Hanna
10-11-2011, 16:23
Trong khi một luồng gió hy vọng đang nổi lên ở các nước Arập, th́ liệu Mỹ có thực sự bị lâm vào t́nh trạng sa sút tinh thần hay không? Đó là câu hỏi được nêu ra trong một vài cuộc thăm ḍ ư dân nhằm so sánh những hậu quả của cuộc khủng hoảng năm 2008 với những hậu quả của cuộc Đại Suy thoái: nếu những khó khăn kinh tế-xă hội không so sánh được với những khó khăn của những năm 1930, th́ tinh thần của người Mỹ lại tỏ ra sa sút hơn. Niềm tin vào tương lai, rất đặc trưng của nền văn hóa chính trị nước Mỹ, dường như đă nhường bước, trong cánh tả cũng như cánh hữu, trước sự tức giận và thái độ không thỏa măn.
Nạn thất nghiệp, thâm hụt ngân sách, nhập cư, sự phi công nghiệp hóa hoặc việc mất vai tṛ lănh đạo thế giới đe dọa chính tâm hồn của nước Mỹ, không kể những điều kiện sống của người dân nước này.
Những động lực dẫn tới những lời lẽ buồn bă đó là ǵ và ai đem chúng tới? Liệu có cần phải nhận thấy ở đó tín hiệu của sự đột biến kinh tế, xă hội sâu sắc và không thể đảo ngược không? Liệu chúng ta có chứng kiến sự tái xuất hiện của một sự nhạy cảm đen tối, thậm chí đôi khi mang tính tận thế, thể hiện theo chu kỳ trong lịch sử nước Mỹ không? Liệu những động cơ cổ điển của giấc mơ nước Mỹ có thực sự tŕ trệ không? Hoặc ngược lại, liệu những lời lẽ suy sụp tinh thần đó có tạo thành những lời mời gọi phục hồi, như nước này đă thường làm trong quá khứ hay không?
Từ khủng hoảng tới tranh căi
Ở Mỹ, năm 2010 đă đem lại h́nh ảnh của một đất nước lâm vào t́nh trạng lo âu. Nảy sinh trước hết từ những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính mùa Thu năm 2008 – những hậu quả sâu sắc và dễ nhận thấy liên quan đến việc làm bị mất và nhà ở bị tước đoạt – sự lo âu đó cũng đem lại nhiều lo ngại khác: t́nh trạng quân sự đáng ngại ở Ápganixtan và ở Irắc; sự gia tăng mức thâm hụt ngân sách; việc Trung Quốc trở thành cường quốc bất chấp sức mạnh của Mỹ…
Sự lo âu cũng thể hiện trong những t́nh tiết sau cùng của cuộc tranh luận kéo dài và tổn hại về cải cách bảo hiểm y tế: việc đánh giá những điểm xấu hoặc điểm tốt của chính cải cách đă phải nhường chỗ cho sự buộc tội kiểu đảng phái và những cuộc tấn công trực diện nhằm vào một chính quyền bị nghi đă thực hiện những chính sách “xă hội chủ nghĩa” hoàn toàn phù hợp cho các nước đă suy sụp của châu Âu cũ. Ngay sau khi cuộc tranh luận gần đây nhất khép lại, tiếp theo việc những người trúng cử thuộc đảng Dân chủ tham gia Quốc hội, con tàu khoan dầu Deepwater Horizon đă nổ tung, đổ hàng tấn dầu xuống vịnh Mêhicô. Trong những tuần lễ tiếp sau, dư luận thừa nhận sự bất lực của chính phủ trước thảm họa sinh thái.
Từ đó, không có ǵ ngạc nhiên khi người ta thấy xuất hiện trên báo chí những bài viết với những đầu đề đầy tính báo động mà không cần biết điều đó liên quan tới dầu lửa của BP hay lửa của các nhà truyền giáo theo xu hướng tái hiện đại hóa giáo hội nguyên thủy.
Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11/2010, tâm trạng đen tối đó đă được tái khẳng định thông qua kết quả cuộc trưng cầu ư dân sau bầu cử, kết quả cho thấy 74% số người Mỹ được hỏi ư kiến tỏ ra bất b́nh với chính phủ cũng như Quốc hội của họ và bày tỏ sự lo ngại về “đường lối mà đất nước này đang theo đuổi”.
