PDA

View Full Version : Chủ quyền Biển Đông dưới góc nh́n pháp lư


Romano
08-09-2011, 05:29
<table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="450"><tbody><tr><td><table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" width="450"><tbody><tr><td>Thời gian gần đây, truyền thông Trung Quốc liên tiếp lên tiếng khẳng định cái gọi là “chủ quyền” ở Biển Đông, vu cáo Việt Nam và các nước Đông Nam Á chiếm Biển Đông, xuyên tạc Công ước Luật Biển năm 1982 của LHQ (UNCLOS 82). Trong bối cảnh đó, việc làm rơ vấn đề Biển Đông dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, đặc biệt là (UNCLOS 82) là vấn đề cấp bách.
</td> </tr> <tr> <td> </td> </tr> </tbody> </table> </td> </tr> <tr> <td> <table align="right" border="0" cellpadding="0" cellspacing="3" width="200"> <tbody> <tr> <td> http://lichsuphatgiao.files .wordpress.com/2011/06/screenhunter_019.jpg ?w=284&h=451 (http://lichsuphatgiao.files .wordpress.com/2011/06/screenhunter_019.jpg )</td> </tr> <tr> <td> Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn vẽ khoảng năm 1838, đă vẽ “Hoàng Sa”, “Vạn lư Trường Sa” thuộc lănh thổ Việt Nam
</td> </tr> </tbody> </table> Hội nghị Luật Biển lần thứ III của LHQ (1967- 1982) đă thông qua UNCLOS 82 với 320 điều khoản và 9 phụ lục. Công ước xác lập rơ ràng quy chế pháp lư của các vùng biển khác nhau thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển, quy định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khi tiến hành các hoạt động liên quan đến biển và thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến thực hiện Công ước và giải quyết tranh chấp biển như Ṭa án Luật Biển quốc tế, Hội nghị các quốc gia thành viên của Công ước, Cơ quan Quyền lực quốc tế về Đáy Đại dương và Ủy ban Thềm lục địa. Đến nay, đă có 161 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước này, trong đó có 7 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xinhgapo, Brunây.
Áp dụng UNCLOS 82 vào điều kiện cụ thể của Biển Đông, mỗi quốc gia ven Biển Đông có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư và thềm lục địa tối thiểu 200 hải lư của ḿnh. Chiều rộng của hai vùng biển này đều được đo từ đường cơ sở dùng để tính lănh hải. Trường hợp thềm lục địa thực tế lớn hơn 200 hải lư th́ quốc gia ven Biển Đông có thể mở rộng thềm lục địa đến 350 hải lư với điều kiện tuân thủ các quy định và thủ tục trong Công ước. Mỗi quốc gia ven Biển Đông có toàn quyền thăm ḍ, khai thác các tài nguyên trong vùng biển của ḿnh, đặc biệt là trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, để phục vụ đời sống nhân dân và phát triển đất nước; có toàn quyền quyết định cho phép hay không cho phép các quốc gia khác khai thác tài nguyên trong các vùng biển của ḿnh; có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền đó của các quốc gia láng giềng ven Biển Đông. Đồng thời, có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia khác được tự do hàng hải, tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế và vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa quốc gia ven biển.
Cũng xuất phát từ UNCLOS 82 th́ sự kiện Trung Quốc kư hợp đồng với Công ty Creston năm 1992 ở băi Tư Chính của Việt Nam và chính thức đưa yêu sách “Đường lưỡi ḅ” ra LHQ vào tháng 5/2009 cần được nh́n nhận thế nào? Khu vực băi Tư Chính hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lư của Việt Nam và đă được Việt Nam phân lô thăm ḍ dầu khí. Việc Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc vào năm 1992 kư với Công ty Creston của Mỹ hợp đồng thăm ḍ dầu khí tại khu vực băi Tư Chính trong thềm lục địa 200 hải lư của Việt Nam (mà họ đặt tên là Vạn An Bắc) là sự vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam theo UNCLOS 82.
C̣n về yêu sách “Đường lưỡi ḅ” hay “Đường 9 đoạn”, th́ các học giả Trung Quốc đều biết rơ là tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội (2009) và Tp. Hồ Chí Minh (2010) cũng như các Hội thảo quốc tế khác, các học giả quốc tế đă nêu rơ yêu sách “Đường lưỡi ḅ” là không có cơ sở. Trung Quốc cần giải thích rơ bản chất pháp lư của các vùng biển trong “Đường lưỡi ḅ” nhưng đến nay, cả chính giới lẫn học giả Trung Quốc đều không thể đưa ra các câu trả lời thỏa đáng.
Dùng các quy định của UNCLOS 82 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia để đối chiếu th́ ai cũng thấy rằng, yêu sách này hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước có thể biện minh cho yêu sách “Đường lưỡi ḅ”. Việt Nam đă gửi công hàm đến Tổng Thư kư LHQ bác bỏ yêu sách này.
