PDA

View Full Version : Kiểm toán giá xăng dầu có làm giá xăng dầu giảm?


Hanna
07-30-2011, 15:23
H́nh: AP

Kiểm toán giá xăng dầu đang là chủ đề nóng và được dư luận hết sức quan tâm. Điều bất thường là có vẻ như ngay cả những người làm quản lư nhà nước về lĩnh vực này cũng không có tiếng nói chung: Trong khi Bộ Công thương phản đối chủ trương này th́ Bộ Thương mại lại ủng hộ.

Đại diện cho Bộ Công thương, thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú cho rằng “hiện cấu thành giá xăng dầu đều được cập nhật trên bản tin thị trường, trong đó nói rơ giá nhập khẩu bao nhiêu, thuế bao nhiêu, trích quỹ b́nh ổn bao nhiêu. Phần lớn người tiêu dùng hiện nay không hiểu hoặc cố t́nh không t́m hiểu nên mới có đề xuất kiểm toán giá xăng dầu”.

Trong khi đó, một quan chức Bộ tài chính là ông Nguyễn Tiến Thỏa, Cục trưởng Cục quản lư giá, th́ lại cho rằng việc kiểm toán độc lập giá xăng dầu là hoàn toàn nên làm, để tăng tính minh bạch và công khai về giá bán xăng dầu trong nước. Một nhân vật khác, cũng thuộc Bộ Tài chính, là ông Vũ Đ́nh Ánh, Vụ nghiên cứu giá cả, cũng nhận định: “Thông tin mà doanh nghiệp đưa ra là một phần, nhưng vấn đề là không có ai, cơ quan nào đứng ra kiểm soát sự chính xác của thông tin đó. Tôi nghĩ cần phải có một đơn vị độc lập làm việc này …”

Câu chuyện khá kỳ lạ này khiến nhiều người đặt dấu hỏi về việc có nên kiểm toán hay không, và trong hai quan điểm trên của Bộ Công thương và Bộ Tài chính, cái nào đúng, cái nào sai?

Cơ chế h́nh thành giá xăng dầu

Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống hàng ngày của người dân và t́nh h́nh sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. V́ thế, nó luôn được đưa vào diện bị quản lư về giá. Việc giá cả xăng dầu biến động thất thường, và nh́n chung là tăng nhiều hơn giảm, khiến nhiều người thắc mắc về cơ chế h́nh thành giá xăng dầu ở Việt Nam.

Nhu cầu tiêu thụ xăng dầu ở Việt Nam hiện nay được đáp ứng phần lớn bởi nguồn nhập khẩu do 11 doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu xăng dầu thực hiện, trong đó Petrolimex là đầu mối lớn nhất với 50% thị phần. Nhiều trong số các doanh nghiệp này vừa thực hiện việc nhập khẩu và bán buôn (kinh doanh đầu nguồn) vừa thực hiện việc phân phối bán lẻ (kinh doanh cuối nguồn). Thí dụ Petrolimex vừa nhập khẩu vừa phân phối bán lẻ xăng dầu với khoảng hơn 2000 cửa hàng bán lẻ trực thuộc và 4.000 đại lư, tổng đại lư trên phạm vi toàn quốc.

Trên nguyên tắc, các doanh nghiệp này cạnh tranh với nhau để cung cấp xăng dầu cho người dân và doanh nghiệp. V́ sản phẩm xăng dầu là sản phẩm khá thuần nhất về chất lượng, cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp này sẽ chủ yếu là về giá. Nói nôm na là ai bán rẻ hơn sẽ có khách hàng. Trong một cuộc chơi như vậy, giá cả xăng dầu sẽ thấp, người dân và doanh nghiệp được lợi, c̣n các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu sẽ không thể có lăi cao.

Thế nhưng nguyên tắc chỉ là nguyên tắc. Có nhiều lư do khiến cho t́nh h́nh thị trường thực tế không diễn biến giống như nguyên tắc lư thuyết:

Thứ nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông qua nhiều cơ chế như các hiệp hội có thể cấu kết với nhau để nâng giá bán lẻ. Trường hợp này thường bị luật pháp ngăn cấm (luật chống độc quyền). Ở Việt Nam, luật cạnh tranh cũng cấm các hành vi cấu kết để nâng giá. Tuy nhiên, việc thực hiện luật cạnh tranh ở Việt Nam vẫn c̣n rất yếu. Các doanh nghiệp khi bị phát hiện “làm giá” chỉ bị xử phạt nhẹ và không tạo được tính răn đe.