Lời xác nhận mới đưa ra hồi tháng 12 khi Pew Research Center công bố bản so sánh của họ (cao hơn) về t́nh trạng hiện nay của dư luận so với những năm 1930: 50% số người Mỹ được hỏi khi đó tin vào một sự cải thiện nhanh chóng t́nh trạng kinh tế, so với chỉ có 35% hiện nay; 60% cho rằng những cơ may của họ “vươn lên trong xă hội” và cải thiện các điều kiện sống của họ là cao hơn hoặc bằng với mức của các bậc cha mẹ của họ, trong khi nỗi lo sợ xuống bậc đang thắng thế hiện nay. Ngoài những khó khăn thực chất và trước mắt do cái mà báo chí gọi là “cuộc Đại Suy thoái” gây ra, th́ những lo ngại của một đại đa số người dân Mỹ dường như gắn với những chuyển biến cơ bản hiện nay.
Hậu cảnh kinh hoàng lan tỏa đó chắc chắn là một trong những giải thích cho sự huy động gia tăng các nhóm hoạt động tích cực dựa vào phong trào các Đảng Trà, trong những tháng trước khi diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ.
Lên án chủ nghĩa can thiệp bị coi là thái quá của nhà nước liên bang vào những vấn đề kinh tế, sự điều hành vô trách nhiệm các nguồn tài chính công và mối quan hệ gián đoạn của giới tinh hoa, những công dân b́nh thường này, thường ít hoặc không được chính trị hóa cho đến khi đó, và trong số đó người ta thấy có một số lượng bất thường phụ nữ, đều bày tỏ sự ủng hộ việc bảo vệ các giá trị truyền thống của nước Mỹ – những giá trị đó đă cho phép đất nước này trở nên phồn vinh và ngày càng tự khẳng định ḿnh như một cường quốc lớn, có lẽ là lớn nhất mà thế giới chưa từng biết bao giờ…
Trong quan điểm đó của nước Mỹ thể hiện trước hết là đầu óc kinh doanh; tự do cá nhân; ư chí thành công qua công việc và sự trung thành với một cộng đồng, dù nó mang tính chất gia đ́nh, địa lư hay tôn giáo.
Chính trong những giá trị đó mà nảy sinh niềm tự hào dân tộc và mong muốn phục vụ “số mệnh hiển nhiên” của nước Mỹ. Các Đảng Trà đă bày tỏ sự sùng bái đối với thái độ phó mặc tư bản chủ nghĩa mà theo họ nó đảm bảo cho giấc mơ của nước Mỹ, tức là khả năng thành công đối với mỗi cá nhân. Thành viên của các Đảng Trà chỉ trích chính quyền hiện nay quay lưng lại với các giá trị và với lịch sử, và cản trở sự năng động riêng đối với người Mỹ, phương tiện duy nhất cho phép vượt qua những trở ngại hiện nay và chuẩn bị cho tương lai. Thoát khỏi những bó buộc của quy định thái quá, người Mỹ trở lại là những người tiên phong mà đối với họ tất cả đều có thể làm được.
Những người theo chủ nghĩa dân túy và những nhà tiên tri
Vừa do các nhóm địa phương nhỏ vừa do các tổ chức tư vấn chiến lược mới của cánh hữu bảo thủ đưa đến, làn sóng tranh căi này không phải là một hiện tượng thoáng qua như Walter Russell Mead giải thích trong một bài viết mới đây đăng trên tạp chí Foreign Affairs. Một người nào đó muốn thống trị mà không tính tới điều đó sẽ vô cùng thất vọng. Được mô phỏng sâu sắc bởi triết học chính trị của Thomas Jefferson, người ngờ vực trước hết là sự lạm dụng đặc trưng của mọi quyền lực chính trị tập trung hóa, tâm trạng phản đối và chống tinh hoa chủ nghĩa của các Đảng Trà khiến người ta nhớ lại các cuộc chiến của Đảng Nhân dân chống những kẻ đầu cơ của các ngân hàng và ngành đường sắt trong những năm 1890 hoặc những năm trước khi diễn ra cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu của Andrew Jackson, “Bạn của người của dân chúng”.