Việc Trung Quốc tiến hành các việc làm gần đây trên thực địa, như vụ cắt cáp tàu B́nh Minh 02 của Việt Nam ngày 26/5 và vụ phá cáp của tàu Viking II cũng của Việt Nam đang thăm ḍ địa chấn trong phạm vi 200 hải lư trên thềm lục địa của Việt Nam ngày 9/6 vừa qua, đang được dư luận chỉ ra rằng: Bắc Kinh đang áp dụng binh pháp biến cái không thể thành có thể, biến các khu vực không tranh chấp thành các khu vực tranh chấp để đ̣i hỏi được chia phần tài nguyên trên thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của nước láng giềng thông qua cái gọi là “gác tranh chấp cùng khai thác”. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận nhiều quốc gia khác cũng đă bày tỏ ư kiến bất b́nh trước yêu sách này.
Ở Biển Đông có hai loại tranh chấp, gồm tranh chấp về các vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn và tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do chiều rộng của một số khu vực ở Biển Đông (như vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan) hẹp hơn 400 hải lư, nên một phần vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia láng giềng chồng lấn lên nhau.
Liên quan Việt Nam, ở phía Bắc chúng ta có vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ và khu vực nhỏ phía ngoài cửa Vịnh, c̣n ở phía Nam có vùng chồng lấn với Campuchia, Thái Lan, Malaixia trong vịnh Thái Lan và vùng chồng lấn với Inđônêxia ở Nam Biển Đông. Các nước ven Biển Đông khác cũng có một số vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với nhau, như giữa Malaixia và Thái Lan, giữa Thái Lan và Campuchia, giữa Inđônêxia và Malaixia. Các khu vực chồng lấn này đă và đang từng bước được Việt Nam và các nước hữu quan giải quyết thỏa đáng theo các quy định của UNCLOS 82.
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa gồm nhiều đảo đá san hô nhỏ giữa Biển Đông. Hiện hai quần đảo là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa liên quan Việt Nam và Trung Quốc, c̣n tranh chấp về chủ quyền với quần đảo Trường Sa liên quan 5 nước, 6 bên là Việt Nam, Trung Quốc, Philíppin, Malaixia, Brunây (Brunây không yêu sách về chủ quyền các đảo) và Đài Loan (Trung Quốc).
Đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lănh thổ, pháp luật quốc tế đă h́nh thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực nhà nước một cách thật sự, liên tục và ḥa b́nh. Nguyên tắc này đă được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lănh thổ trên thế giới.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sự thực là Nhà nước Việt Nam đă chiếm hữu và thực hiện chủ quyền hai quần đảo này từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào.
Các bằng chứng mà Việt Nam đă thu thập được rất phong phú. Bao gồm, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đă gọi hai quần đảo bằng cái tên Băi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện B́nh Sơn, phủ Quảng Ngăi; nhiều sách cổ của Việt Nam khẳng định việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác quần đảo này; nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam; Nhà nước phong kiến Việt Nam đă tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để tiến hành khai thác hai quần đảo.
Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lư hai quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để bảo đảm an ninh, ngăn chặn buôn lậu. Đến những năm 50 của thế kỷ 20, lợi dụng việc Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), Trung Quốc đă chiếm nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền Việt Nam cộng ḥa kịch liệt phản đối. Đối với nhóm đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam cộng ḥa tiếp tục quản lư cho đến năm 1974. Năm 1974, Trung Quốc dùng không quân, hải quân chiếm phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam cộng ḥa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam đă phản đối. Năm 1975, chính quyền Sài G̣n sụp đổ, Nhà nước Việt Nam tiếp quản các đảo ở Trường Sa, lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa. Một sự thật hiển nhiên là cho đến trước năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 14/3/1988, Trung Quốc bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng một số đảo đá ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lư khẳng định chủ quyền của ḿnh đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
theo lichsuphatgiao

</td></tr></tbody></table>