Hanna
08-26-2011, 07:02
0. Mở đầu.
Việt Nam và Trung Quốc vừa tiến hành đàm phán ṿng 7, cấp chuyên viên về “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển” (từ ngày 29/7 đến 1/8/2011) tại Hà Nội. Chiều ngày 3/8/11, phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga cho hay, hai bên đă sơ bộ nhất trí với nhau về một số nguyên tắc.
“Các tranh chấp ở Biển Đông cần được giải quyết bằng các biện pháp ḥa b́nh, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Trong quá tŕnh giải quyết tranh chấp, hai bên thống nhất cần nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Không tiến hành bất cứ hành động nào nhằm mở rộng, phức tạp hóa tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
“Những vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc th́ giải quyết song phương, những vấn đề liên quan đến các bên khác th́ cần trao đổi giữa các bên liên quan.
Hai bên cũng thỏa thuận sẽ tổ chức ṿng đàm phán tiếp theo trong năm nay. Thời gian cụ thể sẽ thỏa thuận qua đường ngoại giao”. /Theo VietNamNet ngày 3/8/11/.
Như vậy Việt Nam và Trung Quốc đă 7 lần họp về Biển Đông. Nội dung 6 cuộc họp trước phủ kín trong màn bí mật bằng các thông báo nội dung chung chung như thông báo vừa dẫn trên.
Không nêu những điểm đang đàm phán, cũng như luận cứ các bên…
Bài viết nhằm giải mă chiến lược đàm phán của Trung Quốc. Đề nghị một chiến lược đàm phán cho Việt Nam. Phỏng đoán tương lai tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc khi yếu tố Hoa Kỳ trở nên nổi bật. Cải cách dân chủ vẫn được tích cực đề nghị, và một chút b́nh luận về lịch sử Hợp-Tan của Trung Quốc.
1. Đảng cộng sản Việt Nam đă thất bại trong chính sách quị lụy Trung Quốc, nhận viện trợ Trung Quốc để đoạt quyền lănh đạo dân tộc Việt Nam. Thất bại trong đấu tranh với Trung Quốc về lănh địa, lănh hải.
Trong lịch sử cận đại , Việt Nam cộng sản và Trung Quốc cộng sản đă 2 lần kư các hiệp ước, hiệp định về lănh thổ biên giới và chủ quyền vịnh Bắc Bộ.
Các thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam với Trung Quốc về biên giới “Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam và Trung Quốc” kư ngày 30/12/1999, về hải phận vịnh Bắc Bộ “Hiệp định Vịnh Bắc Bộ” được Việt Nam và Trung Quốc kư kết ngày 25/12/2000, đều mang lại thiệt tḥi cho Việt Nam.
Trên biên giới phía bắc, Việt Nam đă để mất 1500 km2 đất, bằng diện tích tỉnh Thái B́nh cùng với các địa danh lịch sử như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc… hay các cao điểm có tính chiến lược quốc pḥng như điểm cao 1509 Vị Xuyên, Hà Giang…
Trên vịnh Bắc Bộ, lănh hải của Việt Nam bị co lại so với Công ước Pháp-Thanh 1887.
Hiệp định Vịnh Bắc Bộ bao gồm 21 điểm phân định, cách xác định 21 điểm này là mập mờ và gây thiệt hại cho Việt Nam./ xem Dương Danh Huy, BBC 22 tháng 1, 2011/.
Đây là những hậu quả mà các thế hệ Việt Nam tương lai lại phải tiếp tục đấu tranh với Trung Quốc, nhằm xét lại những bất b́nh đẳng trong 2 hiệp định, hiệp ước trên.
Tại sao lại xẩy ra t́nh trạng này?
Đó là do nội dung của các thảo luận bị chính phủ Việt Nam giấu kín, không công khai thảo luận trong quốc hội Việt Nam trước khi kư kết. Như vậy là không có phản biện xă hội, phản biện nhân dân.
Riêng Đảng cộng sản Việt Nam, th́ từ lâu, các đảng viên của đảng này đă thấm nhuần tinh thần :
“Mối t́nh hữu nghị Việt-Hoa,
Vừa là đồng chí vừa là anh em.” Hồ Chí Minh.
Đây là nguồn gốc những thất bại trong các hiệp định, hiệp ước về biên giới đất liền và vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có hơn 3200 km bờ biển. Thế kỷ 21 này là kỷ nguyên của các quốc gia biển. Kỷ nguyên của khai thác tài nguyên biển. Trong chiến lược phát triển Việt Nam tương lai, Hoàng Sa, Trường Sa sẽ đóng một vai tṛ đặc biệt. Vị trí chiến lược đặc biệt của 2 quần đảo này đem lại cho Việt Nam an toàn lănh hải, lănh địa bờ biển quốc gia, ngăn chặn tấn công của mọi xâm lược từ khơi xa. Trữ lượng dầu hỏa cùng các khoáng sản khác của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ đem lại cho Việt Nam nguồn ngoại tệ to lớn để phát triển thành một quốc gia hiện đại văn minh. Trên một số đảo của Hoàng Sa, Trường Sa có thể xây dựng thành những bến tầu, cảng sửa chữa, cấp cứu các tầu bị nạn, các cứ điểm quân sự theo dơi các hoạt động hàng hải trên Biển Đông… Hàng triệu ngư dân Việt Nam ven Biển Đông có an toàn mưu sinh hay không, phụ thuộc vào chính trị biển của Việt Nam.
Ích lợi của Hoàng Sa, Trường Sa đối với dân tộc Việt Nam là không kể xiết.
Việt Nam do bị bịt mắt bởi quan điểm quốc tế vô sản và viện trợ Trung Quốc nhỏ nhoi so với lợi ích đem lại của Hoàng Sa, Trường Sa, mà đă không nhận ra sự thèm muốn của Trung Quốc đối với hai quần đảo này. Chính phủ cộng sản Việt Nam từ Phạm Văn Đồng tới nay luôn lùi bước, tạo cho Trung Quốc các cớ để chúng bành trướng ra Biển Đông , chiếm đoạt của Việt Nam Hoàng Sa, Trường Sa.