Tuy nhiên, mỗi một làn sóng chủ nghĩa dân túy đó dường như thể hiện bởi trạng thái kinh tế và xă hội đặc biệt cũng nhiều như bởi một niềm tin cơ cấu vào sự khôn ngoan của con người b́nh thường, được vũ trang bởi nhận thức duy nhất và sự độc lập có tính chỉ trích. Về điều đó, những t́nh tiết khác nhau của chủ nghĩa dân túy đem lại một t́nh cảm chính trị rất Mỹ, liên quan tới truyền thống tôn giáo về bất đồng chứng kiến tín đồ Tin lành đă dựng lên đất nước này. Tuy lo lắng, nhưng các Đảng Trà hiện nay không thất vọng: sự tập hợp của họ thường xuyên mang tính chất nhiệt t́nh và nhẹ nhàng và một trong những lời trách móc mà họ gửi tới giới tinh hoa của Oasinhtơn chính xác là thái độ tiêu cực.
Ngược lại, họ nổi giận và sự nổi giận đó thường thể hiện với những giọng điệu gợi lại sự khoa trương về “những sự bừng tỉnh lớn”, những phong trào phục hưng tôn giáo đó đă nhịp bước cho lịch sử nước Mỹ lúc ban đầu và dẫn tới việc nhân lên những cách gọi tên của đạo Tin lành và đôi khi dẫn tới việc thành lập các môn phái, như những người theo giáo phái Mormon. Trong khi sự phát triển kinh tế của đất nước kéo theo những thay đổi xă hội quy mô, th́ các nhà tiên tri cảnh báo cho những người trung thành, bằng những bài thuyết giáo hừng hực, rằng nếu người ta không t́m lại được con đường đúng đắn, với quyết tâm và trái tim trong trắng của các tín đồ thanh giáo đầu tiên, th́ cơn giận dữ của Thượng đế sẽ giáng xuống người dân của họ. Kiểu thuyết giáo đó, vừa mang tính tiên tri tối nghĩa vừa là một kiểu nói về động cơ chính trị, đă in đậm dấu ấn văn hóa Mỹ, tới mức hầu như trở thành một kiểu văn học.
Tin rằng thiện chí của họ giá trị hơn những bài diễn văn được cho là sáng suốt của các nhà lănh đạo, những thành viên của các Đảng Trà tập hợp tại các địa điểm công cộng để đưa ra lời cảnh báo và khuyến khích chính quyền thay đổi phương hướng chừng nào vẫn chưa muộn. Nếu như diễn văn của họ có thể dường như mang tính cấp tiến, th́ chính là v́ họ muốn đánh thức đất nước khỏi sự đờ đẫn mà ch́m đắm trong đó là một ban lănh đạo tham nhũng và một sự thoải mái hăo huyền – như các công dân và các tín đồ b́nh thường khác đă làm trong các cuộc khủng hoảng trước đó. Nhưng hiện nay làm thế nào giải thích được sự hăng hái mà những người Mỹ, theo gương của các vị tiền bối, mong muốn bảo vệ một h́nh mẫu duy nhất mà họ cho là đang bị đe dọa?
Sự tỉnh ngộ của các tầng lớp trung lưu
Những lo ngại và sự giận dữ có thể cảm nhận được vào thời điểm đó có thể giải thích được, ít nhất là một phần, qua ba đột biến sâu sắc diễn ra ở Mỹ vào thời điểm chuyển giao thế kỷ. Đột biến đầu tiên là sự thay đổi dân số của đất nước, với một sự phân chia lại dân số có lợi cho các bang miền Nam và miền Tây và cả tầm quan trọng gia tăng của những sắc tộc người Tây Ban Nha và châu Á.
Sự tiến triển đó có khả năng biến những người da trắng, chủ yếu theo đạo Tin Lành và gốc châu Âu, trở thành thiểu số. Một nghiên cứu mới đây của Pew Research Center đă xác nhận rằng hơn 16% dân số Mỹ là người gốc Tây Ban Nha và sự biến động dân số của Mỹ -91% – là ở các sắc tộc. Đó chính là một sự thay đổi nhanh chóng và rất lớn. Ngay cả đối với một đất nước đă biến từ mở cửa tới nhập cư thành một trong những giá trị chủ yếu của nó, th́ thực tiễn mới này nhất thiết đ̣i hỏi một thời gian thích ứng và không thể diễn ra mà không gây ra những phản ứng. Về mặt logíc, từ ít nhất một chục năm qua, chuyển biến này đă gây ra những lo ngại khác nhau về sự đồng nhất dân tộc.
