Hanna
08-31-2011, 05:05
Chiến Trường Xác Định Của Thế Kỷ Thứ 21
Sẽ Diễn Ra Trên Mặt Nước
Ngô Bắc dịch
***
Lời Người Dịch:
Dưới đây là bản dịch bài nghiên cứu mới nhất về t́nh h́nh Biển Đông được đăng tải trên chuyên san Foreign Policy tại Hoa Kỳ, số Tháng 9/Tháng 10, 2011 của tác giả Robert D. Kaplan, một thành viên của Hội Đồng Chính Sách Quốc Pḥng, Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ.
Bài viết có một số sai lầm về kỹ thuật như nói tàu ngầm mà Việt Nam đặt mua của Nga loại Kilo-class là tối tân nhât (thực ra đó là loại tàu chạy bằng diesel) hay trong một số nhận định về chiến thuật như nói chiến tranh trên biển không có các nạn nhân dân sự. Trong trường hợp Trung Hoa đổ bộ lên Đài Loan, một trong hai khả tính của chiến tranh trong vùng không thể loại bỏ, sự tổn thất của thường dân chắc chắn không phải là ít. Ngay trước mắt, ngư dân Việt Nam đang là các nạn nhân vô tội trước các hành vi chém giết, bắt giữ đ̣i tiền chuộc, cướp bóc các tàu đánh cá và các ngư cụ, kể cả các hải sản đánh bắt được trên ngư trường cổ truyền của Việt Nam bởi các lực lượng hải quân Trung Hoa, các kẻ đă hành động không khác các toán hải tặc phi pháp. Về mặt chiến lược, quan điểm của tác giả cũng có nhiều điểm không phù hợp với cái nh́n của người lănh đạo ngành ngoại giao Hoa Kỳ đương thời.
Tuy thế, điểm nổi bật nhất, gần sát với thực tế chính trị và quân sự hiện nay tại Đông Nam Á là nhận định sắc bén của tác giả về chiến lược của Trung Hoa như sau:
“Kẻ mạnh làm những ǵ họ có thể làm được và người yếu gánh chịu những ǵ họ phải gánh chịu”, Trong câu chuyện tái diễn của thế kỷ thứ 21, với Trung Hoa trong vai tṛ của Athens như một cường lực hải quân cấp vùng trội bật, kẻ yếu sẽ vẫn bị khuất phục – nhưng sự thực là thế dó. Đây sẽ là chiến lược không được nói ra của Trung Hoa, và các nước nhỏ hơn của Đông Nam Á rất có thể kết đoàn với Hoa Kỳ để né tránh số phận người dân đảo Melos.
Điều không may là Việt Nam ở gần Trung Hoa nhất, và đang là kẻ phải gánh chịu các sự “dọa nạt” thô bạo nhất của Trung Hoa. Mặt khác, nhiều phần cũng là do sự lựa chọn về chính trị của nhà đương quyền Việt Nam. Điều khác nữa cần nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện cũng là kẻ nghèo nhất, về mặt kinh tế, trong các nước tham dự vào cuộc chơi. “Người yếu và nghèo nhất chịu đựng những ǵ họ phải gánh chịu”, nhưng liệu Việt Nam sẽ phải chịu đựng đến đâu? Câu trả lời dễ dàng là đến mức không thể chịu đựng được và khi đó sẽ xảy ra những ǵ là điều ai cũng sẽ nh́n thấy và hiểu rơ. Đối sách ngoại giao bao giờ cũng phản ảnh sức mạnh nội tại, và Việt Nam hơn bao giờ hết cần có một sự đồng thuận của mọi người dân với chính quyền. Đây là một vấn đề trọng đại mà dân tộc Việt Nam phải t́m ra giải pháp để đối phó với nhiều nguy cơ đang gặp phải, trong việc duy tŕ nền độc lập quư báu của ḿnh.
*****
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacKaplan1.jpg
photo: http://www.foreignpolicy.co m/
Âu châu là một cảnh trí đất liền; Đông Á là một cảnh biển. Nơi đó ẩn dấu sự khác biệt giữa thế kỷ thứ 20 và 21. Các khu vực tranh chấp nhiều nhất trên địa cầu trong thế kỷ qua nằm nơi vùng đất khô ở Âu Châu, đặc biệt tại mặt phẳng trải dài khiến cho các biên giới phía đông và phía tây của Đức Quốc có tinh chất giả tạo và phơi bày ra cho cuộc tiến bước khốc liệt của các đạo quân. Nhưng trải qua nhiều thập niên, trục dân số và kinh tế của Trái Đất đă chuyển hướng một cách đáng kể sang đối cực của vùng Âu-Á (Eurasia), nơi mà các khoảng cách giữa các trung tâm dân số quan trọng là mặt biển mênh mông.
Bởi v́ cách thức mà địa dư minh chứng và đặt định các ưu tiên, các đường vẽ cao độ của địa h́nh của Đông Á báo trước một thế kỷ hải quân – hải quân ở đây được định nghĩa theo nghĩa rộng bao gồm cả các đội h́nh giao chiến hải và không quân hiện nay mà chúng đang ngày càng trở nên rối beng. Tại sao? Trung Hoa, nước mà đặc biệt hiện nay với các biên giới đất liền an toàn hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ thời cực thịnh của nhà Thanh vào cuối thế kỷ thứ 18, đang tham gia vào một sự bành trướng hải quân không thể phủ nhận được. Chính xuyên qua hải lực mà Trung Hoa sẽ xóa bỏ, về mặt tâm lư, hai thế kỷ của các sự xâm phạm ngoại quốc trên lănh thổ của nó – buộc mọi quốc gia quanh nó phải phản ứng.