Chính phủ Việt Nam đă bán Boxit Tây Nguyên cho Trung Quốc với giá hữu nghị Việt-Trung, để hệ lụy an ninh lănh thổ cho chính thế hệ chúng ta, để hệ lụy môi trường cho con cháu Việt Nam.
Đây không chỉ một lần họ bán tài nguyên Việt Nam giá rẻ. Những ngày hôm nay, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng c̣n lẫn lộn bạn và thù :“Ta và Trung Quốc cần ḥa b́nh, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xă hội”.
2. Luận chứng và cách thức của Trung Quốc trong kế hoạch tiến ra Biển Đông.
Cho tới nay, theo những tin tức của truyền thông Trung Quốc, cũng như truyền thông thế giới, Trung Quốc khẳng định chủ quyền của họ ở Hoàng Sa, Trường Sa bằng những luận cứ sau đây.
21. Trung Quốc chạy xa về quá khứ : Trung Quốc có chủ quyền từ lâu đời đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Người Trung Quốc bành trướng tự cho rằng họ có chủ quyền từ đời Hán với Hoàng Sa, Trường Sa. Thực ra đây chỉ là hồ dán được vă nên từ nước lă xuông. Có thể người Trung Quốc cổ xưa đă biết đến Trường Sa, Hoàng Sa…nhưng những điều này không khẳng định được chủ quyền của Trung Quốc tại 2 quần đảo này. Muốn có chủ quyền, phải thiết lập hành chính, phải cai quản, khai thác 2 quần đảo. Chủ quyền theo nghĩa này thuộc về Việt Nam.
Trung Quốc không đưa ra được một bằng chứng lịch sử nào minh họa cho điều này.
Năm 1943, trong khi Thế Chiến II c̣n đang tiếp diễn, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đă hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đă kư Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó chủ quyền về Hoàng Sa, Trường Sa không được họ nhắc tới. Điều này chứng tỏ Hoàng Sa, Trường Sa mới chỉ xuất hiện trong tư duy chiến lược của Trung Quốc sau này./ xem Nguyễn Hữu Thống Hoàng Sa, Trường Sa theo Trung Quốc sử, DCV.info ngày 3/7/10.
22. Công hàm của Chu Ân Lai khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa ngày 4/9/1958. Công hàm của Phạm Văn Đồng công nhận lănh hải 12 hải lư của Trung Quốc.
Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa. Tại San Francisco năm 1951, Thủ tướng Việt Nam Trần Văn Hữu dơng dạc tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa trước cộng đồng thế giới gồm 51 quốc gia đồng minh chống Phát Xít. Chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông đă được thế giới công nhận. Khi công bố công hàm ngày 4/9/1958, Chu Ân Lai phải biết tuyên bố này của Thủ tướng Việt Nam. Việc Chu Ân Lai kèm chủ quyền của họ tại Hoàng Sa, Trường Sa vào công hàm lănh hải 12 hải lư là mẹo vặt, không xứng đáng với địa vị cường quốc của họ. Muốn tuyên bố chủ quyền, phải có bằng chứng lịch sử, bằng chứng pháp lư. Trung Quốc không có ǵ hết.
Vậy công hàm của Chu Ân Lai không có giá trị như một tuyên bố chủ quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa.
C̣n công hàm của Phạm Văn Đồng không có giá trị công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa. Đơn giản chỉ v́ Hoàng Sa, Trường Sa tại thời điểm 14/9/58 không nằm trong cai quản của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
23. Dùng viện trợ quốc tế vô sản cho Việt Nam, mê hoặc ban lănh đạo cộng sản Việt Nam bằng chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lợi dụng sự ấu trĩ cả ban lănh đạo Đảng cộng sản Việt Nam về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Trung Quốc khuyến khích Việt Nam nhấn sâu vào cuộc chiến với Hoa Kỳ quên đi sự ŕnh dập của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
24. Dùng chiến tranh để chiến Hoàng Sa, Trường Sa năm 1974, năm 1988, họ muốn dùng luật “la possession fait droit”/chiếm đóng là luật/. Dùng chiến tranh để uy hiếp uy hiếp Việt Nam khi Việt Nam có xu hướng xa rời Trung Quốc năm 1979.
Tóm lại luận chứng của Trung Quốc về chủ quyền của họ ở Hoàng Sa, Trường Sa là luận chứng mơ hồ, luận chứng giả.
Sự thật là Trung Quốc không có tí chủ quyền nào trên Hoàng Sa, Trường Sa trong quá khứ. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam từ lâu đời.
Sự thật là Trung Quốc đă dùng vũ lực cướp của Việt Nam Hoàng Sa 1974 và một số đảo tại Trường Sa 1988.
3. Không có tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa tại Biển Đông, mà chỉ có Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự chiếm của Việt Nam Hoàng Sa 1974, chiếm của Việt Nam một số đảo tại Trường Sa 1988.
Chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc về Việt Nam từ lâu đời.
Đây là mệnh đề cơ bản trong đấu tranh hội nghị với Trung Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam phải khẳng định rơ ràng điều này trong các đàm phán với Trung Quốc về t́nh h́nh Biển Đông.
Như vậy, để tiến hành các đàm phán song phương với Trung Quốc có kết quả, điều kiện đầu tiên mà Việt Nam phải đưa ra và đ̣i Trung Quốc thực hiện, trước khi chuyển sang các điểm khác, là Trung Quốc phải trở lại các t́nh trạng trước năm 1974 và trước 1988 tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Nếu Trung Quốc c̣n có ư định tuân thủ luật quốc tế, nếu Trung Quốc thực sự có ư định tin tưởng vào giải quyết căng thẳng Biển Đông bằng DOC như họ tuyên bố, th́ việc họ trở lại t́nh trạng trước 1974 và 1988 là thành ư đầu tiên.