Đột biến sâu sắc thứ hai: việc đánh giá lại các tầng lớp trung lưu, coi họ như động cơ của sự tăng trưởng của Mỹ, như một khuôn khổ văn hóa và cột trụ của hệ thống chính trị. Cuộc khủng hoảng năm 2008 đă động chạm tới tầng lớp trung lưu một cách rơ ràng trong hai giá trị hầu như có tính thiêng liêng của nó: lao động và sở hữu. Nhưng đối với họ, giấc mơ đă bắt đầu tan vỡ từ lâu, như Jacques Mistral đă giải thích trong bài Cuộc cách mạng nước Mỹ lần thứ ba: các tầng lớp trung lưu là những người bị mất nhiều trong cuộc cách mạng bảo thủ khởi đầu dưới thời Reagan.
Trong khi 1% số người giàu có nhất của Mỹ trở nên c̣n giàu có hơn nữa, th́ các tầng lớp trung lưu đă dần dần thấy việc làm của họ trở nên bấp bênh hơn, thu nhập của họ trở nên ít hơn và mức bảo hiểm xă hội bị thụt lùi: ngay cả trong một gia đ́nh có hai người đi làm th́ vẫn rất khó khăn trong việc tiết kiệm đủ tiền để gửi con tới học tại trường đại học, để đối mặt với những chi phí y tế hoặc chuẩn bị cho lúc nghỉ hưu. V́ vậy, cuộc “Đại suy thoái” năm 2008 đă diễn ra ngay sau cái mà một số nhà kinh tế gọi là “Đại tŕ trệ”’.
Giống như ở châu Âu, trạng thái bấp bênh gia tăng này pha trộn với những nhận thức tiêu cực về vấn đề toàn cầu hóa, vấn đề này có tính chất thời đại, nếu không nói là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến t́nh trạng trên.
Lawrence Summers, khi đó là cố vấn kinh tế của Bill Clinton và sau đó được Barack Obama bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng kinh tế quốc gia, đă nhấn mạnh tầm quan trọng của hiện tượng này ngay từ năm 1996 trong một bài báo đăng trên tờ Financial Time, ở đó ông đặt tên cho các tầng lớp trung lưu là “trung lưu lo lắng”.
Lần đầu tiên kể từ rất lâu, ở Mỹ ngày càng phổ biến suy nghĩ cho rằng ngay cả khi làm việc vất vả và ngay cả khi thể hiện tinh thần, có trách nhiệm và tôn trọng luật pháp, người ta cũng không c̣n có thể tin chắc vào việc xây dựng được một tương lai tốt hơn cho con em họ.
Đột biến thứ ba mà những hậu quả của nó bổ sung cho những hậu quả của hai đột biến trên: thiết lập lại sự cân bằng quyền lực trên thế giới, điều mà Fareed Zakaria đă đề cập trong cuốn sách mới đây “Nguy cơ của phần c̣n lại”. Với sự nổi lên của các cường quốc kinh tế mới – trước hết là Trung Quốc – Mỹ ở trong t́nh trạng muốn xét lại bản đồ trí tuệ về hành tinh của họ. Từ một thế kỷ nay quen đứng ở vị trí hàng đầu, hiện họ phải điều đ́nh với vô số những nước giữ vị trí hàng đầu khác, trong đó không nước nào có thể cạnh tranh với họ ở tất cả các lĩnh vực, nhưng đang dần dần tạo ra một t́nh thế mới và không thể đảo ngược. Một điều chắc chắn là Mỹ sẽ không c̣n là cường quốc đơn cực đă từng chi phối ở thế kỷ XX.
