch vụ xă hội", để có thể hạn chế được những tiêu cực trong môi trường này.
Tiến sĩ Khuất Thu Hồng (Hà Nội)
http://www.viet.rfi.fr/aef_player_popup/rfi_player#
RFI : Xin chào tiến sĩ Khuất Thu Hồng. Như chị biết, tại Việt Nam, trong vấn đề mại dâm – là chủ đề được sự quan tâm của xă hội từ lâu nay -, mới đây có thông tin về việc Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương Binh và Xă hội cho rằng không nên coi những người hành nghề mại dâm là các tội phạm, gây ra các tệ nạn xă hội. Chị có thể cho biết nh́n nhận của chị về sự kiện mới xảy ra ?
Khuất Thu Hồng : Theo tôi biết, trong một cuộc Hội thảo tại Quảng Ninh, Bộ trưởng Lao động, Thương Binh và Xă hội có nêu vấn đề như anh vừa trao đổi, rằng chúng ta không nên coi mại dâm là một tệ nạn xă hội, và nên đặt vấn đề có thể nh́n nhận nó như một công việc, như một nghề được hay không ?
Đấy là cách mà báo chí Việt Nam đưa tin về phát biểu của bà Bộ trưởng. Nhưng mới gần đây, có những thông tin khá chính thống từ Cục Pḥng chống Tệ nạn Xă hội. Những người phụ trách cục đó phát biểu rằng mại dâm vẫn phải bị coi là một tệ nạn xă hội và không thể coi mại dâm là một nghề. Cái lư do mà họ đưa ra th́ nó gây ra nhiều tác hại về xă hội cũng như về sức khỏe, đặc biệt là liên quan đến HIV. Có phát biểu của các lănh đạo của cục đó nói rằng, báo chí không hiểu đúng tinh thần của bà bộ trưởng. Bà bộ trưởng nói với tinh thần là cố gắng để những người làm công việc mại dâm không bị tổn thương, để tránh cho họ không có nguy cơ về sức khỏe,… chứ không có ư là coi mại dâm là một nghề.
Những câu chuyện này có lẽ chỉ người trong cuộc mới biết rơ.
Khi nghe tin đầu tiên, tôi cảm thấy phấn khởi, v́ trong nhiều năm nay, tôi đă cố gắng để kêu gọi xă hội và những người làm chính sách thay đổi cách nh́n đối với mại dâm, và nên coi nó là một nghề, mặc dù cái nghề đó nhiều người không tán thành. Đứng về mặt đạo đức xă hội, phần lớn mọi người trong xă hội, cũng như phần lớn các xă hội đều không tán thành. Tôi nghĩ rằng ở Mỹ hay ở Pháp, hay ở bất cứ nước nào, đa số người dân cũng không ưa thích mại dâm cả. Nhưng mại dâm cũng là một thực tế xă hội mà nhiều nơi đă chấp nhận rằng, nó không thể không tồn tại.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, như tôi được biết, có những cân nhắc nên « giải quyết » mại dâm như thế nào. Có những ư tưởng như : có thể coi đó là một công việc, hay một nghề, cũng có ư tưởng những "khu đèn đỏ". Nhưng cũng c̣n rất nhiều tranh luận xung quanh giải pháp đó. Cho đến hiện nay, quan điểm chính thống coi mại dâm là "tệ nạn xă hội" và chưa thừa nhận đó là một nghề.
Quá tŕnh xă hội để đi đến sự thống nhất, coi mại dâm là một nghề, tôi nghĩ rằng c̣n phải cần thời gian nữa.
RFI : Xin phép hỏi chị, việc coi nghề bán dâm là một tệ nạn xă hội, th́ sẽ có hệ quả ǵ về mặt xă hội ?