Cho đến 1943, Trung Hoa Dân Quốc tại hội nghị Cairo vẫn chưa coi Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lănh hải Trung Quốc. Ngày 4-12-1950, Chu Ân Lai, lúc này là ngoại trưởng, tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943 là văn kiện lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đă kư kết để làm căn bản cho Ḥa Ước kư với Nhật Bản (Ḥa Ước San Francisco ngày 8-9-1951). (Chou En Lai’s Statement on the Peace Treaty with Japan. People’s China, 12-16-1950)/ trích Nguyễn Hữu Thống “Hoàng Sa, Trường Sa theo Trung Quốc sử”, DCV.info ngày 3/7/10.
Tại San Francisco năm 1951, Thủ tướng Việt Nam Trần Văn Hữu dơng dạc tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa trước cộng đồng thế giới gồm 51 quốc gia đồng minh chống Phát Xít. Chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông đă được thế giới công nhận. Công hàm của Chu Ân Lai ngày 4/9/1958 trên nền của hội nghị San Francisco chỉ là một mưu kế lợi dụng việc Việt Nam đang nhận viện trợ của Trung Quốc, lợi dụng thế của người đang cung cấp viện trợ để bịt tiếng phản đối của Việt Nam. Đây chỉ là mưu mẹo, không phải là bằng chứng chủ quyền.
Hoàng Sa, Trường Sa đă được người Việt Nam biến đến từ lâu đời và coi đây là lănh hải thiêng liêng của tổ quốc Việt Nam.
“Phủ biên tạp lục” của Lê Quư Đôn – một sử liệu quư viết về Hoàng Sa và Trường Sa soạn vào năm năm 1776 đă mô tả kỹ càng cách thức khai thác Hoàng Sa, Trường Sa của hai đội thuyền Bác Hải và đội Hoàng Sa.
Các bản đồ cổ của phương tây như Tài liệu do Hà Lan xuất bản năm 1606, được in lại năm 1613 trong tập địa dư “Atlas Mercator Hondius”, có thể được xem là một bằng chứng lịch sử về chủ quyền Việt Nam trên vùng quần đảo Hoàng Sa, được ghi trong bản đồ là “Parcel”/ xem 02 Tháng Bẩy 2011. RFI. “Thêm một bản đồ cổ xác định chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa”/ Tấm bản đồ Đông Nam Á Hondius đầu thế kỷ 17. Nguyễn Xuân Nghĩa / Trọng Nghĩa.
Các bản đồ cổ của Việt Nam, các lệnh của các vua chúa Việt Nam về việt sát nhập địa lư Hoàng Sa, Trường Sa vào lănh thổ Việt Nam như Vua Lê Thánh Tông đă sai vẽ bản đồ Việt Nam có Hoàng Sa, Trường Sa, như 1816, Hoàng Sa và Trường Sa chính thức sát nhập vào Việt Nam, khoảng thời Vua Gia Long,…là các bằng chứng chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, mà Trung Quốc không hề có.
4. Chiến lược đàm phán với Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông.
Những tranh chấp này hoàn toàn do Trung Quốc tạo nên từ sự yếu kém về nhận thức Chủ nghĩa cộng sản đến yếu kém về nhận thức chủ quyền lănh hải, lănh địa của Việt Nam..
Năm 1939, Phát-xit Nhật chiến Hoàng Sa, Trường Sa từ chính phủ Pháp-Việt.
Sau khi thua trận 1945, Nhật Bản tuyên bố từ chối chủ quyền tại Hoàng Sa, Trương Sa.
Hiển nhiên là Hoàng Sa, Trương Sa phải trở về với chủ cũ là Việt Nam.
Lợi dụng khi Việt Nam và và Cộng Ḥa Pháp đang chiến tranh, 1946 Trung Quốc chiếm vài đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy có chiếm đóng vài đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa, chủ quyền của các đảo này không thuộc về Trung Quốc. Cũng giống như Nhật Bản, sớm hay muộn, Trung Quốc cũng phải trả nó về với Việt Nam.
Tuy vậy, Trung Quốc không đi theo con đường luật pháp quốc tế.
Sau các cuộc chiến 1974, 1988, họ liên tục đưa ra những tuyên bố gây hấn như sát nhập hành chính Hoàng Sa, Trường Sa vào đảo Hải Nam, đệ tŕnh lên LHQ đường lưỡi ḅ trung quốc, tuyên bố Biển Đông là lợi ích cốt lơi của Trung Quốc, tuyên bố hải phận 200 hải lư của Việt Nam tại điểm cắt cáp tầu B́nh Minh 2, VIKINH II là thuộc chủ quyền Trung Quốc…
Nguồn gốc các căng thẳng trên Biển Đông là những tuyên bố chủ quyền không có cơ sở lịch sử, cơ sở pháp lư, bất chấp luật pháp quốc tế về biển của Trung Quốc.
Chính nghĩa thuộc Việt Nam.
Không có chủ quyền trên Hoàng Sa, trên Trường Sa, Trung Quốc phải bằng ḷng lui về lănh hải của ḿnh với đường viền chạy song song với bờ biển Trung Quốc.
Biển Đông sẽ an toàn và thôi nổi sóng.
Như vậy chiến lược của Việt Nam phải xuất phát từ những phi nghĩa của Trung Quốc và nêu cao chính nghĩa của ḿnh.
Đầu tiên là Trung Quốc phải quay về t́nh trạng trước 1974 và 1988.
Tiếp theo là đấu tranh thu hồi hoàn toàn Hoàng Sa, Trường Sa, trước 1939 khi bị Nhật Bản xâm chiếm.
Đàm phán có thể kéo dài, không nhất thiết có kết quả, nếu kết quả là nhân nhượng cho Trung Quốc.
Cũng không thể để Trung Quốc hút một li dầu hỏa Trường Sa, Hoàng Sa lên được. Những đồng đô la mà họ thu được từ dầu hỏa này, sẽ mua vũ khi bắn ngay vào Việt Nam ta.