Các sự giao chiến quân sự trên đất liền và trên biển vô cùng khác biệt, với các hàm ư quan trọng cho các đại chiến lược cần có để chiến thắng – hay né tránh – chúng. Các sự giao tranh trên đất liền bủa lưới trên dân số dân sự, trong thực tế khiến cho các nhân quyền trở thành một phần tử chỉ dấu của các sự nghiên cứu về chiến tranh. Các cuộc giao tranh trên biển hướng tới sự tranh chấp như một sự vụ dính dáng đến kỹ thuật và khách quan, trong thực tế giảm thiểu chiến tranh xuống thành phép tính số học, tương phản rơ rệt với các trận đánh tri thức đă góp phần định nghĩa các cuộc xung đột trước đây.
Thế Chiến II là một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại chủ nghĩa phát xít, ư thức hệ chịu trách nhiệm về sự tàn sát hàng chục triệu người không phải là chiến sĩ. Chiến Tranh Lạnh là một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại chủ nghĩa cộng sản, một ư thức hệ áp bức không kém mà dưới nó các lănh thổ bao la chiếm giữ bởi Hồng Quân bị thống trị. Thời kỳ ngay sau Chiến Tranh Lạnh đă trở thành một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại sự diệt chủng tại vùng Balkans và Trung Phi Châu, hai địa điểm nơi mà chiến tranh trên đất liền và các tội ác chống lại nhân loại không thể bị tách rời. Gần đây hơn, một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại phe Hồi Giáo cực đoan đă lôi kéo Hoa Kỳ tiến sâu vào các pạhm vi núi đồi của Á Phú Hăn, nơi mà sự đối xử nhân đạo đối với hàng triệu thường dân có tính chất thiết yếu cho sự thành công của cuộc chiến. Trong tất cả các nỗ lực này, chiến tranh và chính sách ngoại giao đă trở thành các đề tài không chỉ dành cho các quân nhân và các nhà ngoại giao, mà c̣n cho các người theo chủ nghĩa nhân bản và các nhà trí thức. Trong thực tế, cuộc chiến chống nổi dậy đại biểu cho cực điểm của các loại hợp nhất giữa các sĩ quan mang quân phục và các chuyên viên về nhân quyền. Đây là kết cuộc của chiến tranh trên đất liền tiến hóa thành chiến tranh toàn diện trong thời hiện đại.
Đông Á, hay chính xác hơn Miền Tây Thái B́nh Dương, đang mau chóng trở thành trung tâm mới của hoạt động hải quân của thế giới, báo trước một động lực khác biệt tự nền tảng. Nhiều phần nó sẽ tạo ra tương đối ít hơn các nghịch lư về đạo lư thuộc loại mà chúng ta quen thuộc trong thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ 21, với khả tính xa xôi về chiến tranh trên đất liền ở Bán Đảo Triều Tiên như ngoại lệ nổi bật. Miền Tây Thái B́nh Dương sẽ hoàn trả các công việc quân sự về lănh địa chật hẹp của các chuyên viên quốc pḥng. Điều này xảy ra không chỉ bởi v́ chúng ta đang đối đầu với một lănh hải hải quân, trong đó các thường dân không có hiện diện [sic]. Nó c̣n bởi bản chất của chính các quốc gia ở Đông Á, các nước, giống như Trung Hoa, có thể độc tài mạnh mẽ nhưng trong phần lớn trường hợp, không tàn bạo hay vô nhân đạo nặng nề.
Cuộc đấu tranh giành quyền thống trị tại Miền Tây Thái B́nh Dương sẽ không nhất thiết liên can sự giao tranh; phần lớn những ǵ xẩy đến sẽ diễn ra một cách lặng lẽ và tại chân trời của không gian biển trống trải, với một nhịp độ rét buốt phù hợp với sự thích ứng chậm chạp, liên tục với quyền lực quân sự và kinh tế ưu việt mà các quốc gia đă tạo lập trong suốt ḍng lịch sử. Chiến tranh c̣n lâu mới là chuyện tất yếu ngay dù sự tranh đua là một điều sẽ xảy ra. Và ngay dù Trung Hoa và Hoa Kỳ có t́m cách kín đáo chuyển trái banh sắp tới cho đồng đội một cách thành công, Á Châu, và thế giới, sẽ là một nơi chốn an toàn hơn, thịnh vượng hơn. C̣n điều ǵ hợp đạo lư hơn thế? Nên nhớ: Chính chủ nghĩa thực tế trong sự phục vụ quyền lợi quốc gia – với mục tiêu là né tránh chiến tranh – đă cứu vớt các sinh mạng trong suốt chiều dài của lịch sử hơn là chính sách can thiệp v́ lư do nhân đạo (humanitarian interventionism).
Đông Á là một dải biển bao la mở toác ra, kéo dài gần như từ Bắc Cực xuống Nam Cực -- từ các đảo Kuril chạy xuống phía nam tới Tân Tây Lan – và được đặc trưng bởi một sự dàn trải đứt đoạn của các bờ biển biệt lập và các quần đảo vươn xa. Ngay dù nhờ ở kỹ thuật đă thu ngắn khoảng cách một cách mạnh mẽ ra sao, biển tự thân vẫn hành động như một rào cản trước sự xâm lược, ít nhất với mức độ mà mặt đất khô ráo không làm được. Biển, không giống như đất liền, tạo ra các biên giới được xác định rơ ràng, mang lại cho nó tiềm năng làm sút giảm sự xung đột. Sau đó phải suy tính về tốc độ. Ngay các tàu chiến nhanh nhất di hành tương đối chậm chạp, thí dụ, 35 hải lư, làm giảm bớt rủi ro của các sự ước tính sai lầm và mang lại cho các nhà ngoại giao nhiều giờ, ngay cả nhiều ngày – hơn để tái cứu xét các quyết định. Các hải quân và không lực không chiếm cứ đất đai theo cách mà lục quân làm. Chính bởi các biển bao quanh Đông Á – trung tâm của sự sản xuất toàn cầu cũng như các sự mua sắm quân sự gia tăng – mà thế kỷ thứ 21 có một cơ may tốt hơn thế kỷ thứ 20 để né tránh các trận đại hỏa thiêu quân sự.