Trong nhận thức của người dân, người ta nói trước hết chính Trung Quốc là hiện thân của sự xét lại vai tṛ lănh đạo của Mỹ và người ta không c̣n tin vào những bài báo tập trung nói về những ư đồ của Trung Quốc về mặt quân sự. Tuy nhiên, chúng ta tin chắc rằng hiểm họa mà Trung Quốc có thể đem lại mang một bản chất khác, và nếu Mỹ quan tâm tới ư kiến họ bị “mất chỗ”, th́ trước hết là do sự mất đi tính cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến Mỹ.
Trên thực tế, ngành công nghiệp này là nguồn gốc dẫn tới sự phồn vinh của tất cả các khu vực và niềm tự hào của Trung Mỹ trong hơn một thế kỷ qua. Làm thế nào mà Mỹ có thể tiếp tục phồn vinh trong một thế giới mà họ không c̣n là nước thống trị duy nhất nữa? Những “tinh hoa tự do của duyên hải phía Đông” luôn có thể thử giải thích rằng lợi thế cạnh tranh thực sự của Mỹ nằm trong tương quan của họ với sự hiểu biết, nghiên cứu và sáng tạo, và chừng nào các trường đại học của họ vẫn c̣n là những trường tốt nhất thế giới th́ họ vẫn sẽ không bị đe dọa. Và trong thời gian đó, kết quả các cuộc thăm ḍ cho thấy một số lớn người Mỹ cho rằng Trung Quốc đă là cường quốc hàng đầu thế giới…
Nước Mỹ lâm nguy chăng?
Chính trên cơ sở sự chuyển tiếp vất vả, phức tạp và khó khăn đó đă diễn ra vụ khủng bố ngày 11/9/2011, với những hậu quả chấn thương tâm lư đối với một đất nước chưa bao giờ bị tấn công kiểu đó trên lănh thổ của họ. Dưới chính quyền Bush, mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo trở thành nguyên nhân sinh ra tất cả các mối đe dọa khác và đă tạo thành những mối lo sợ phổ biến như đă được nêu.
Ê kíp cầm quyền tại Oasinhtơn muốn chống lại điều đó bằng việc thể hiện sức mạnh quân sự và ưu thế tinh thần ở Trung Đông: không những họ đă thất bại trong việc giảm bớt mối đe dọa mà c̣n kéo nước Mỹ vào hai cuộc chiến tranh khó khăn và làm tổn hại tới uy tín của họ đối với các đồng minh và trong một bộ phận của thế giới. Trên lĩnh vực đối nội, phản ứng với vụ 11/9 đă đặt đất nước, trong một giai đoạn vô định, vào một t́nh trạng báo động thường trực, dưới sự che chở của một bộ mới là bộ An ninh nội địa. Cơn băo Katrina, đă tàn phá New Orlean năm 2005, mặc dù đó là một thảm họa mang bản chất khác, nhưng đă củng cố ư nghĩ cho rằng nhà nước không c̣n có thể đảm bảo được an ninh cho mọi người, đặc biệt là những người đă bị tước đoạt nhiều nhất. Vấn đề an ninh, hay nói đúng ra là mất an ninh, đă trở thành hiện tượng ở khắp mọi nơi. Ngoài các ví dụ khác, ở thời điểm này người ta thừa nhận điều đó qua các vấn đề năng lượng, được mổ xẻ đặc biệt kỹ càng qua lăng kính này. Và dường như hai cuộc chiến tranh tốn kém, đánh mất vai tṛ chính thống đối với thế giới, sự bất công xă hội và bất b́nh đẳng không đủ, đến mùa Thu năm 2008 Wall Street đă sụp đổ. Liệu có cần thực sự ngạc nhiên khi thấy nước Mỹ nản chí không?
Khi đó, người ta muốn t́m thấy trong tư cách ứng cử viên của Barack Obama, tiếp đó là việc ông đắc cử tổng thống một phương thuốc chữa chạy cho một loạt những thảm họa đó. Hành tŕnh, sự quyến rũ và tài hùng biện của ông giúp cho người dân Mỹ trở lại với giấc mơ của họ. Obama đă tiến hành chiến dịch về chủ đề đổi mới, tính chất lịch sử của những thách thức mà đất nước này phải đối phó trước khi cho phép huy động mọi nguồn lực của ḿnh. Với những trọng tâm mà năm 1933 Franklin Roosevelt đă kêu gọi mọi người dũng cảm tập hợp nhau lại trước “những giờ khắc đen tối của lịch sử dân tộc”, hoặc John Kennedy kêu gọi đồng bào của ông trở lại cuộc chiến lâu dài v́ tự do, Obama cổ vũ người Mỹ quyết tâm đối phó với những thách thức của thế kỷ XXI.
