Hanna
07-23-2011, 10:59
Hiệu Minh Blog. Độc giả Lư Quư Vũ vừa phát hiện rất thú vị khi t́m ra Hiến pháp 1946 và chuyện liên quan đến Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai.
Cho đến thời điểm hiện nay, các blog, báo chí của cả hai bên đều phân tích rất kỹ bối cảnh của Công hàm 1958 và hệ lụy khó lường tới chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp.
Có nhiều luồng ư kiến cho rằng, HS và TS khi đó thuộc Việt Nam Cộng Ḥa (Miền Nam) th́ việc TTg Phạm Văn Đồng ngầm đồng ư “cho” Trung Quốc là không đúng, v́ người ta không thể cho cái không phải của ḿnh.
Hơn nữa, trong câu chữ của Công hàm, không hiểu do vô t́nh hay cố ư mà phía VNDCCH chỉ công nhận lănh hải của TQ là 12 hải lư mà không hề nhắc đến hai quần đảo TS và HS. Và c̣n nhiều ư kiến khác nữa.
Tuy nhiên, ư kiến của Lư Quư Vũ là một phát hiện mới lạ, chưa có ai đề cập. Để đảm bảo tính đa chiều, Hiệu Minh blog xin đăng lại Tuyên bố của Trung Quốc và Công hàm 1958.
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa về lănh hải
1. Lănh hải của nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lư. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc
2. Lănh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thuỷ vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lư là lănh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mă Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
3. Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lănh hải vào không gian trên lănh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lănh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa.
4. Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp.
Công hàm do Thủ tướng Phạm Văn Đồng kư (tạm gọi là Công hàm 1958)
“Thưa đồng chí Tổng lư,Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lư rơ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lư lời chào trân trọng”.
Theo bạn Lư Quí Vũ, năm 1958, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (VNDCCH) đang tuân theo Hiến pháp 1946 (HP1946). Đứng đầu Chính phủ VN là Chủ tịch nước, không phải là Thủ tướng (TTg), TTg chỉ là thành viên trong nội các.
Hiến pháp năm 1946 quy định:
Điều 43: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Điều 44: “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó thủ tướng.”
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=108226&stc=1&d=1311418774
Đảo Núi le ở Trường Sa. Ảnh: internet
Như vậy, việc TTg PVĐ kư công hàm 1958 mà không có dẫn đề: “Thừa lệnh Chủ tịch nước VNDCCH” là trái với quy định của HP1946, tức Công hàm 1958 có thể đă vi hiến. Lư do:
Điều 49, HP1946 nói rơ:
“Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà:
a) Thay mặt quốc gia…
h) Kư hiệp ước với các nước…
Điều 53 c̣n nhấn mạnh quyền hạn của Chủ tịch nước: “Mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải có chứ kư của Chủ tịch nước Việt Nam”.
Công hàm 1958 là một dạng hiệp ước biên giới, v́ vậy, theo HP1946, người kư hợp hiến Công hàm này phải là Chủ tịch nước VNDCCH. Hoặc nếu không, th́ TTg phải viết thêm câu “Thừa lệnh Chủ tịch nước…” và có chữ kư của Chủ tịch nước.
Đúng sai thế nào xin nhường lời cho các nhà làm luật chính thức lên tiếng là liệu Công hàm 1958 có vi hiến nếu áp dụng Hiến pháp 1946.
Nội dung HP1946 tại đây:
http://laws.dongnai.gov.vn/1945_to_1950/1946/194611/194611090001
Bên Chính phủ đă lo hết rồi. Chúng ta cứ yên tâm.
Bàn trong blog như thế này là để cặp nhật tri thức cho chính mỗi chúng ta, nhằm dạy con cháu những bài học sơ đẳng về chủ quyền quốc gia và thể hiện t́nh yêu đất nước.
Cảm ơn Lư Quư Vũ rất nhiều.
Hiệu Minh Blog.
Cho đến thời điểm hiện nay, các blog, báo chí của cả hai bên đều phân tích rất kỹ bối cảnh của Công hàm 1958 và hệ lụy khó lường tới chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp.
Có nhiều luồng ư kiến cho rằng, HS và TS khi đó thuộc Việt Nam Cộng Ḥa (Miền Nam) th́ việc TTg Phạm Văn Đồng ngầm đồng ư “cho” Trung Quốc là không đúng, v́ người ta không thể cho cái không phải của ḿnh.
Hơn nữa, trong câu chữ của Công hàm, không hiểu do vô t́nh hay cố ư mà phía VNDCCH chỉ công nhận lănh hải của TQ là 12 hải lư mà không hề nhắc đến hai quần đảo TS và HS. Và c̣n nhiều ư kiến khác nữa.
Tuy nhiên, ư kiến của Lư Quư Vũ là một phát hiện mới lạ, chưa có ai đề cập. Để đảm bảo tính đa chiều, Hiệu Minh blog xin đăng lại Tuyên bố của Trung Quốc và Công hàm 1958.
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa về lănh hải
1. Lănh hải của nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lư. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc
2. Lănh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thuỷ vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lư là lănh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mă Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
3. Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lănh hải vào không gian trên lănh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lănh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa.
4. Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các ḥn đảo xung quanh, những ḥn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những ǵ thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lănh thổ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng ḥa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp.
Công hàm do Thủ tướng Phạm Văn Đồng kư (tạm gọi là Công hàm 1958)
“Thưa đồng chí Tổng lư,Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lư rơ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lư lời chào trân trọng”.
Theo bạn Lư Quí Vũ, năm 1958, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa (VNDCCH) đang tuân theo Hiến pháp 1946 (HP1946). Đứng đầu Chính phủ VN là Chủ tịch nước, không phải là Thủ tướng (TTg), TTg chỉ là thành viên trong nội các.
Hiến pháp năm 1946 quy định:
Điều 43: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Điều 44: “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó thủ tướng.”
http://iyouphim.com/forum/attachment.php?attac hmentid=108226&stc=1&d=1311418774
Đảo Núi le ở Trường Sa. Ảnh: internet
Như vậy, việc TTg PVĐ kư công hàm 1958 mà không có dẫn đề: “Thừa lệnh Chủ tịch nước VNDCCH” là trái với quy định của HP1946, tức Công hàm 1958 có thể đă vi hiến. Lư do:
Điều 49, HP1946 nói rơ:
“Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà:
a) Thay mặt quốc gia…
h) Kư hiệp ước với các nước…
Điều 53 c̣n nhấn mạnh quyền hạn của Chủ tịch nước: “Mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải có chứ kư của Chủ tịch nước Việt Nam”.
Công hàm 1958 là một dạng hiệp ước biên giới, v́ vậy, theo HP1946, người kư hợp hiến Công hàm này phải là Chủ tịch nước VNDCCH. Hoặc nếu không, th́ TTg phải viết thêm câu “Thừa lệnh Chủ tịch nước…” và có chữ kư của Chủ tịch nước.
Đúng sai thế nào xin nhường lời cho các nhà làm luật chính thức lên tiếng là liệu Công hàm 1958 có vi hiến nếu áp dụng Hiến pháp 1946.
Nội dung HP1946 tại đây:
http://laws.dongnai.gov.vn/1945_to_1950/1946/194611/194611090001
Bên Chính phủ đă lo hết rồi. Chúng ta cứ yên tâm.
Bàn trong blog như thế này là để cặp nhật tri thức cho chính mỗi chúng ta, nhằm dạy con cháu những bài học sơ đẳng về chủ quyền quốc gia và thể hiện t́nh yêu đất nước.
Cảm ơn Lư Quư Vũ rất nhiều.
Hiệu Minh Blog.