Dĩ nhiên, Đông Á đă chứng kiến nhiều cuộc đại hỏa thiêu quân sự trong thế kỷ thứ 20, trong đó biển cả đă không ngăn trở: Chiến Tranh Nga-Nhật; gần nửa thế kỷ nội chiến tại Trung Hoa xảy đến với sự sụp đổ từ từ của triều đại nhà Thanh; nhiều cuộc chinh phục khác nhau của đế triều Nhật Bản, tiếp nối bởi Thế Chiến II tại Thái B́nh Dương; các cuộc chiến tranh tại Căm Bốt và Lào; và hai cuộc chiến tại Việt Nam liên can với người Pháp và người Hoa Kỳ. Sự kiện rằng địa dư của Đông Á chính yếu là hải dương đă có ít tác động trên các cuộc chiến tranh như thế, mà tại lơi cốt của chúng là các cuộc xung đột để củng cố hay giải phóng dân tộc. (Xem thêm Phụ Lục 1). Nhưng thời đại đó phần lớn nằm lại sau lưng chúng ta. Các quân đội Đông Á, thay v́ hướng nh́n vào trong với các lục quân với kỹ thuật thấp, lại đang hướng ngoại với các hải quân và không lực có công nghệ cao.
Thật là một điều sai lầm trong sự so sánh giữa Trung Hoa ngày nay và Đức Quốc lúc khởi đầu Thế Chiến I như nhiều người đưa ra: bởi v́ Đức Quốc chính yếu đă là một cường lực trên đất liền, do địa dư của Âu Châu, Trung Hoa chính yếu sẽ là một cường lực hải quân, do địa dư của Đông Á.
Đông Á có thể chia làm hai khu vực tổng quát: Đông Bắc Á Châu, chế ngự bởi Bán Đảo Hàn Quốc, và Đông Nam Á Châu, chế ngự bởi Biển Nam Hải (South China Sea) [sic]. Đông Bắc Á Châu đặt mấu chốt trên số phận của Bắc Hàn, một quốc gia biệt lập, toàn tài với các vĩên ảnh u tối trong một thế giới được chi phối bởi chủ nghĩa tư bản và truyền thông điện tử. Giả sử Bắc Hàn có vỡ tung, các lực lượng trên đất liền của Trung Hoa, Hoa Kỳ và Nam Hàn có thể hội ngộ tại phần nửa phía bắc bán đảo nhân danh mọi sự can thiệp v́ nhân đạo, ngay cả lúc họ cắt xén các khu vực ảnh hưởng cho chính ḿnh. Các vấn đề hải quân là thứ yếu. Nhưng một sự tái thống nhất chung cuộc của Hàn Quốc sẽ mau chóng đặt vấn đề hải quân lên hàng đầu, với một Đại Hàn to lớn hơn, Trung Hoa và Nhật Bản trong thế quân bằng mong manh, bị ngăn cách bởi Biển Nhật Bản và các Biển Hoàng Hải (Yellow) và Bột Hải (Bohai). Song bởi Bắc Hàn vẫn c̣n hiện hữu, giai đoạn Chiến Tranh Lạnh của Đông Bắc Á Châu vẫn chưa hoàn toàn qua đi, và sức mạnh trên đất liền rất có thể vẫn chế ngự tin tức ở đó trước khi hải lực sẽ thống trị.
Ngược lại, Đông Nam Á đang sẵn dấn sâu vào giai đoạn hậu Chiến Tranh Lạnh của lịch sử. Việt Nam, nước khống chế bờ biển phía tây của Biển Nam Hải, là một cỗ xe tư bản chủ nghĩa cuồng nhiệt bất kể hệ thống chính trị của nó, đang t́m kiếm các ràng buộc quân sự chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ. Trung Hoa, được củng cố như một quốc gia triều đại bởi Mao Trạch Đông sau nhiều thập niên xáo trộn và được biến thành một nền kinh tế năng động nhất của thế giới nhờ các sự cởi trói của Đặng Tiểu B́nh, đang dấn bước ra bên ngoài với hải quân của nó đến phần nó gọi là “chuỗi ḥn đảo thứ nhât” tại Miền Tây Thái B́nh Dương. Nước Hồi Giáo cồng kềnh Nam Dương, đă phải chịu đựng và chấm dứt nhiều thập niên của chế độ quân sự, sẵn sàng xuất hiện như một Ấn Độ thứ nh́: một nền dân chủ sinh động và ổn định với tiềm năng phóng chiếu sức mạnh xuyên qua nền kinh tế đang tăng trưởng của nó. Singapore và Mă Lai cũng đang vươn lên về mặt kinh tế, với sự tận tụy cho mô h́nh thành-phố-quốc-gia-cùng-với-quốc-gia-mậu-dich và xuyên qua các sự trộn lẫn khác nhau giữa dân chủ và toàn tài. Bức tranh ghép lại là bức tranh của một bầy các quốc gia mà, với các vấn đề về tính đại diện chính đáng trong nội bộ và xây dựng quốc gia đàng sau chúng, đang sẵn sàng để đẩy xa các quyền lănh thổ được nhận thức bởi chúng, bên ngoài bờ biển của chính ḿnh. Sự đổ xô tập thể ra bên ngoài này tọa lạc tại pḥng dẫn đầu dân số của địa cầu, bởi chính tại Đông Nam Á, với dân số 615 triệu người của nó, là nơi mà 1.3 tỷ người của Trung Hoa hội tụ với 1.5 tỷ người của tiểu lục địa Ấn Độ. Và nơi chốn gặp mặt địa dư của các nước này, và quân đội của chúng, ở trên mặt biển: Biển Nam Hải.