Thật trái ngược là t́nh trạng ảm đạm hiện nay có lẽ chủ yếu do người ta quá hy vọng vào thắng lợi của Barack Obama hồi tháng 11/2008. Việc bầu một tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử của họ dường như đem lại lư do cho tất cả những người Mỹ muốn tiếp tục tin rằng ở đất nước họ, mỗi người càng lao động, dũng cảm, khéo léo và táo bạo th́ càng có khả năng thành công. Một lần nữa nước Mỹ làm thay đổi thế giới. Lịch sử của nước Mỹ lại trở thành một lịch sử về sự giải phóng và tiến bộ. Đó chính là lịch sử của một dân tộc may mắn, một số phận duy nhất và đặc biệt!
V́ vậy, cũng chính bong bóng niềm tin và hy vọng t́m lại được đó đă nổ tung trong ḍng chảy của năm 2009, khi mà đương nhiên những khó khăn kinh tế và xă hội đă tích tụ, chính sách đảng phái phục hồi và Barack Obama, bất chấp sự sáng suốt và ư chí mà người ta muốn đem lại cho ông trong những phạm vi khác nhau, sẽ khó mà chèo chống được. Ngoặc đơn đă được khép lại. Người ta thậm chí có thể nói rằng tâm trạng không thỏa măn, sự giận dữ hiện nay c̣n lớn hơn khi có lúc người dân đă tin rằng vị tổng thống này có thể làm thay đổi t́nh h́nh.
Hiện nay, vấn đề sa sút không là việc riêng của cánh hữu dân túy; các nhà b́nh luận “tự do” không chịu thua khi cần phải, đôi khi mang tính cách cá nhân và với nhiều sự cay độc, đổ tội cho giới tinh hoa Oasinhtơn. Bằng cách quan niệm hóa, người ta có thể nói rằng nước Mỹ yêu nước cực đoan và dân tộc chủ nghĩa đặc biệt lo mất vai tṛ lănh đạo thế giới và lo ngại trước những mối đe dọa của một bên là Trung Quốc và bên kia là một hệ thống đa phương, hệ thống này chỉ có thể hạn chế phạm vi hoạt động và sự độc lập của đất nước họ; trong khi nước Mỹ tự do, với hy vọng rằng Barack Obama có thể kết thúc một chu kỳ bảo thủ và mở ra một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa tiến bộ bằng cách tái đầu tư vào chính sách cải cách kinh tế xă hội, đă phí công vô ích vào điều đó và chỉ ra sự trục trặc của động cơ kinh tế và xă hội, sự suy sụp của các hạ tầng cơ sở và của hệ thống giáo dục, sự đầu tư ít ỏi vào việc nghiên cứu và sáng tạo và, trong chừng mực nhất định, nguy cơ mà nước Mỹ đánh mất sức hút của họ là quyền lực mềm.
Thời điểm vệ tinh nhân tạo
Liệu nước Mỹ có sa sút đến như vậy và đến lượt chúng ta phải lo ngại về nó không? Về vấn đề này, nhà báo James Fallows đă có bài viết trên tờ The Atlantic như sau: nếu nước Mỹ không c̣n quan tâm tới tương lai mà lẽ ra họ phải quan tâm, th́ bấy nhiêu cuộc khủng hoảng niềm tin theo từng giai đoạn sẽ được ghi trong AND của dân tộc. Từ sự cảnh cáo của John Winthrop tới bài “diễn văn vụng về” nổi tiếng mà Jimmy Carter đă đọc năm 1979, từng giai đoạn, người Mỹ thấy ḿnh như đang ở bên bờ một vực thẳm, nhưng lại luôn biết tránh được tai họa, tới mức “sức chịu đựng” dường như là một nét trong bản mệnh dân tộc của họ. Về điều này, chúng ta có thể đang chứng kiến một trong những “thời điểm vệ tinh nhân tạo” mà ở đó nguy cơ bị vượt qua buộc Mỹ phải tự có phát kiến mới và dành toàn bộ năng lực của họ cho việc chinh phục một biên giới mới.