Khuất Thu Hồng : Hệ quả thứ nhất là dẫn đến việc mại dâm đi vào hoạt động bí mật. Bởi v́ dù muốn hay không, mại dâm vẫn tồn tại. Một số người ở trong xă hội vẫn cần đến dịch vụ đó. Ví dụ như, những người đàn ông chưa có vợ, những người đàn ông vợ chết, hay ly dị, hay những người không có khả năng để cưới vợ.
Việc mại dâm hoạt động bí mật rất khó kiểm soát và dễ dẫn đến t́nh trạng tội phạm, như buôn bán phụ nữ, cưỡng ép phụ nữ hành nghề mại dâm, rồi nhiều hành động phạm pháp liên quan đến vấn đề này, rồi trẻ em sẽ bị ép buộc…
Thứ hai là, việc mại dâm bị coi là bất hợp pháp và phải hoạt động bí mật dẫn đến việc khó cung cấp các dịch vụ y tế sức khỏe một cách thường xuyên cho những người bán dâm. Tất nhiên họ cũng đi chữa bệnh, nhưng là ở những chỗ không đáng tin cậy. Và điều này ảnh hưởng đến sức khỏe của họ. Nhưng ảnh hưởng đến sức khỏe của họ th́ không chỉ hại cho họ, mà c̣n hại đến khách hàng của họ. Và từ khách hàng của họ, th́ có thể dẫn đến vợ con, rồi bạn gái, bạn t́nh của những khách hàng đó, ảnh hưởng như thế sẽ lan truyền đến cộng đồng và xă hội.
Ít nhất là có hai hậu quả nghiêm trọng như vậy, nếu như mại dâm không đươc quản lư chính thức.
RFI : Thưa chị, là người nghiên cứu trực tiếp và đồng thời là người có hiểu biết rộng về lĩnh vực này, chị có thể cho biết một vài con số để cho thấy ảnh hưởng của việc mua bán dâm tại Việt Nam ?
Khuất Thu Hồng : Ở Việt Nam, mại dâm không được coi là một nghề, nên việc nghiên cứu mại dâm là một việc rất khó khăn. Rất khó để tiếp cận với những người làm nghề này để phỏng vấn và ước lượng xem là bao nhiêu người. Nhưng theo những số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh, Xă hội, th́ ở Việt Nam có khoảng 30.000 người bán dâm, và hành nghề trên khoảng 100.000 có kinh doanh dịch vụ này, hoặc các cơ sở trá h́nh, như tiệm mát xa, gội đầu, cắt tóc, nhà tắm hay karaoke, … Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ước tính con số người hành nghề mại dâm tại Việt Nam có thể dao động từ 300.000 đến 500.000 người. Đấy là một con số đáng kể.
Nếu nói về những tác hại do mại dâm không được quản lư chính thức, nó có thể đẻ ra chuyện như tôi vừa nói, những người mắc bệnh qua đường t́nh dục, như HIV, không được điều trị. Theo các nghiên cứu về HIV và những người bán dâm, th́ có rất nhiều người làm nghề mại dâm không dùng các biện pháp bảo vệ, chẳng hạn như dùng bao cao su một cách thường xuyên và nhất quán. Ví dụ phần lớn những người bán dâm dùng bao cao su với khách hàng quen, hoặc khách hàng mới, nhưng với khách hàng quen, hoặc người t́nh hay người yêu của họ th́ họ lại không dùng. Trong khi đó, trong số những người yêu, người t́nh hay chồng của những người làm nghề này lại có nhiều người tiêm chích ma túy. Mà những người tiêm chính ma túy hay phải tiêm chích chung, v́ họ ít tiền. Khi tiêm chích chung th́ khả năng lây nhiễm rất cao. Như thế, anh có thể h́nh dung đường lây truyền nó lan từ đâu, tới đâu, đúng không ?
Hiện nay, về dịch HIV ở Việt Nam, các nghiên cứu cũng như các dự báo về dịch tễ học cho thấy cái tỷ lệ lây nhiễm HIV qua tiêm chích ma túy th́ đang có chiều hướng giảm, trong khi đó, tỷ lệ lây HIV qua đường t́nh dục đang có chiều hướng tăng. Đấy là điều đáng lo ngại.