Biển Nam Hải nối liền các quốc gia Đông Nam Á với Tây Thái B́nh Dương, hoạt động như yết hầu của các hải lộ toàn cầu. Nơi đây là trung tâm của hải hành Âu-Á, được chấm định bởi các eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Hơn nửa trọng tải đoàn thuyền thương mại hàng năm của thế giới đi ngang qua các điểm chốt này, và một phần ba của toàn thể lượng lưu thông hàng hải. Nhiên liệu chuyên chở xuyên qua eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, trên đường sang Đông Á xuyên qua Biển Nam Hải, gấp sáu lần số lượng đi ngang qua Kênh Đào Suez và 17 lần số lượng chở ngang qua Kênh Đào Panama. Khoảng gần hai phần ba số cung cấp năng lượng của Nam Hàn, gần 60 phần trăm số cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, và khoảng 80 phần trăm số nhập cảng dầu thô của Trung Hoa đi ngang qua Biển Nam Hải. Hơn nữa, Biển Nam Hải có số dự trữ dầu được chứng thực là 7 tỷ barrels và một số ước lượng 900 ngh́n tỷ bộ khối (trillion cubic feet) hơi đốt thiên nhiên, một phần thưởng có tiềm năng khổng lồ. (Xem Phụ Lục 2)
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacKaplan2.jpg
photo: http://www.foreignpolicy.co m/
Không phải chỉ có vị trí và các trữ lượng năng lượng hứa hẹn giao cho Biển Nam Hải tầm quan trọng địa chiến lược trọng yếu, mà c̣n bởi các cuộc tranh căi lănh hải lạnh lùng từ lâu đă bao quanh các hải phận này. Nhiều cuộc tranh căi liên quan đến Quần Đảo Trường Sa (Spratly Islands), một tiểu quần đảo tại phần đông nam Biển Nam Hải. Việt Nam, Đài Loan, và Trung Hoa, mỗi nước đều tuyên xác toàn thể hay phần lớn Biển Nam Hải, cũng như tất cả các nhóm đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt, Bắc Kinh khẳng định một ranh giới lịch sử: Nó đưa ra lời tuyên xác trên trái tim của Biển Nam Hải trong một đường ṿng rộng lớn (thường được gọi là “lưỡi ḅ”) từ Đảo Hải Nam của Trung Hoa tại cực bắc của Biển Nam Hải chạy suốt xuống phía nam 1200 dậm cho đến gần Singapore và Mă Lai.
Kết quả là tất cả chín nước giáp ranh với Biển Nam Hải đều ít nhiều sắp hàng chống lại Trung Hoa và v́ thế tùy thuộc vào Hoa Kỳ để có sự hậu thuẫn ngoại giao và quân sự. Các sự tuyên xác mâu thuẫn này nhiều phần càng trở nên nhức nhối hơn khi các nhu cầu năng lượng xoắc trôn ốc của Á Châu – số tiêu thụ năng lượng được ước định tăng gấp đôi vào năm 2030, với Trung Hoa chiếm phân nửa số tăng trưởng đó – làm cho Biển Nam Hải trở thành trung tâm bảo đảm hơn bao giờ hết cho sức mạnh kinh tế của vùng. Biển Nam Hải đă sẵn trở thành ngày một nhiều hơn một khu vực vũ trang, khi các nước tuyên xác củng cố và và canh tân hóa hải quân của chúng, ngay dù khi sự chen lấn để giành giựt các ḥn đảo và san hô trong các thập niên gần đây hầu như đă trôi qua. Trung Hoa đến giờ chiếm đoạt 12 địa điểm địa dư, Đài Loan 1, Việt Nam 25, Phi Luật Tân 8, và Mă Lai 5.
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacKaplan3.jpg
H́nh 3: Các chiến đâu cơ Hoa Kỳ trên sàn bay của Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington, đậu tại Bến Tàu Victoria Harbour, Hồng Kông, ngày 29 Tháng 10, 2009
photo: http://www.foreignpolicy.co m/
Chính địa dư của Trung Hoa hướng nó hướng xuống Biển Nam Hải. Trung Hoa nh́n xuống phía nam hướng vào một lănh hải ṿng tṛn được tạo thành, theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Phi Luật Tân, đảo Borneo được phân chia giữa Mă Lai và Nam Dương (cũng như vương quốc tí hon Brunei), Bán Đảo Mă Lai được phân chia giữa Mă Lai và Thái Lan, và bờ biển dài uốn lượn của Việt nam: tất cả đều là các quốc gia yếu, so với Trung Hoa. Giống như Biển Caribbean, được chấm họa bởi các quốc gia hải đảo nhỏ bé và bao trùm bởi một Hoa Kỳ với kích thước lục địa, Biển Nam Hải là một diễn trường hiển nhiên cho sự phóng chiếu quyền lực của Trung Hoa.