Nhưng t́m kiếm ở đâu một chương tŕnh Apollo mới, một “cuộc chiến tranh giữa các v́ sao” mới hoặc hơn nữa, một cuộc cách mạng mới có thể so sánh với sự xuất hiện của Internet? Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Barack Obama đă tỏ thái độ muốn lao vào những thách thức môi trường – kinh tế xanh, sinh thái và công nghệ nano…- coi đó như là một thiên đường mới mà sự tiến bộ của công nghệ và khả năng sáng tạo của nước Mỹ cho phép chinh phục. Trong Thông điệp liên bang được công bố hồi đầu năm 2010, ông đă tỏ ra rất theo thuyết ư chí. Ông nói: “Nước Mỹ sẽ không chấp nhận giữ những vai tṛ khác”. Nhưng kể từ đó, nếu có một lĩnh vực mà hầu như tất cả đều đồng thanh nói rằng chính quyền này dù thế nào chăng nữa vẫn phải vượt qua, cho dù những trở ngại chính trị tích tụ lại, th́ đó chính là vấn đề năng lượng và môi trường, điều mà người ta vẫn c̣n nêu ra mới đây tại các cuộc tranh luận về hạt nhân.
Nạn thất nghiệp, thâm hụt ngân sách, nhập cư, sự phi công nghiệp hóa hoặc việc mất vai tṛ lănh đạo thế giới đe dọa chính tâm hồn của nước Mỹ, không kể những điều kiện sống của người dân nước này.
Những động lực dẫn tới những lời lẽ buồn bă đó là ǵ và ai đem chúng tới? Liệu có cần phải nhận thấy ở đó tín hiệu của sự đột biến kinh tế, xă hội sâu sắc và không thể đảo ngược không? Liệu chúng ta có chứng kiến sự tái xuất hiện của một sự nhạy cảm đen tối, thậm chí đôi khi mang tính tận thế, thể hiện theo chu kỳ trong lịch sử nước Mỹ không? Liệu những động cơ cổ điển của giấc mơ nước Mỹ có thực sự tŕ trệ không? Hoặc ngược lại, liệu những lời lẽ suy sụp tinh thần đó có tạo thành những lời mời gọi phục hồi, như nước này đă thường làm trong quá khứ hay không?
Từ khủng hoảng tới tranh căi
Ở Mỹ, năm 2010 đă đem lại h́nh ảnh của một đất nước lâm vào t́nh trạng lo âu. Nảy sinh trước hết từ những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính mùa Thu năm 2008 – những hậu quả sâu sắc và dễ nhận thấy liên quan đến việc làm bị mất và nhà ở bị tước đoạt – sự lo âu đó cũng đem lại nhiều lo ngại khác: t́nh trạng quân sự đáng ngại ở Ápganixtan và ở Irắc; sự gia tăng mức thâm hụt ngân sách; việc Trung Quốc trở thành cường quốc bất chấp sức mạnh của Mỹ…
Sự lo âu cũng thể hiện trong những t́nh tiết sau cùng của cuộc tranh luận kéo dài và tổn hại về cải cách bảo hiểm y tế: việc đánh giá những điểm xấu hoặc điểm tốt của chính cải cách đă phải nhường chỗ cho sự buộc tội kiểu đảng phái và những cuộc tấn công trực diện nhằm vào một chính quyền bị nghi đă thực hiện những chính sách “xă hội chủ nghĩa” hoàn toàn phù hợp cho các nước đă suy sụp của châu Âu cũ. Ngay sau khi cuộc tranh luận gần đây nhất khép lại, tiếp theo việc những người trúng cử thuộc đảng Dân chủ tham gia Quốc hội, con tàu khoan dầu Deepwater Horizon đă nổ tung, đổ hàng tấn dầu xuống vịnh Mêhicô. Trong những tuần lễ tiếp sau, dư luận thừa nhận sự bất lực của chính phủ trước thảm họa sinh thái.