RFI : Thưa chị, việc tiếp tục coi mại dâm là một tệ nạn xă hội theo quan điểm « đạo đức » gắn liền với cái giá phải trả, như chị vừa nói, về bệnh tật không được kiểm soát, cũng như những tệ nạn đi kèm theo. Vậy cái « đạo đức » đó có phải trả giá quá đắt với những thiệt hại kia không ?
Khuất Thu Hồng : Cá nhân tôi cho rằng cái giá như vậy là đắt. Tuy nhiên, nếu đặt ḿnh ở địa vị những người quản lư, lănh đạo đất nước, tôi cũng h́nh dung được các áp lực lên họ. Áp lực về mặt chính trị, áp lực về mặt xă hội, trong việc có công nhận mại dâm là một nghề hay không.
Tại v́ ở Việt Nam, tôi cho rằng, nếu bây giờ trưng cầu ư kiến của người dân, tôi sợ c̣n rất nhiều người phản đối và cũng coi đó là « một tệ nạn xă hội ». Họ đă quen nghĩ như thế quá lâu rồi ! Và đặc biệt, phụ nữ rất lo sợ cho an nguy của gia đ́nh, cho chồng, con. Cho nên, chắc chắn (đa số) phụ nữ sẽ phản đối.
Vấn đề là, người ta thường h́nh dung và tưởng tượng khá dễ những nguy hại cho « hạnh phúc gia đ́nh », đứng từ góc độ chung thủy hay không chung thủy. Đấy là « đạo đức xă hội » được đề cao, c̣n tác hại của mại dâm có thể gây ra đến sức khỏe th́ lại chỉ liên quan đến từng cá nhân cụ thể, nên rất khó để « nh́n thấy ». Vấn đề là nghiên cứu để chứng minh được rằng, mại dâm đi vào bí mật có thể gây ra các tác hại, khiến cho bao nhiêu người bị mắc bệnh, th́ các nghiên cứu như vậy rất khó được thực hiện. V́ vậy, khó có bằng chứng để thuyết phục mọi người rằng : nếu tiếp tục coi mại dâm là một tệ nạn xă hội, các vị sẽ phải trả một cái giá x, với việc một năm sẽ có từng ấy người bị mắc HIV chẳng hạn. Rất khó để mà có được những con số để thuyết phục mọi người.
Vấn đề t́nh dục ở Việt Nam là một vấn đề rất là bị kiêng kỵ. Người ta rất là ghét. Nghĩ đến nó đă là xấu xa rồi. Vậy mà lại c̣n dịch vụ t́nh dục, c̣n bán dâm, th́ đó là điều không thể chấp nhận được. Tôi nghĩ rằng để cân nhắc giữa hai cái giá đấy, người ta sẽ thường chọn giải pháp đầu. Tức là, cứ tiếp tục coi mại dâm là một vấn đề « đạo đức xă hội ».
Để gọi là « tỉnh táo » xét đoán giữa các nguy hại của các vấn đề sức khỏe và « đạo đức », th́ có lẽ lúc nào người ta cũng thường lựa chọn « đạo đức » nhiều hơn.
RFI : Đứng ở góc độ của một người hoạt động xă hội và làm khoa học, chị làm ǵ và sẽ làm như thế nào trong t́nh trạng hiện nay trong lĩnh vực này ?