Sẽ Diễn Ra Trên Mặt Nước
Ngô Bắc dịch
***
Lời Người Dịch:
Dưới đây là bản dịch bài nghiên cứu mới nhất về t́nh h́nh Biển Đông được đăng tải trên chuyên san Foreign Policy tại Hoa Kỳ, số Tháng 9/Tháng 10, 2011 của tác giả Robert D. Kaplan, một thành viên của Hội Đồng Chính Sách Quốc Pḥng, Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ.
Bài viết có một số sai lầm về kỹ thuật như nói tàu ngầm mà Việt Nam đặt mua của Nga loại Kilo-class là tối tân nhât (thực ra đó là loại tàu chạy bằng diesel) hay trong một số nhận định về chiến thuật như nói chiến tranh trên biển không có các nạn nhân dân sự. Trong trường hợp Trung Hoa đổ bộ lên Đài Loan, một trong hai khả tính của chiến tranh trong vùng không thể loại bỏ, sự tổn thất của thường dân chắc chắn không phải là ít. Ngay trước mắt, ngư dân Việt Nam đang là các nạn nhân vô tội trước các hành vi chém giết, bắt giữ đ̣i tiền chuộc, cướp bóc các tàu đánh cá và các ngư cụ, kể cả các hải sản đánh bắt được trên ngư trường cổ truyền của Việt Nam bởi các lực lượng hải quân Trung Hoa, các kẻ đă hành động không khác các toán hải tặc phi pháp. Về mặt chiến lược, quan điểm của tác giả cũng có nhiều điểm không phù hợp với cái nh́n của người lănh đạo ngành ngoại giao Hoa Kỳ đương thời.
Tuy thế, điểm nổi bật nhất, gần sát với thực tế chính trị và quân sự hiện nay tại Đông Nam Á là nhận định sắc bén của tác giả về chiến lược của Trung Hoa như sau:
“Kẻ mạnh làm những ǵ họ có thể làm được và người yếu gánh chịu những ǵ họ phải gánh chịu”, Trong câu chuyện tái diễn của thế kỷ thứ 21, với Trung Hoa trong vai tṛ của Athens như một cường lực hải quân cấp vùng trội bật, kẻ yếu sẽ vẫn bị khuất phục – nhưng sự thực là thế dó. Đây sẽ là chiến lược không được nói ra của Trung Hoa, và các nước nhỏ hơn của Đông Nam Á rất có thể kết đoàn với Hoa Kỳ để né tránh số phận người dân đảo Melos.
Điều không may là Việt Nam ở gần Trung Hoa nhất, và đang là kẻ phải gánh chịu các sự “dọa nạt” thô bạo nhất của Trung Hoa. Mặt khác, nhiều phần cũng là do sự lựa chọn về chính trị của nhà đương quyền Việt Nam. Điều khác nữa cần nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện cũng là kẻ nghèo nhất, về mặt kinh tế, trong các nước tham dự vào cuộc chơi. “Người yếu và nghèo nhất chịu đựng những ǵ họ phải gánh chịu”, nhưng liệu Việt Nam sẽ phải chịu đựng đến đâu? Câu trả lời dễ dàng là đến mức không thể chịu đựng được và khi đó sẽ xảy ra những ǵ là điều ai cũng sẽ nh́n thấy và hiểu rơ. Đối sách ngoại giao bao giờ cũng phản ảnh sức mạnh nội tại, và Việt Nam hơn bao giờ hết cần có một sự đồng thuận của mọi người dân với chính quyền. Đây là một vấn đề trọng đại mà dân tộc Việt Nam phải t́m ra giải pháp để đối phó với nhiều nguy cơ đang gặp phải, trong việc duy tŕ nền độc lập quư báu của ḿnh.
*****
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacKaplan1.jpg
photo: http://www.foreignpolicy.co m/
Âu châu là một cảnh trí đất liền; Đông Á là một cảnh biển. Nơi đó ẩn dấu sự khác biệt giữa thế kỷ thứ 20 và 21. Các khu vực tranh chấp nhiều nhất trên địa cầu trong thế kỷ qua nằm nơi vùng đất khô ở Âu Châu, đặc biệt tại mặt phẳng trải dài khiến cho các biên giới phía đông và phía tây của Đức Quốc có tinh chất giả tạo và phơi bày ra cho cuộc tiến bước khốc liệt của các đạo quân. Nhưng trải qua nhiều thập niên, trục dân số và kinh tế của Trái Đất đă chuyển hướng một cách đáng kể sang đối cực của vùng Âu-Á (Eurasia), nơi mà các khoảng cách giữa các trung tâm dân số quan trọng là mặt biển mênh mông.
Bởi v́ cách thức mà địa dư minh chứng và đặt định các ưu tiên, các đường vẽ cao độ của địa h́nh của Đông Á báo trước một thế kỷ hải quân – hải quân ở đây được định nghĩa theo nghĩa rộng bao gồm cả các đội h́nh giao chiến hải và không quân hiện nay mà chúng đang ngày càng trở nên rối beng. Tại sao? Trung Hoa, nước mà đặc biệt hiện nay với các biên giới đất liền an toàn hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ thời cực thịnh của nhà Thanh vào cuối thế kỷ thứ 18, đang tham gia vào một sự bành trướng hải quân không thể phủ nhận được. Chính xuyên qua hải lực mà Trung Hoa sẽ xóa bỏ, về mặt tâm lư, hai thế kỷ của các sự xâm phạm ngoại quốc trên lănh thổ của nó – buộc mọi quốc gia quanh nó phải phản ứng.