Để đàm phán có kết quả, Việt Nam phải cải cách dân chủ cho nội lực mạnh lên.
Việt Nam không có quyền nhân nhượng Trung Quốc một li nhỏ nào. Nhân nhượng là để chiến tranh cho con cháu Việt Nam, để họa chiến tranh cho chính chúng ta.
Nếu trước đây Đảng cộng sản Việt Nam có nợ tiền Đảng cộng sản Trung Quốc th́ họ cứ việc trả nợ bằng đảng phí của các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Ai nhựơng biển đảo của Việt Nam cho Trung Quốc là kẻ bán nước.
Là việt gian.
5. Tương lai của đàm phán Việt-Trung về tranh chấp Biển Đông.
Trung Quốc từ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đến Đặng Tiểu B́nh, Hồ Cẩm Đào đều quyết tâm bành trướng ra Biển Đông.
Một trong các tiêu chuẩn chọn lănh đạo tương lai của Trung Quốc là có quyết tâm bành trướng hay không có quyết tâm bành trướng.
Đối với Việt Nam, với người dân Việt Nam th́ Hoàng Sa, Trường Sa đă là máu thịt của Tổ Quốc Việt Nam tự lâu đời. Nếu một cách rừng không tên trên biên giới có thể không đánh động vào trí tượng tượng trung b́nh của người dân việt, th́ hai từ Hoàng Sa, Trường Sa, đă đi sâu vào tâm khảm người Việt Nam.
Sự nhân nhượng cho Trung Quốc dù một li đảo nhỏ của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ đồng nghĩa với bán nước.
51. Khả năng đầu tiên là đàm phán bế tắc.
Trung quốc muốn đàm phán nhanh, để nhanh chóng khai thác.
Kẻ ăn cướp th́ thường không cần câu nệ ít hay nhiều.
Tuy vậy, sự ăn cướp này của Trung Quốc đă được mưu tính và thực hiện qua nhiều đời lănh tụ cộng sản. Từ Chu Ân Lai tươi cười ôm hôn Hồ Chí Minh, nhưng tay trái vẫn dúi cho Phạm Văn Đồng công hàm 4/9/1958, đến Đặng Tiểu B́nh một tay kư các viện trợ cho Việt Nam, tay kia hoạch định kế hoạch đánh chiếm Hoàng Sa 1974, đánh sang biên giới Việt Nam 1979, đến Hồ Cẩm Đào hôm nay cười nói về 16 chữ và 4 tốt, mà vừa kư xong lệnh cắt cáp tầu B́nh Minh 2 trong lănh hải Việt Nam.
Quyết tâm chiếm đoạt Hoàng Sa, Trường Sa của bành trướng Trung Quốc là cao.
Về phía Việt Nam, lănh đạo cộng sản Việt Nam chắc chưa muốn lộ trước dân Việt Nam bộ mặt bán nước giữa thanh thiên, bạch nhật nên c̣n chưa dám kư một thỏa ước nào.
Nhưng nếu Nguyễn Tấn Dũng bất chấp tất cả để bán rẻ Tây Nguyên, bất chấp tất cả để phung phí của nhân dân Việt Nam 4-5 tỷ đô la Vinashin. Nếu Nguyễn Sinh Hùng ăn ngon, ngủ yên khi Việt Nam có thể nợ è cổ, để cho tầu cao tốc Trung Quốc chạy vù vù ở Việt Nam. Nếu Nguyễn Phú Trọng không nh́n thấy tầu ngư chính Trung Quốc đang làm chủ Biển Đông, đâm đắm thuyền ngư dân Việt Nam…Th́ Dân tộc Việt Nam phải cảnh giác với những đàm phán trong bí mật của Đảng cộng sản Việt Nam.
52. Một cú hích của Hoa kỳ.
T́nh h́nh quay trở lại Đông Nam Á của Hoa Kỳ diễn biến nhanh chóng.
Từ tháng 7/2010 sau tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Hà Nội về sự quay trở lại Đông Nam Á, đến nay, Hoa Kỳ đă ư thức được việc bảo vệ vị trí số 1 của họ trên thế giới bắt đầu từ Biển Đông này.
Hội nghị thượng đỉnh an ninh Châu Á Shangri-La đánh dấu quan điểm của Hoa Kỳ từ đứng ngoài ṿng các tranh chấp đến phân biệt các đ̣i hỏi của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông là vô lư, không có bằng chứng pháp lư, lịch sử.
Hoa Kỳ sẽ hiện diện rơ ràng hơn trong các tranh chấp trên Biển Đông.
Điều này hoàn toàn nằm ngoài tính toán trước đây của Trung Quốc.
Sự có mặt của Hoa Kỳ sẽ làm Trung Quốc cẩn thận hơn trong các yêu cầu lănh hải.
Có thể họ sẽ nhượng bộ Việt Nam vài điểm nhằm tránh xô Việt Nam sang phía Hoa Kỳ.
Trong cuộc quay trở lại Đông Nam Á của Hoa Kỳ, nếu có đường lối chính trị tốt, được nhân dân ủng hộ, Việt Nam có thể nhân cơ hội này mà đ̣i lại Hoàng Sa, Trường Sa, để trở thành một quốc gia biển hùng mạnh của thế kỷ 21.
6. Cải cách dân chủ ở Việt Nam.
Việt Nam có lịch sử 4000 ngh́n năm. Nhưng 4000 ngh́n năm ấy là của chế độ phong kiến.
Chế độ phong kiến Việt Nam đă hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó: xây dựng một nhà nước riêng biệt của dân tộc Việt Nam. Khẳng định đóng góp của nhà nước Việt Nam, một thành viên của cộng đồng thế giới.
Sự kéo dài quá lâu các quan hệ phong kiến đă trở thành một cản trở cho dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển của ḿnh.
Đảng cộng sản Việt Nam khi nắm quyền lănh đạo đă hứa hẹn phản phong kiến, thay đổi các quan hệ phong kiến ḱm hăm dân tộc Việt Nam phát triển.