Khuất Thu Hồng : Từ rất nhiều năm nay, tôi luôn kêu gọi để có thay đổi quan điểm đối với mại dâm, chẳng hạn có thể coi là một nghề, cũng có thể không hợp pháp hóa nó, nhưng cho phép hoạt động, như ở Thái Lan, tại một số khu vực nhất định, th́ điều này sẽ giúp cho việc giảm đi các nguy cơ đối với những người làm nghề mại dâm, cũng như các khách hàng của họ. Để những người này có thể được cung cấp các dịch vụ về y tế, dịch vụ về an ninh, … Nhiều năm nay, tôi đă kiên tŕ quan điểm này, và tôi cũng cố gắng rằng, dù chúng ta ghét mại dâm, dù chúng ta không chấp nhận, nó vẫn tồn tại, chừng nào c̣n loài người, mại dâm vẫn tồn tại, v́ vẫn c̣n những người cần đến dịch vụ này.
Dù rằng đại đa số trong xă hội có thể có gia đ́nh tốt đẹp và hạnh phúc, th́ vẫn có một số người nào đó không có điều kiện để có gia đ́nh, th́ những người đấy vẫn cần một dịch vụ t́nh dục, và nếu một dịch vụ t́nh dục được tổ chức một cách nghiêm túc và an toàn, th́ có lẽ nó mang lại lợi ích cho những người cần nó, đồng thời mang lại an toàn cho xă hội. Đấy là quan điểm của tôi.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Khuất Thu Hồng.
theo rfi
http://www.viet.rfi.fr/sites/viet.filesrfi/imagecache/rfi_43_large/sites/images.rfi.fr/files/aef_image/Hong%201.jpg
Tiến sĩ Khuất Thu Hồng (ảnh do tác giả gửi)
Nhiều ư kiến vui mừng cho rằng, đây là một ngày quan trọng đối với những phụ nữ làm nghề bán dâm. Tuy nhiên, phát biểu kể trên sau đó đă không được một số viên chức thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xă hội công nhận.
Trên thực tế, tại Việt Nam theo ước tính của giới chuyên môn hàng trăm ngh́n phụ nữ kiếm sống bằng nghề bị coi là bất hợp pháp này. Rất nhiều tệ nạn xă hội đi kèm với nghề mại dâm đă phát triển ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền, cũng như nhiều căn bệnh lây nhiễm qua đường t́nh dục, đặc biệt là nhiều phần của dịch virus HIV/SIDA đă phát triển ngoài sự theo dơi của các cơ quan y tế.
Từ khoảng mươi năm trở lại đây, bản thân quan điểm chính thống tại Việt Nam cho mua bán dâm là hành động phạm pháp, đă trở thành đối tượng chỉ trích của nhiều công dân trong đó có những người thuộc giới khoa học và hoạt động xă hội.
Để đưa đến thính giả với một trong những tiếng nói có uy tín trong vấn đề này, RFI đặt câu hỏi với tiến sĩ Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xă hội (ISDC), người đă nhiều năm nghiên cứu về đề tài này và kiên tŕ bảo vệ quan điểm cần coi mại dâm là một "dịch vụ xă hội", để có thể hạn chế được những tiêu cực trong môi trường này.
Tiến sĩ Khuất Thu Hồng (Hà Nội)
http://www.viet.rfi.fr/aef_player_popup/rfi_player#
RFI : Xin chào tiến sĩ Khuất Thu Hồng. Như chị biết, tại Việt Nam, trong vấn đề mại dâm – là chủ đề được sự quan tâm của xă hội từ lâu nay -, mới đây có thông tin về việc Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương Binh và Xă hội cho rằng không nên coi những người hành nghề mại dâm là các tội phạm, gây ra các tệ nạn xă hội. Chị có thể cho biết nh́n nhận của chị về sự kiện mới xảy ra ?
Khuất Thu Hồng : Theo tôi biết, trong một cuộc Hội thảo tại Quảng Ninh, Bộ trưởng Lao động, Thương Binh và Xă hội có nêu vấn đề như anh vừa trao đổi, rằng chúng ta không nên coi mại dâm là một tệ nạn xă hội, và nên đặt vấn đề có thể nh́n nhận nó như một công việc, như một nghề được hay không ?