Các sự giao chiến quân sự trên đất liền và trên biển vô cùng khác biệt, với các hàm ư quan trọng cho các đại chiến lược cần có để chiến thắng – hay né tránh – chúng. Các sự giao tranh trên đất liền bủa lưới trên dân số dân sự, trong thực tế khiến cho các nhân quyền trở thành một phần tử chỉ dấu của các sự nghiên cứu về chiến tranh. Các cuộc giao tranh trên biển hướng tới sự tranh chấp như một sự vụ dính dáng đến kỹ thuật và khách quan, trong thực tế giảm thiểu chiến tranh xuống thành phép tính số học, tương phản rơ rệt với các trận đánh tri thức đă góp phần định nghĩa các cuộc xung đột trước đây.
Thế Chiến II là một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại chủ nghĩa phát xít, ư thức hệ chịu trách nhiệm về sự tàn sát hàng chục triệu người không phải là chiến sĩ. Chiến Tranh Lạnh là một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại chủ nghĩa cộng sản, một ư thức hệ áp bức không kém mà dưới nó các lănh thổ bao la chiếm giữ bởi Hồng Quân bị thống trị. Thời kỳ ngay sau Chiến Tranh Lạnh đă trở thành một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại sự diệt chủng tại vùng Balkans và Trung Phi Châu, hai địa điểm nơi mà chiến tranh trên đất liền và các tội ác chống lại nhân loại không thể bị tách rời. Gần đây hơn, một cuộc đấu tranh đạo lư chống lại phe Hồi Giáo cực đoan đă lôi kéo Hoa Kỳ tiến sâu vào các pạhm vi núi đồi của Á Phú Hăn, nơi mà sự đối xử nhân đạo đối với hàng triệu thường dân có tính chất thiết yếu cho sự thành công của cuộc chiến. Trong tất cả các nỗ lực này, chiến tranh và chính sách ngoại giao đă trở thành các đề tài không chỉ dành cho các quân nhân và các nhà ngoại giao, mà c̣n cho các người theo chủ nghĩa nhân bản và các nhà trí thức. Trong thực tế, cuộc chiến chống nổi dậy đại biểu cho cực điểm của các loại hợp nhất giữa các sĩ quan mang quân phục và các chuyên viên về nhân quyền. Đây là kết cuộc của chiến tranh trên đất liền tiến hóa thành chiến tranh toàn diện trong thời hiện đại.
Đông Á, hay chính xác hơn Miền Tây Thái B́nh Dương, đang mau chóng trở thành trung tâm mới của hoạt động hải quân của thế giới, báo trước một động lực khác biệt tự nền tảng. Nhiều phần nó sẽ tạo ra tương đối ít hơn các nghịch lư về đạo lư thuộc loại mà chúng ta quen thuộc trong thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ 21, với khả tính xa xôi về chiến tranh trên đất liền ở Bán Đảo Triều Tiên như ngoại lệ nổi bật. Miền Tây Thái B́nh Dương sẽ hoàn trả các công việc quân sự về lănh địa chật hẹp của các chuyên viên quốc pḥng. Điều này xảy ra không chỉ bởi v́ chúng ta đang đối đầu với một lănh hải hải quân, trong đó các thường dân không có hiện diện [sic]. Nó c̣n bởi bản chất của chính các quốc gia ở Đông Á, các nước, giống như Trung Hoa, có thể độc tài mạnh mẽ nhưng trong phần lớn trường hợp, không tàn bạo hay vô nhân đạo nặng nề.
Cuộc đấu tranh giành quyền thống trị tại Miền Tây Thái B́nh Dương sẽ không nhất thiết liên can sự giao tranh; phần lớn những ǵ xẩy đến sẽ diễn ra một cách lặng lẽ và tại chân trời của không gian biển trống trải, với một nhịp độ rét buốt phù hợp với sự thích ứng chậm chạp, liên tục với quyền lực quân sự và kinh tế ưu việt mà các quốc gia đă tạo lập trong suốt ḍng lịch sử. Chiến tranh c̣n lâu mới là chuyện tất yếu ngay dù sự tranh đua là một điều sẽ xảy ra. Và ngay dù Trung Hoa và Hoa Kỳ có t́m cách kín đáo chuyển trái banh sắp tới cho đồng đội một cách thành công, Á Châu, và thế giới, sẽ là một nơi chốn an toàn hơn, thịnh vượng hơn. C̣n điều ǵ hợp đạo lư hơn thế? Nên nhớ: Chính chủ nghĩa thực tế trong sự phục vụ quyền lợi quốc gia – với mục tiêu là né tránh chiến tranh – đă cứu vớt các sinh mạng trong suốt chiều dài của lịch sử hơn là chính sách can thiệp v́ lư do nhân đạo (humanitarian interventionism).
Đông Á là một dải biển bao la mở toác ra, kéo dài gần như từ Bắc Cực xuống Nam Cực -- từ các đảo Kuril chạy xuống phía nam tới Tân Tây Lan – và được đặc trưng bởi một sự dàn trải đứt đoạn của các bờ biển biệt lập và các quần đảo vươn xa. Ngay dù nhờ ở kỹ thuật đă thu ngắn khoảng cách một cách mạnh mẽ ra sao, biển tự thân vẫn hành động như một rào cản trước sự xâm lược, ít nhất với mức độ mà mặt đất khô ráo không làm được. Biển, không giống như đất liền, tạo ra các biên giới được xác định rơ ràng, mang lại cho nó tiềm năng làm sút giảm sự xung đột. Sau đó phải suy tính về tốc độ. Ngay các tàu chiến nhanh nhất di hành tương đối chậm chạp, thí dụ, 35 hải lư, làm giảm bớt rủi ro của các sự ước tính sai lầm và mang lại cho các nhà ngoại giao nhiều giờ, ngay cả nhiều ngày – hơn để tái cứu xét các quyết định. Các hải quân và không lực không chiếm cứ đất đai theo cách mà lục quân làm. Chính bởi các biển bao quanh Đông Á – trung tâm của sự sản xuất toàn cầu cũng như các sự mua sắm quân sự gia tăng – mà thế kỷ thứ 21 có một cơ may tốt hơn thế kỷ thứ 20 để né tránh các trận đại hỏa thiêu quân sự.