Việt Nam và Trung Quốc vừa tiến hành đàm phán ṿng 7, cấp chuyên viên về “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển” (từ ngày 29/7 đến 1/8/2011) tại Hà Nội. Chiều ngày 3/8/11, phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga cho hay, hai bên đă sơ bộ nhất trí với nhau về một số nguyên tắc.
“Các tranh chấp ở Biển Đông cần được giải quyết bằng các biện pháp ḥa b́nh, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Trong quá tŕnh giải quyết tranh chấp, hai bên thống nhất cần nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Không tiến hành bất cứ hành động nào nhằm mở rộng, phức tạp hóa tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
“Những vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam và Trung Quốc th́ giải quyết song phương, những vấn đề liên quan đến các bên khác th́ cần trao đổi giữa các bên liên quan.
Hai bên cũng thỏa thuận sẽ tổ chức ṿng đàm phán tiếp theo trong năm nay. Thời gian cụ thể sẽ thỏa thuận qua đường ngoại giao”. /Theo VietNamNet ngày 3/8/11/.
Như vậy Việt Nam và Trung Quốc đă 7 lần họp về Biển Đông. Nội dung 6 cuộc họp trước phủ kín trong màn bí mật bằng các thông báo nội dung chung chung như thông báo vừa dẫn trên.
Không nêu những điểm đang đàm phán, cũng như luận cứ các bên…
Bài viết nhằm giải mă chiến lược đàm phán của Trung Quốc. Đề nghị một chiến lược đàm phán cho Việt Nam. Phỏng đoán tương lai tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc khi yếu tố Hoa Kỳ trở nên nổi bật. Cải cách dân chủ vẫn được tích cực đề nghị, và một chút b́nh luận về lịch sử Hợp-Tan của Trung Quốc.
1. Đảng cộng sản Việt Nam đă thất bại trong chính sách quị lụy Trung Quốc, nhận viện trợ Trung Quốc để đoạt quyền lănh đạo dân tộc Việt Nam. Thất bại trong đấu tranh với Trung Quốc về lănh địa, lănh hải.
Trong lịch sử cận đại , Việt Nam cộng sản và Trung Quốc cộng sản đă 2 lần kư các hiệp ước, hiệp định về lănh thổ biên giới và chủ quyền vịnh Bắc Bộ.
Các thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam với Trung Quốc về biên giới “Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam và Trung Quốc” kư ngày 30/12/1999, về hải phận vịnh Bắc Bộ “Hiệp định Vịnh Bắc Bộ” được Việt Nam và Trung Quốc kư kết ngày 25/12/2000, đều mang lại thiệt tḥi cho Việt Nam.
Trên biên giới phía bắc, Việt Nam đă để mất 1500 km2 đất, bằng diện tích tỉnh Thái B́nh cùng với các địa danh lịch sử như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc… hay các cao điểm có tính chiến lược quốc pḥng như điểm cao 1509 Vị Xuyên, Hà Giang…
Trên vịnh Bắc Bộ, lănh hải của Việt Nam bị co lại so với Công ước Pháp-Thanh 1887.
Hiệp định Vịnh Bắc Bộ bao gồm 21 điểm phân định, cách xác định 21 điểm này là mập mờ và gây thiệt hại cho Việt Nam./ xem Dương Danh Huy, BBC 22 tháng 1, 2011/.
Đây là những hậu quả mà các thế hệ Việt Nam tương lai lại phải tiếp tục đấu tranh với Trung Quốc, nhằm xét lại những bất b́nh đẳng trong 2 hiệp định, hiệp ước trên.
Tại sao lại xẩy ra t́nh trạng này?
Đó là do nội dung của các thảo luận bị chính phủ Việt Nam giấu kín, không công khai thảo luận trong quốc hội Việt Nam trước khi kư kết. Như vậy là không có phản biện xă hội, phản biện nhân dân.
Riêng Đảng cộng sản Việt Nam, th́ từ lâu, các đảng viên của đảng này đă thấm nhuần tinh thần :
“Mối t́nh hữu nghị Việt-Hoa,
Vừa là đồng chí vừa là anh em.” Hồ Chí Minh.
Đây là nguồn gốc những thất bại trong các hiệp định, hiệp ước về biên giới đất liền và vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có hơn 3200 km bờ biển. Thế kỷ 21 này là kỷ nguyên của các quốc gia biển. Kỷ nguyên của khai thác tài nguyên biển. Trong chiến lược phát triển Việt Nam tương lai, Hoàng Sa, Trường Sa sẽ đóng một vai tṛ đặc biệt. Vị trí chiến lược đặc biệt của 2 quần đảo này đem lại cho Việt Nam an toàn lănh hải, lănh địa bờ biển quốc gia, ngăn chặn tấn công của mọi xâm lược từ khơi xa. Trữ lượng dầu hỏa cùng các khoáng sản khác của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ đem lại cho Việt Nam nguồn ngoại tệ to lớn để phát triển thành một quốc gia hiện đại văn minh. Trên một số đảo của Hoàng Sa, Trường Sa có thể xây dựng thành những bến tầu, cảng sửa chữa, cấp cứu các tầu bị nạn, các cứ điểm quân sự theo dơi các hoạt động hàng hải trên Biển Đông… Hàng triệu ngư dân Việt Nam ven Biển Đông có an toàn mưu sinh hay không, phụ thuộc vào chính trị biển của Việt Nam.
Ích lợi của Hoàng Sa, Trường Sa đối với dân tộc Việt Nam là không kể xiết.
Việt Nam do bị bịt mắt bởi quan điểm quốc tế vô sản và viện trợ Trung Quốc nhỏ nhoi so với lợi ích đem lại của Hoàng Sa, Trường Sa, mà đă không nhận ra sự thèm muốn của Trung Quốc đối với hai quần đảo này. Chính phủ cộng sản Việt Nam từ Phạm Văn Đồng tới nay luôn lùi bước, tạo cho Trung Quốc các cớ để chúng bành trướng ra Biển Đông , chiếm đoạt của Việt Nam Hoàng Sa, Trường Sa.