Đấy là cách mà báo chí Việt Nam đưa tin về phát biểu của bà Bộ trưởng. Nhưng mới gần đây, có những thông tin khá chính thống từ Cục Pḥng chống Tệ nạn Xă hội. Những người phụ trách cục đó phát biểu rằng mại dâm vẫn phải bị coi là một tệ nạn xă hội và không thể coi mại dâm là một nghề. Cái lư do mà họ đưa ra th́ nó gây ra nhiều tác hại về xă hội cũng như về sức khỏe, đặc biệt là liên quan đến HIV. Có phát biểu của các lănh đạo của cục đó nói rằng, báo chí không hiểu đúng tinh thần của bà bộ trưởng. Bà bộ trưởng nói với tinh thần là cố gắng để những người làm công việc mại dâm không bị tổn thương, để tránh cho họ không có nguy cơ về sức khỏe,… chứ không có ư là coi mại dâm là một nghề.
Những câu chuyện này có lẽ chỉ người trong cuộc mới biết rơ.
Khi nghe tin đầu tiên, tôi cảm thấy phấn khởi, v́ trong nhiều năm nay, tôi đă cố gắng để kêu gọi xă hội và những người làm chính sách thay đổi cách nh́n đối với mại dâm, và nên coi nó là một nghề, mặc dù cái nghề đó nhiều người không tán thành. Đứng về mặt đạo đức xă hội, phần lớn mọi người trong xă hội, cũng như phần lớn các xă hội đều không tán thành. Tôi nghĩ rằng ở Mỹ hay ở Pháp, hay ở bất cứ nước nào, đa số người dân cũng không ưa thích mại dâm cả. Nhưng mại dâm cũng là một thực tế xă hội mà nhiều nơi đă chấp nhận rằng, nó không thể không tồn tại.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, như tôi được biết, có những cân nhắc nên « giải quyết » mại dâm như thế nào. Có những ư tưởng như : có thể coi đó là một công việc, hay một nghề, cũng có ư tưởng những "khu đèn đỏ". Nhưng cũng c̣n rất nhiều tranh luận xung quanh giải pháp đó. Cho đến hiện nay, quan điểm chính thống coi mại dâm là "tệ nạn xă hội" và chưa thừa nhận đó là một nghề.
Quá tŕnh xă hội để đi đến sự thống nhất, coi mại dâm là một nghề, tôi nghĩ rằng c̣n phải cần thời gian nữa.
RFI : Xin phép hỏi chị, việc coi nghề bán dâm là một tệ nạn xă hội, th́ sẽ có hệ quả ǵ về mặt xă hội ?
Khuất Thu Hồng : Hệ quả thứ nhất là dẫn đến việc mại dâm đi vào hoạt động bí mật. Bởi v́ dù muốn hay không, mại dâm vẫn tồn tại. Một số người ở trong xă hội vẫn cần đến dịch vụ đó. Ví dụ như, những người đàn ông chưa có vợ, những người đàn ông vợ chết, hay ly dị, hay những người không có khả năng để cưới vợ.
Việc mại dâm hoạt động bí mật rất khó kiểm soát và dễ dẫn đến t́nh trạng tội phạm, như buôn bán phụ nữ, cưỡng ép phụ nữ hành nghề mại dâm, rồi nhiều hành động phạm pháp liên quan đến vấn đề này, rồi trẻ em sẽ bị ép buộc…
Thứ hai là, việc mại dâm bị coi là bất hợp pháp và phải hoạt động bí mật dẫn đến việc khó cung cấp các dịch vụ y tế sức khỏe một cách thường xuyên cho những người bán dâm. Tất nhiên họ cũng đi chữa bệnh, nhưng là ở những chỗ không đáng tin cậy. Và điều này ảnh hưởng đến sức khỏe của họ. Nhưng ảnh hưởng đến sức khỏe của họ th́ không chỉ hại cho họ, mà c̣n hại đến khách hàng của họ. Và từ khách hàng của họ, th́ có thể dẫn đến vợ con, rồi bạn gái, bạn t́nh của những khách hàng đó, ảnh hưởng như thế sẽ lan truyền đến cộng đồng và xă hội.