Thứ hai, các doanh nghiệp bán lẻ thường có xu hướng “cát cứ”, có nghĩa là một ḿnh nắm một địa bàn nhất định. Người tiêu dùng xăng dầu ở các địa bàn này không có lựa chọn thay thế do đó buộc phải sử dụng nhà phân phối “độc quyền” của địa phương. Trong các trường hợp đó, giá bán lẻ có thể tăng cao hơn mức giá cạnh tranh b́nh thường.

Thứ ba, trong trường hợp một hoặc một vài doanh nghiệp nắm thị phần quá lớn th́ họ có đủ quyền lực thị trường để chủ động tăng giá. Kinh tế học phương tây gọi các doanh nghiệp này là thủ lĩnh của thị trường với vai tṛ then chốt (market leader with pivotal role). Lư do các doanh nghiệp này có thể tăng giá là họ chỉ cần thu hẹp bớt một phần sản lượng cung cấp ra (economic withholding) th́ ngay lập tức sẽ tạo sự khan hiếm giả tạo trên thị trường khiến cho giá cả tăng vọt. Trong trường hợp ở Việt Nam, Petrolimex với hơn 50% thị phần hoàn toàn có thể làm được chuyện này nếu họ muốn.

Ở Việt Nam, giá xăng dầu c̣n bị chi phối bởi một yếu tố khác nữa là chính sách quản lư giá và điều tiết của nhà nước. Với chính sách quản lư giá cả, doanh nghiệp không c̣n là nhân tố duy nhất quyết định giá bán một sản phẩm phải là bao nhiêu mà nhà nước cũng tham gia xác định khung giá. Điều này tạo ra sự phức tạp nhất định trong diễn biến của giá cả và phần nhiều là làm cho giá cả có xu hương tăng cao hơn giá cạnh tranh của thị trường. (c̣n tiếp)

* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ư của Đài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Hanna
07-30-2011, 15:23
Trong trường hợp giá xăng dầu ở Việt Nam, Điều 17 của Nghị định 84/2009 quy định rơ “thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá bán buôn” nhưng giá bán lẻ th́ bị nhà nước điều tiết theo một số nguyên tắc sau (trong trường hợp tăng giá):

1. Không điều chỉnh giá thường xuyên: Hai lần điều chỉnh tăng giá cách nhau ít nhất là 10 ngày;

2. Trong trường hợp giá cơ sở tăng trong phạm vi nhỏ hơn 7% so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối được quyền tăng giá bán lẻ tương ứng;

3. Trường hợp giá cơ sở tăng từ 7% đến 12% so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối được quyền tăng giá với mức tăng bằng 7% của giá bán lẻ hiện hành cộng với 60% của mức giá cơ sở tăng trên 7% đến 12%. Phần 40% c̣n lại sẽ được bù đắp bởi Quỹ B́nh ổn giá;

4. Trường hợp giá cơ sở tăng trên 12% so với giá bán lẻ hiện hành hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xă hội và đời sống nhân dân, Nhà nước công bố áp dụng các biện pháp b́nh ổn giá thông qua điều hành thuế, quỹ B́nh ổn giá, và các phương pháp khác.

Như vậy, cột mốc để nhà nước quyết định cho điều chỉnh giá là “giá cơ sở”. Để tăng giá bán lẻ, nhà phân phối phải chứng minh được giá cơ sở đă có sự thay đổi. Theo Nghị định 84/2009, “giá cơ sở” bằng giá nhập khẩu cộng với các loại thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, nộp Quỹ b́nh ổn giá, các chi phí kinh doanh định mức, lợi nhuận định mức trước thuế, thuế giá trị gia tăng, phí xăng dầu, và các loại thuế và phí phải nộp khác theo quy định của nhà nước.

Chi phí kinh doanh định mức là một dạng định mức theo đó một doanh nghiệp phân phối có thể chi tối đa theo quy định là bao nhiêu tiền trên một lít xăng dầu bán ra. Và lợi nhuận trước thuế định mức là mức lợi nhuận mà họ được nhà nước đồng ư cho giữ lại. Thí dụ, giá nhập khẩu một lít xăng là 10 ngh́n đồng, tất cả các loại thuế và phí là 5 ngh́n đồng, chi phí kinh doanh định mức là 3 ngh́n đồng và lợi nhuận định mức trước thuế là 200 đồng th́ giá cơ sở sẽ là 18200 đồng cho mỗi lít xăng.