Chính phủ Việt Nam đă bán Boxit Tây Nguyên cho Trung Quốc với giá hữu nghị Việt-Trung, để hệ lụy an ninh lănh thổ cho chính thế hệ chúng ta, để hệ lụy môi trường cho con cháu Việt Nam.
Đây không chỉ một lần họ bán tài nguyên Việt Nam giá rẻ. Những ngày hôm nay, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng c̣n lẫn lộn bạn và thù :“Ta và Trung Quốc cần ḥa b́nh, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xă hội”.
2. Luận chứng và cách thức của Trung Quốc trong kế hoạch tiến ra Biển Đông.
Cho tới nay, theo những tin tức của truyền thông Trung Quốc, cũng như truyền thông thế giới, Trung Quốc khẳng định chủ quyền của họ ở Hoàng Sa, Trường Sa bằng những luận cứ sau đây.
21. Trung Quốc chạy xa về quá khứ : Trung Quốc có chủ quyền từ lâu đời đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Người Trung Quốc bành trướng tự cho rằng họ có chủ quyền từ đời Hán với Hoàng Sa, Trường Sa. Thực ra đây chỉ là hồ dán được vă nên từ nước lă xuông. Có thể người Trung Quốc cổ xưa đă biết đến Trường Sa, Hoàng Sa…nhưng những điều này không khẳng định được chủ quyền của Trung Quốc tại 2 quần đảo này. Muốn có chủ quyền, phải thiết lập hành chính, phải cai quản, khai thác 2 quần đảo. Chủ quyền theo nghĩa này thuộc về Việt Nam.
Trung Quốc không đưa ra được một bằng chứng lịch sử nào minh họa cho điều này.
Năm 1943, trong khi Thế Chiến II c̣n đang tiếp diễn, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đă hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đă kư Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó chủ quyền về Hoàng Sa, Trường Sa không được họ nhắc tới. Điều này chứng tỏ Hoàng Sa, Trường Sa mới chỉ xuất hiện trong tư duy chiến lược của Trung Quốc sau này./ xem Nguyễn Hữu Thống Hoàng Sa, Trường Sa theo Trung Quốc sử, DCV.info ngày 3/7/10.
22. Công hàm của Chu Ân Lai khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa ngày 4/9/1958. Công hàm của Phạm Văn Đồng công nhận lănh hải 12 hải lư của Trung Quốc.
Trung Quốc chưa bao giờ có chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa. Tại San Francisco năm 1951, Thủ tướng Việt Nam Trần Văn Hữu dơng dạc tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa trước cộng đồng thế giới gồm 51 quốc gia đồng minh chống Phát Xít. Chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông đă được thế giới công nhận. Khi công bố công hàm ngày 4/9/1958, Chu Ân Lai phải biết tuyên bố này của Thủ tướng Việt Nam. Việc Chu Ân Lai kèm chủ quyền của họ tại Hoàng Sa, Trường Sa vào công hàm lănh hải 12 hải lư là mẹo vặt, không xứng đáng với địa vị cường quốc của họ. Muốn tuyên bố chủ quyền, phải có bằng chứng lịch sử, bằng chứng pháp lư. Trung Quốc không có ǵ hết.
Vậy công hàm của Chu Ân Lai không có giá trị như một tuyên bố chủ quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa.
C̣n công hàm của Phạm Văn Đồng không có giá trị công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa. Đơn giản chỉ v́ Hoàng Sa, Trường Sa tại thời điểm 14/9/58 không nằm trong cai quản của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
23. Dùng viện trợ quốc tế vô sản cho Việt Nam, mê hoặc ban lănh đạo cộng sản Việt Nam bằng chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lợi dụng sự ấu trĩ cả ban lănh đạo Đảng cộng sản Việt Nam về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Trung Quốc khuyến khích Việt Nam nhấn sâu vào cuộc chiến với Hoa Kỳ quên đi sự ŕnh dập của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
24. Dùng chiến tranh để chiến Hoàng Sa, Trường Sa năm 1974, năm 1988, họ muốn dùng luật “la possession fait droit”/chiếm đóng là luật/. Dùng chiến tranh để uy hiếp uy hiếp Việt Nam khi Việt Nam có xu hướng xa rời Trung Quốc năm 1979.
Tóm lại luận chứng của Trung Quốc về chủ quyền của họ ở Hoàng Sa, Trường Sa là luận chứng mơ hồ, luận chứng giả.
Sự thật là Trung Quốc không có tí chủ quyền nào trên Hoàng Sa, Trường Sa trong quá khứ. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam từ lâu đời.
Sự thật là Trung Quốc đă dùng vũ lực cướp của Việt Nam Hoàng Sa 1974 và một số đảo tại Trường Sa 1988.
3. Không có tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa tại Biển Đông, mà chỉ có Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự chiếm của Việt Nam Hoàng Sa 1974, chiếm của Việt Nam một số đảo tại Trường Sa 1988.
Chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc về Việt Nam từ lâu đời.
Đây là mệnh đề cơ bản trong đấu tranh hội nghị với Trung Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam phải khẳng định rơ ràng điều này trong các đàm phán với Trung Quốc về t́nh h́nh Biển Đông.
Như vậy, để tiến hành các đàm phán song phương với Trung Quốc có kết quả, điều kiện đầu tiên mà Việt Nam phải đưa ra và đ̣i Trung Quốc thực hiện, trước khi chuyển sang các điểm khác, là Trung Quốc phải trở lại các t́nh trạng trước năm 1974 và trước 1988 tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Nếu Trung Quốc c̣n có ư định tuân thủ luật quốc tế, nếu Trung Quốc thực sự có ư định tin tưởng vào giải quyết căng thẳng Biển Đông bằng DOC như họ tuyên bố, th́ việc họ trở lại t́nh trạng trước 1974 và 1988 là thành ư đầu tiên.