Ít nhất là có hai hậu quả nghiêm trọng như vậy, nếu như mại dâm không đươc quản lư chính thức.
RFI : Thưa chị, là người nghiên cứu trực tiếp và đồng thời là người có hiểu biết rộng về lĩnh vực này, chị có thể cho biết một vài con số để cho thấy ảnh hưởng của việc mua bán dâm tại Việt Nam ?
Khuất Thu Hồng : Ở Việt Nam, mại dâm không được coi là một nghề, nên việc nghiên cứu mại dâm là một việc rất khó khăn. Rất khó để tiếp cận với những người làm nghề này để phỏng vấn và ước lượng xem là bao nhiêu người. Nhưng theo những số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh, Xă hội, th́ ở Việt Nam có khoảng 30.000 người bán dâm, và hành nghề trên khoảng 100.000 có kinh doanh dịch vụ này, hoặc các cơ sở trá h́nh, như tiệm mát xa, gội đầu, cắt tóc, nhà tắm hay karaoke, … Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ước tính con số người hành nghề mại dâm tại Việt Nam có thể dao động từ 300.000 đến 500.000 người. Đấy là một con số đáng kể.
Nếu nói về những tác hại do mại dâm không được quản lư chính thức, nó có thể đẻ ra chuyện như tôi vừa nói, những người mắc bệnh qua đường t́nh dục, như HIV, không được điều trị. Theo các nghiên cứu về HIV và những người bán dâm, th́ có rất nhiều người làm nghề mại dâm không dùng các biện pháp bảo vệ, chẳng hạn như dùng bao cao su một cách thường xuyên và nhất quán. Ví dụ phần lớn những người bán dâm dùng bao cao su với khách hàng quen, hoặc khách hàng mới, nhưng với khách hàng quen, hoặc người t́nh hay người yêu của họ th́ họ lại không dùng. Trong khi đó, trong số những người yêu, người t́nh hay chồng của những người làm nghề này lại có nhiều người tiêm chích ma túy. Mà những người tiêm chính ma túy hay phải tiêm chích chung, v́ họ ít tiền. Khi tiêm chích chung th́ khả năng lây nhiễm rất cao. Như thế, anh có thể h́nh dung đường lây truyền nó lan từ đâu, tới đâu, đúng không ?
Hiện nay, về dịch HIV ở Việt Nam, các nghiên cứu cũng như các dự báo về dịch tễ học cho thấy cái tỷ lệ lây nhiễm HIV qua tiêm chích ma túy th́ đang có chiều hướng giảm, trong khi đó, tỷ lệ lây HIV qua đường t́nh dục đang có chiều hướng tăng. Đấy là điều đáng lo ngại.
RFI : Thưa chị, việc tiếp tục coi mại dâm là một tệ nạn xă hội theo quan điểm « đạo đức » gắn liền với cái giá phải trả, như chị vừa nói, về bệnh tật không được kiểm soát, cũng như những tệ nạn đi kèm theo. Vậy cái « đạo đức » đó có phải trả giá quá đắt với những thiệt hại kia không ?
Khuất Thu Hồng : Cá nhân tôi cho rằng cái giá như vậy là đắt. Tuy nhiên, nếu đặt ḿnh ở địa vị những người quản lư, lănh đạo đất nước, tôi cũng h́nh dung được các áp lực lên họ. Áp lực về mặt chính trị, áp lực về mặt xă hội, trong việc có công nhận mại dâm là một nghề hay không.