Dĩ nhiên, Đông Á đă chứng kiến nhiều cuộc đại hỏa thiêu quân sự trong thế kỷ thứ 20, trong đó biển cả đă không ngăn trở: Chiến Tranh Nga-Nhật; gần nửa thế kỷ nội chiến tại Trung Hoa xảy đến với sự sụp đổ từ từ của triều đại nhà Thanh; nhiều cuộc chinh phục khác nhau của đế triều Nhật Bản, tiếp nối bởi Thế Chiến II tại Thái B́nh Dương; các cuộc chiến tranh tại Căm Bốt và Lào; và hai cuộc chiến tại Việt Nam liên can với người Pháp và người Hoa Kỳ. Sự kiện rằng địa dư của Đông Á chính yếu là hải dương đă có ít tác động trên các cuộc chiến tranh như thế, mà tại lơi cốt của chúng là các cuộc xung đột để củng cố hay giải phóng dân tộc. (Xem thêm Phụ Lục 1). Nhưng thời đại đó phần lớn nằm lại sau lưng chúng ta. Các quân đội Đông Á, thay v́ hướng nh́n vào trong với các lục quân với kỹ thuật thấp, lại đang hướng ngoại với các hải quân và không lực có công nghệ cao.
Thật là một điều sai lầm trong sự so sánh giữa Trung Hoa ngày nay và Đức Quốc lúc khởi đầu Thế Chiến I như nhiều người đưa ra: bởi v́ Đức Quốc chính yếu đă là một cường lực trên đất liền, do địa dư của Âu Châu, Trung Hoa chính yếu sẽ là một cường lực hải quân, do địa dư của Đông Á.
Đông Á có thể chia làm hai khu vực tổng quát: Đông Bắc Á Châu, chế ngự bởi Bán Đảo Hàn Quốc, và Đông Nam Á Châu, chế ngự bởi Biển Nam Hải (South China Sea) [sic]. Đông Bắc Á Châu đặt mấu chốt trên số phận của Bắc Hàn, một quốc gia biệt lập, toàn tài với các vĩên ảnh u tối trong một thế giới được chi phối bởi chủ nghĩa tư bản và truyền thông điện tử. Giả sử Bắc Hàn có vỡ tung, các lực lượng trên đất liền của Trung Hoa, Hoa Kỳ và Nam Hàn có thể hội ngộ tại phần nửa phía bắc bán đảo nhân danh mọi sự can thiệp v́ nhân đạo, ngay cả lúc họ cắt xén các khu vực ảnh hưởng cho chính ḿnh. Các vấn đề hải quân là thứ yếu. Nhưng một sự tái thống nhất chung cuộc của Hàn Quốc sẽ mau chóng đặt vấn đề hải quân lên hàng đầu, với một Đại Hàn to lớn hơn, Trung Hoa và Nhật Bản trong thế quân bằng mong manh, bị ngăn cách bởi Biển Nhật Bản và các Biển Hoàng Hải (Yellow) và Bột Hải (Bohai). Song bởi Bắc Hàn vẫn c̣n hiện hữu, giai đoạn Chiến Tranh Lạnh của Đông Bắc Á Châu vẫn chưa hoàn toàn qua đi, và sức mạnh trên đất liền rất có thể vẫn chế ngự tin tức ở đó trước khi hải lực sẽ thống trị.
Ngược lại, Đông Nam Á đang sẵn dấn sâu vào giai đoạn hậu Chiến Tranh Lạnh của lịch sử. Việt Nam, nước khống chế bờ biển phía tây của Biển Nam Hải, là một cỗ xe tư bản chủ nghĩa cuồng nhiệt bất kể hệ thống chính trị của nó, đang t́m kiếm các ràng buộc quân sự chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ. Trung Hoa, được củng cố như một quốc gia triều đại bởi Mao Trạch Đông sau nhiều thập niên xáo trộn và được biến thành một nền kinh tế năng động nhất của thế giới nhờ các sự cởi trói của Đặng Tiểu B́nh, đang dấn bước ra bên ngoài với hải quân của nó đến phần nó gọi là “chuỗi ḥn đảo thứ nhât” tại Miền Tây Thái B́nh Dương. Nước Hồi Giáo cồng kềnh Nam Dương, đă phải chịu đựng và chấm dứt nhiều thập niên của chế độ quân sự, sẵn sàng xuất hiện như một Ấn Độ thứ nh́: một nền dân chủ sinh động và ổn định với tiềm năng phóng chiếu sức mạnh xuyên qua nền kinh tế đang tăng trưởng của nó. Singapore và Mă Lai cũng đang vươn lên về mặt kinh tế, với sự tận tụy cho mô h́nh thành-phố-quốc-gia-cùng-với-quốc-gia-mậu-dich và xuyên qua các sự trộn lẫn khác nhau giữa dân chủ và toàn tài. Bức tranh ghép lại là bức tranh của một bầy các quốc gia mà, với các vấn đề về tính đại diện chính đáng trong nội bộ và xây dựng quốc gia đàng sau chúng, đang sẵn sàng để đẩy xa các quyền lănh thổ được nhận thức bởi chúng, bên ngoài bờ biển của chính ḿnh. Sự đổ xô tập thể ra bên ngoài này tọa lạc tại pḥng dẫn đầu dân số của địa cầu, bởi chính tại Đông Nam Á, với dân số 615 triệu người của nó, là nơi mà 1.3 tỷ người của Trung Hoa hội tụ với 1.5 tỷ người của tiểu lục địa Ấn Độ. Và nơi chốn gặp mặt địa dư của các nước này, và quân đội của chúng, ở trên mặt biển: Biển Nam Hải.