Cho đến 1943, Trung Hoa Dân Quốc tại hội nghị Cairo vẫn chưa coi Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lănh hải Trung Quốc. Ngày 4-12-1950, Chu Ân Lai, lúc này là ngoại trưởng, tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943 là văn kiện lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đă kư kết để làm căn bản cho Ḥa Ước kư với Nhật Bản (Ḥa Ước San Francisco ngày 8-9-1951). (Chou En Lai’s Statement on the Peace Treaty with Japan. People’s China, 12-16-1950)/ trích Nguyễn Hữu Thống “Hoàng Sa, Trường Sa theo Trung Quốc sử”, DCV.info ngày 3/7/10.
Tại San Francisco năm 1951, Thủ tướng Việt Nam Trần Văn Hữu dơng dạc tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa trước cộng đồng thế giới gồm 51 quốc gia đồng minh chống Phát Xít. Chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông đă được thế giới công nhận. Công hàm của Chu Ân Lai ngày 4/9/1958 trên nền của hội nghị San Francisco chỉ là một mưu kế lợi dụng việc Việt Nam đang nhận viện trợ của Trung Quốc, lợi dụng thế của người đang cung cấp viện trợ để bịt tiếng phản đối của Việt Nam. Đây chỉ là mưu mẹo, không phải là bằng chứng chủ quyền.
Hoàng Sa, Trường Sa đă được người Việt Nam biến đến từ lâu đời và coi đây là lănh hải thiêng liêng của tổ quốc Việt Nam.
“Phủ biên tạp lục” của Lê Quư Đôn – một sử liệu quư viết về Hoàng Sa và Trường Sa soạn vào năm năm 1776 đă mô tả kỹ càng cách thức khai thác Hoàng Sa, Trường Sa của hai đội thuyền Bác Hải và đội Hoàng Sa.
Các bản đồ cổ của phương tây như Tài liệu do Hà Lan xuất bản năm 1606, được in lại năm 1613 trong tập địa dư “Atlas Mercator Hondius”, có thể được xem là một bằng chứng lịch sử về chủ quyền Việt Nam trên vùng quần đảo Hoàng Sa, được ghi trong bản đồ là “Parcel”/ xem 02 Tháng Bẩy 2011. RFI. “Thêm một bản đồ cổ xác định chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa”/ Tấm bản đồ Đông Nam Á Hondius đầu thế kỷ 17. Nguyễn Xuân Nghĩa / Trọng Nghĩa.
Các bản đồ cổ của Việt Nam, các lệnh của các vua chúa Việt Nam về việt sát nhập địa lư Hoàng Sa, Trường Sa vào lănh thổ Việt Nam như Vua Lê Thánh Tông đă sai vẽ bản đồ Việt Nam có Hoàng Sa, Trường Sa, như 1816, Hoàng Sa và Trường Sa chính thức sát nhập vào Việt Nam, khoảng thời Vua Gia Long,…là các bằng chứng chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, mà Trung Quốc không hề có.
4. Chiến lược đàm phán với Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông.
Những tranh chấp này hoàn toàn do Trung Quốc tạo nên từ sự yếu kém về nhận thức Chủ nghĩa cộng sản đến yếu kém về nhận thức chủ quyền lănh hải, lănh địa của Việt Nam..
Năm 1939, Phát-xit Nhật chiến Hoàng Sa, Trường Sa từ chính phủ Pháp-Việt.
Sau khi thua trận 1945, Nhật Bản tuyên bố từ chối chủ quyền tại Hoàng Sa, Trương Sa.
Hiển nhiên là Hoàng Sa, Trương Sa phải trở về với chủ cũ là Việt Nam.
Lợi dụng khi Việt Nam và và Cộng Ḥa Pháp đang chiến tranh, 1946 Trung Quốc chiếm vài đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy có chiếm đóng vài đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa, chủ quyền của các đảo này không thuộc về Trung Quốc. Cũng giống như Nhật Bản, sớm hay muộn, Trung Quốc cũng phải trả nó về với Việt Nam.
Tuy vậy, Trung Quốc không đi theo con đường luật pháp quốc tế.
Sau các cuộc chiến 1974, 1988, họ liên tục đưa ra những tuyên bố gây hấn như sát nhập hành chính Hoàng Sa, Trường Sa vào đảo Hải Nam, đệ tŕnh lên LHQ đường lưỡi ḅ trung quốc, tuyên bố Biển Đông là lợi ích cốt lơi của Trung Quốc, tuyên bố hải phận 200 hải lư của Việt Nam tại điểm cắt cáp tầu B́nh Minh 2, VIKINH II là thuộc chủ quyền Trung Quốc…
Nguồn gốc các căng thẳng trên Biển Đông là những tuyên bố chủ quyền không có cơ sở lịch sử, cơ sở pháp lư, bất chấp luật pháp quốc tế về biển của Trung Quốc.
Chính nghĩa thuộc Việt Nam.
Không có chủ quyền trên Hoàng Sa, trên Trường Sa, Trung Quốc phải bằng ḷng lui về lănh hải của ḿnh với đường viền chạy song song với bờ biển Trung Quốc.
Biển Đông sẽ an toàn và thôi nổi sóng.
Như vậy chiến lược của Việt Nam phải xuất phát từ những phi nghĩa của Trung Quốc và nêu cao chính nghĩa của ḿnh.
Đầu tiên là Trung Quốc phải quay về t́nh trạng trước 1974 và 1988.
Tiếp theo là đấu tranh thu hồi hoàn toàn Hoàng Sa, Trường Sa, trước 1939 khi bị Nhật Bản xâm chiếm.
Đàm phán có thể kéo dài, không nhất thiết có kết quả, nếu kết quả là nhân nhượng cho Trung Quốc.
Cũng không thể để Trung Quốc hút một li dầu hỏa Trường Sa, Hoàng Sa lên được. Những đồng đô la mà họ thu được từ dầu hỏa này, sẽ mua vũ khi bắn ngay vào Việt Nam ta.