Tại v́ ở Việt Nam, tôi cho rằng, nếu bây giờ trưng cầu ư kiến của người dân, tôi sợ c̣n rất nhiều người phản đối và cũng coi đó là « một tệ nạn xă hội ». Họ đă quen nghĩ như thế quá lâu rồi ! Và đặc biệt, phụ nữ rất lo sợ cho an nguy của gia đ́nh, cho chồng, con. Cho nên, chắc chắn (đa số) phụ nữ sẽ phản đối.
Vấn đề là, người ta thường h́nh dung và tưởng tượng khá dễ những nguy hại cho « hạnh phúc gia đ́nh », đứng từ góc độ chung thủy hay không chung thủy. Đấy là « đạo đức xă hội » được đề cao, c̣n tác hại của mại dâm có thể gây ra đến sức khỏe th́ lại chỉ liên quan đến từng cá nhân cụ thể, nên rất khó để « nh́n thấy ». Vấn đề là nghiên cứu để chứng minh được rằng, mại dâm đi vào bí mật có thể gây ra các tác hại, khiến cho bao nhiêu người bị mắc bệnh, th́ các nghiên cứu như vậy rất khó được thực hiện. V́ vậy, khó có bằng chứng để thuyết phục mọi người rằng : nếu tiếp tục coi mại dâm là một tệ nạn xă hội, các vị sẽ phải trả một cái giá x, với việc một năm sẽ có từng ấy người bị mắc HIV chẳng hạn. Rất khó để mà có được những con số để thuyết phục mọi người.
Vấn đề t́nh dục ở Việt Nam là một vấn đề rất là bị kiêng kỵ. Người ta rất là ghét. Nghĩ đến nó đă là xấu xa rồi. Vậy mà lại c̣n dịch vụ t́nh dục, c̣n bán dâm, th́ đó là điều không thể chấp nhận được. Tôi nghĩ rằng để cân nhắc giữa hai cái giá đấy, người ta sẽ thường chọn giải pháp đầu. Tức là, cứ tiếp tục coi mại dâm là một vấn đề « đạo đức xă hội ».
Để gọi là « tỉnh táo » xét đoán giữa các nguy hại của các vấn đề sức khỏe và « đạo đức », th́ có lẽ lúc nào người ta cũng thường lựa chọn « đạo đức » nhiều hơn.
RFI : Đứng ở góc độ của một người hoạt động xă hội và làm khoa học, chị làm ǵ và sẽ làm như thế nào trong t́nh trạng hiện nay trong lĩnh vực này ?
Khuất Thu Hồng : Từ rất nhiều năm nay, tôi luôn kêu gọi để có thay đổi quan điểm đối với mại dâm, chẳng hạn có thể coi là một nghề, cũng có thể không hợp pháp hóa nó, nhưng cho phép hoạt động, như ở Thái Lan, tại một số khu vực nhất định, th́ điều này sẽ giúp cho việc giảm đi các nguy cơ đối với những người làm nghề mại dâm, cũng như các khách hàng của họ. Để những người này có thể được cung cấp các dịch vụ về y tế, dịch vụ về an ninh, … Nhiều năm nay, tôi đă kiên tŕ quan điểm này, và tôi cũng cố gắng rằng, dù chúng ta ghét mại dâm, dù chúng ta không chấp nhận, nó vẫn tồn tại, chừng nào c̣n loài người, mại dâm vẫn tồn tại, v́ vẫn c̣n những người cần đến dịch vụ này.
Dù rằng đại đa số trong xă hội có thể có gia đ́nh tốt đẹp và hạnh phúc, th́ vẫn có một số người nào đó không có điều kiện để có gia đ́nh, th́ những người đấy vẫn cần một dịch vụ t́nh dục, và nếu một dịch vụ t́nh dục được tổ chức một cách nghiêm túc và an toàn, th́ có lẽ nó mang lại lợi ích cho những người cần nó, đồng thời mang lại an toàn cho xă hội. Đấy là quan điểm của tôi.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Khuất Thu Hồng.
theo rfi