Biển Nam Hải nối liền các quốc gia Đông Nam Á với Tây Thái B́nh Dương, hoạt động như yết hầu của các hải lộ toàn cầu. Nơi đây là trung tâm của hải hành Âu-Á, được chấm định bởi các eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Hơn nửa trọng tải đoàn thuyền thương mại hàng năm của thế giới đi ngang qua các điểm chốt này, và một phần ba của toàn thể lượng lưu thông hàng hải. Nhiên liệu chuyên chở xuyên qua eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, trên đường sang Đông Á xuyên qua Biển Nam Hải, gấp sáu lần số lượng đi ngang qua Kênh Đào Suez và 17 lần số lượng chở ngang qua Kênh Đào Panama. Khoảng gần hai phần ba số cung cấp năng lượng của Nam Hàn, gần 60 phần trăm số cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, và khoảng 80 phần trăm số nhập cảng dầu thô của Trung Hoa đi ngang qua Biển Nam Hải. Hơn nữa, Biển Nam Hải có số dự trữ dầu được chứng thực là 7 tỷ barrels và một số ước lượng 900 ngh́n tỷ bộ khối (trillion cubic feet) hơi đốt thiên nhiên, một phần thưởng có tiềm năng khổng lồ. (Xem Phụ Lục 2)
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacKaplan2.jpg
photo: http://www.foreignpolicy.co m/
Không phải chỉ có vị trí và các trữ lượng năng lượng hứa hẹn giao cho Biển Nam Hải tầm quan trọng địa chiến lược trọng yếu, mà c̣n bởi các cuộc tranh căi lănh hải lạnh lùng từ lâu đă bao quanh các hải phận này. Nhiều cuộc tranh căi liên quan đến Quần Đảo Trường Sa (Spratly Islands), một tiểu quần đảo tại phần đông nam Biển Nam Hải. Việt Nam, Đài Loan, và Trung Hoa, mỗi nước đều tuyên xác toàn thể hay phần lớn Biển Nam Hải, cũng như tất cả các nhóm đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt, Bắc Kinh khẳng định một ranh giới lịch sử: Nó đưa ra lời tuyên xác trên trái tim của Biển Nam Hải trong một đường ṿng rộng lớn (thường được gọi là “lưỡi ḅ”) từ Đảo Hải Nam của Trung Hoa tại cực bắc của Biển Nam Hải chạy suốt xuống phía nam 1200 dậm cho đến gần Singapore và Mă Lai.
Kết quả là tất cả chín nước giáp ranh với Biển Nam Hải đều ít nhiều sắp hàng chống lại Trung Hoa và v́ thế tùy thuộc vào Hoa Kỳ để có sự hậu thuẫn ngoại giao và quân sự. Các sự tuyên xác mâu thuẫn này nhiều phần càng trở nên nhức nhối hơn khi các nhu cầu năng lượng xoắc trôn ốc của Á Châu – số tiêu thụ năng lượng được ước định tăng gấp đôi vào năm 2030, với Trung Hoa chiếm phân nửa số tăng trưởng đó – làm cho Biển Nam Hải trở thành trung tâm bảo đảm hơn bao giờ hết cho sức mạnh kinh tế của vùng. Biển Nam Hải đă sẵn trở thành ngày một nhiều hơn một khu vực vũ trang, khi các nước tuyên xác củng cố và và canh tân hóa hải quân của chúng, ngay dù khi sự chen lấn để giành giựt các ḥn đảo và san hô trong các thập niên gần đây hầu như đă trôi qua. Trung Hoa đến giờ chiếm đoạt 12 địa điểm địa dư, Đài Loan 1, Việt Nam 25, Phi Luật Tân 8, và Mă Lai 5.
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacKaplan3.jpg
H́nh 3: Các chiến đâu cơ Hoa Kỳ trên sàn bay của Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington, đậu tại Bến Tàu Victoria Harbour, Hồng Kông, ngày 29 Tháng 10, 2009
photo: http://www.foreignpolicy.co m/
Chính địa dư của Trung Hoa hướng nó hướng xuống Biển Nam Hải. Trung Hoa nh́n xuống phía nam hướng vào một lănh hải ṿng tṛn được tạo thành, theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Phi Luật Tân, đảo Borneo được phân chia giữa Mă Lai và Nam Dương (cũng như vương quốc tí hon Brunei), Bán Đảo Mă Lai được phân chia giữa Mă Lai và Thái Lan, và bờ biển dài uốn lượn của Việt nam: tất cả đều là các quốc gia yếu, so với Trung Hoa. Giống như Biển Caribbean, được chấm họa bởi các quốc gia hải đảo nhỏ bé và bao trùm bởi một Hoa Kỳ với kích thước lục địa, Biển Nam Hải là một diễn trường hiển nhiên cho sự phóng chiếu quyền lực của Trung Hoa.