Giá cơ sở có thể thay đổi khi giá nhập khẩu xăng dầu tăng, do phá giá VND, do nhà nước thay đổi chính sách thuế, hoặc do nhà nước thay đổi quy định về chi phí kinh doanh định mức và lợi nhuận định mức trước thuế. V́ thế, để tăng giá cơ sở, doanh nghiệp có thể thực hiện:

(1) Tăng giá nhập khẩu, tức là mua vào với giá cao. Nếu nhà nước không có quy định về việc giá nhập khẩu phải dựa trên giá xăng dầu thế giới th́ doanh nghiệp có thể dễ dàng tăng giá nhập khẩu để kiếm lợi bằng cách sử dụng một công ty lập ra ở nước ngoài để mua tận gốc với giá rẻ rồi bán cho doanh nghiệp phân phối ở Việt Nam với giá đắt;

(2) Tăng chi phí kinh doanh và vận động nhà nước điều chỉnh quy định về chi phí kinh doanh định mức. Hiện tượng này cực kỳ phổ biến ở tất cả các nền kinh tế trên thế giới khi có quản lư giá. Doanh nghiệp thường hay kêu than với nhà nước nhằm xin tăng chi phí kinh doanh định mức để qua đó nâng giá cơ sở. Cũng thí dụ ở trên, nếu nhà nước cho phép họ nâng chi phí kinh doanh định mức lên 4000 đồng th́ giá cơ sở sẽ ngay lập tức nâng lên 19200 đồng. Các doanh nghiệp ăn theo cơ chế theo kiểu này thường có động cơ tiêu xài hoang phí v́ họ đă có nhà nước giúp chuyển gánh nặng chi phí này tới người tiêu dùng.

(3) Vận động nhà nước điều chỉnh lợi nhuận định mức trước thuế. Điều này khó hơn v́ nhà nước ít khi muốn cho các doanh nghiệp phân phối lăi quá nhiều. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn có thể kêu than với nhà nước xin điều chỉnh tăng lợi nhuận định mức trước thuế với các lư do như để có vốn tái đầu tư vào tài sản cố định, nâng cao năng lực kinh doanh. Theo tuyên bố mới đây của Tổng giám đốc Petrolimex Bùi Ngọc Bảo[i] th́ từ quư 4 năm 2011 “lợi nhuận định mức của mỗi lít xăng dầu sẽ là 300 đồng.” Có vẻ như đây là một đợt thay đổi (tăng?) về lợi nhuận định mức có lợi cho các doanh nghiệp phân phối này.

Kiểm toán hay không kiểm toán

Bản chất của kiểm toán giá xăng dầu, nếu thực hiện, sẽ là sử dụng các đơn vị kiểm toán độc lập để tính toán lại giá cơ sở của các doanh nghiệp phân phối. Trên cơ sở đó có thể kết luận các doanh nghiệp này có tính đúng giá cơ sở khi xin điều chỉnh (tăng) giá xăng dầu hay không. Trong trường hợp các doanh nghiệp phân phối tính giá cơ sở quá cao so với số liệu mà kiểm toán tính được th́ nhà nước có thể không cho phép các doanh nghiệp này tăng giá bán lẻ xăng dầu. Thậm chí nếu phát hiện các doanh nghiệp này cố t́nh tính sai giá cơ sở trong quá khứ để xin tăng giá th́ nhà nước có thể phạt các doanh nghiệp phân phối này về tội gian lận.

Tuy nhiên, sâu xa hơn, vẫn là câu chuyện về cơ chế h́nh thành giá xăng dầu. Ngay cả khi các doanh nghiệp tính đúng giá cơ sở th́ điều đó không có nghĩa là giá xăng dầu sẽ là mức giá cạnh tranh. Như phân tích ở trên, các doanh nghiệp vẫn có nhiều cách để nâng giá cơ sở một cách hợp pháp để trục lợi và dành phần thiệt tḥi về phía người tiêu dùng. V́ thế, về dài hạn, Việt Nam chỉ có thể giải quyết dứt điểm được câu chuyện giá xăng dầu minh bạch, cạnh tranh, và rẻ tương đối cho người tiêu dùng khi Việt Nam xóa bỏ các biện pháp quản lư hành chính về giá, tự do hóa thị trường này, và quyết liệt vận dụng luật cạnh tranh để ngăn chặn các hành vi cấu kết giữa các doanh nghiệp nhằm tăng giá trục lợi.

Quá tŕnh tự do hóa, hay c̣n gọi là phi tập trung hóa (de-regulation) thị trường xăng dầu là một quá tŕnh phức tạp. Nếu không thực hiện đúng, de-regulation có thể dẫn tới chuyện quyền lực thị trường tập trung hết vào một vài doanh nghiệp có thị phần khống chế. Trên cơ sở nắm được quyền lực này, các doanh nghiệp lớn sẽ nâng giá và bắt chẹt khách hàng. Chính v́ vậy, de-regulation phải đi kèm với việc triệt để thực thi luật cạnh tranh. Thế giới đă có nhiều bài học quư giá (và nhiều khi cay đắng) về việc này và Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi từ những sai lầm của họ.

[i] http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/07/khong-can-kiem-toan-gia-xang-dau/

* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ư của Đài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.