Để đàm phán có kết quả, Việt Nam phải cải cách dân chủ cho nội lực mạnh lên.
Việt Nam không có quyền nhân nhượng Trung Quốc một li nhỏ nào. Nhân nhượng là để chiến tranh cho con cháu Việt Nam, để họa chiến tranh cho chính chúng ta.
Nếu trước đây Đảng cộng sản Việt Nam có nợ tiền Đảng cộng sản Trung Quốc th́ họ cứ việc trả nợ bằng đảng phí của các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Ai nhựơng biển đảo của Việt Nam cho Trung Quốc là kẻ bán nước.
Là việt gian.
5. Tương lai của đàm phán Việt-Trung về tranh chấp Biển Đông.
Trung Quốc từ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đến Đặng Tiểu B́nh, Hồ Cẩm Đào đều quyết tâm bành trướng ra Biển Đông.
Một trong các tiêu chuẩn chọn lănh đạo tương lai của Trung Quốc là có quyết tâm bành trướng hay không có quyết tâm bành trướng.
Đối với Việt Nam, với người dân Việt Nam th́ Hoàng Sa, Trường Sa đă là máu thịt của Tổ Quốc Việt Nam tự lâu đời. Nếu một cách rừng không tên trên biên giới có thể không đánh động vào trí tượng tượng trung b́nh của người dân việt, th́ hai từ Hoàng Sa, Trường Sa, đă đi sâu vào tâm khảm người Việt Nam.
Sự nhân nhượng cho Trung Quốc dù một li đảo nhỏ của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ đồng nghĩa với bán nước.
51. Khả năng đầu tiên là đàm phán bế tắc.
Trung quốc muốn đàm phán nhanh, để nhanh chóng khai thác.
Kẻ ăn cướp th́ thường không cần câu nệ ít hay nhiều.
Tuy vậy, sự ăn cướp này của Trung Quốc đă được mưu tính và thực hiện qua nhiều đời lănh tụ cộng sản. Từ Chu Ân Lai tươi cười ôm hôn Hồ Chí Minh, nhưng tay trái vẫn dúi cho Phạm Văn Đồng công hàm 4/9/1958, đến Đặng Tiểu B́nh một tay kư các viện trợ cho Việt Nam, tay kia hoạch định kế hoạch đánh chiếm Hoàng Sa 1974, đánh sang biên giới Việt Nam 1979, đến Hồ Cẩm Đào hôm nay cười nói về 16 chữ và 4 tốt, mà vừa kư xong lệnh cắt cáp tầu B́nh Minh 2 trong lănh hải Việt Nam.
Quyết tâm chiếm đoạt Hoàng Sa, Trường Sa của bành trướng Trung Quốc là cao.
Về phía Việt Nam, lănh đạo cộng sản Việt Nam chắc chưa muốn lộ trước dân Việt Nam bộ mặt bán nước giữa thanh thiên, bạch nhật nên c̣n chưa dám kư một thỏa ước nào.
Nhưng nếu Nguyễn Tấn Dũng bất chấp tất cả để bán rẻ Tây Nguyên, bất chấp tất cả để phung phí của nhân dân Việt Nam 4-5 tỷ đô la Vinashin. Nếu Nguyễn Sinh Hùng ăn ngon, ngủ yên khi Việt Nam có thể nợ è cổ, để cho tầu cao tốc Trung Quốc chạy vù vù ở Việt Nam. Nếu Nguyễn Phú Trọng không nh́n thấy tầu ngư chính Trung Quốc đang làm chủ Biển Đông, đâm đắm thuyền ngư dân Việt Nam…Th́ Dân tộc Việt Nam phải cảnh giác với những đàm phán trong bí mật của Đảng cộng sản Việt Nam.
52. Một cú hích của Hoa kỳ.
T́nh h́nh quay trở lại Đông Nam Á của Hoa Kỳ diễn biến nhanh chóng.
Từ tháng 7/2010 sau tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Hà Nội về sự quay trở lại Đông Nam Á, đến nay, Hoa Kỳ đă ư thức được việc bảo vệ vị trí số 1 của họ trên thế giới bắt đầu từ Biển Đông này.
Hội nghị thượng đỉnh an ninh Châu Á Shangri-La đánh dấu quan điểm của Hoa Kỳ từ đứng ngoài ṿng các tranh chấp đến phân biệt các đ̣i hỏi của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông là vô lư, không có bằng chứng pháp lư, lịch sử.
Hoa Kỳ sẽ hiện diện rơ ràng hơn trong các tranh chấp trên Biển Đông.
Điều này hoàn toàn nằm ngoài tính toán trước đây của Trung Quốc.
Sự có mặt của Hoa Kỳ sẽ làm Trung Quốc cẩn thận hơn trong các yêu cầu lănh hải.
Có thể họ sẽ nhượng bộ Việt Nam vài điểm nhằm tránh xô Việt Nam sang phía Hoa Kỳ.
Trong cuộc quay trở lại Đông Nam Á của Hoa Kỳ, nếu có đường lối chính trị tốt, được nhân dân ủng hộ, Việt Nam có thể nhân cơ hội này mà đ̣i lại Hoàng Sa, Trường Sa, để trở thành một quốc gia biển hùng mạnh của thế kỷ 21.
6. Cải cách dân chủ ở Việt Nam.
Việt Nam có lịch sử 4000 ngh́n năm. Nhưng 4000 ngh́n năm ấy là của chế độ phong kiến.
Chế độ phong kiến Việt Nam đă hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó: xây dựng một nhà nước riêng biệt của dân tộc Việt Nam. Khẳng định đóng góp của nhà nước Việt Nam, một thành viên của cộng đồng thế giới.
Sự kéo dài quá lâu các quan hệ phong kiến đă trở thành một cản trở cho dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển của ḿnh.
Đảng cộng sản Việt Nam khi nắm quyền lănh đạo đă hứa hẹn phản phong kiến, thay đổi các quan hệ phong kiến ḱm hăm dân tộc Việt Nam phát triển.