Từ đó, không có ǵ ngạc nhiên khi người ta thấy xuất hiện trên báo chí những bài viết với những đầu đề đầy tính báo động mà không cần biết điều đó liên quan tới dầu lửa của BP hay lửa của các nhà truyền giáo theo xu hướng tái hiện đại hóa giáo hội nguyên thủy.
Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11/2010, tâm trạng đen tối đó đă được tái khẳng định thông qua kết quả cuộc trưng cầu ư dân sau bầu cử, kết quả cho thấy 74% số người Mỹ được hỏi ư kiến tỏ ra bất b́nh với chính phủ cũng như Quốc hội của họ và bày tỏ sự lo ngại về “đường lối mà đất nước này đang theo đuổi”.
Lời xác nhận mới đưa ra hồi tháng 12 khi Pew Research Center công bố bản so sánh của họ (cao hơn) về t́nh trạng hiện nay của dư luận so với những năm 1930: 50% số người Mỹ được hỏi khi đó tin vào một sự cải thiện nhanh chóng t́nh trạng kinh tế, so với chỉ có 35% hiện nay; 60% cho rằng những cơ may của họ “vươn lên trong xă hội” và cải thiện các điều kiện sống của họ là cao hơn hoặc bằng với mức của các bậc cha mẹ của họ, trong khi nỗi lo sợ xuống bậc đang thắng thế hiện nay. Ngoài những khó khăn thực chất và trước mắt do cái mà báo chí gọi là “cuộc Đại Suy thoái” gây ra, th́ những lo ngại của một đại đa số người dân Mỹ dường như gắn với những chuyển biến cơ bản hiện nay.
Hậu cảnh kinh hoàng lan tỏa đó chắc chắn là một trong những giải thích cho sự huy động gia tăng các nhóm hoạt động tích cực dựa vào phong trào các Đảng Trà, trong những tháng trước khi diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ.
Lên án chủ nghĩa can thiệp bị coi là thái quá của nhà nước liên bang vào những vấn đề kinh tế, sự điều hành vô trách nhiệm các nguồn tài chính công và mối quan hệ gián đoạn của giới tinh hoa, những công dân b́nh thường này, thường ít hoặc không được chính trị hóa cho đến khi đó, và trong số đó người ta thấy có một số lượng bất thường phụ nữ, đều bày tỏ sự ủng hộ việc bảo vệ các giá trị truyền thống của nước Mỹ – những giá trị đó đă cho phép đất nước này trở nên phồn vinh và ngày càng tự khẳng định ḿnh như một cường quốc lớn, có lẽ là lớn nhất mà thế giới chưa từng biết bao giờ…
Trong quan điểm đó của nước Mỹ thể hiện trước hết là đầu óc kinh doanh; tự do cá nhân; ư chí thành công qua công việc và sự trung thành với một cộng đồng, dù nó mang tính chất gia đ́nh, địa lư hay tôn giáo.
Chính trong những giá trị đó mà nảy sinh niềm tự hào dân tộc và mong muốn phục vụ “số mệnh hiển nhiên” của nước Mỹ. Các Đảng Trà đă bày tỏ sự sùng bái đối với thái độ phó mặc tư bản chủ nghĩa mà theo họ nó đảm bảo cho giấc mơ của nước Mỹ, tức là khả năng thành công đối với mỗi cá nhân. Thành viên của các Đảng Trà chỉ trích chính quyền hiện nay quay lưng lại với các giá trị và với lịch sử, và cản trở sự năng động riêng đối với người Mỹ, phương tiện duy nhất cho phép vượt qua những trở ngại hiện nay và chuẩn bị cho tương lai. Thoát khỏi những bó buộc của quy định thái quá, người Mỹ trở lại là những người tiên phong mà đối với họ tất cả đều có thể làm được.
Những người theo chủ nghĩa dân túy và những nhà tiên tri
Vừa do các nhóm địa phương nhỏ vừa do các tổ chức tư vấn chiến lược mới của cánh hữu bảo thủ đưa đến, làn sóng tranh căi này không phải là một hiện tượng thoáng qua như Walter Russell Mead giải thích trong một bài viết mới đây đăng trên tạp chí Foreign Affairs. Một người nào đó muốn thống trị mà không tính tới điều đó sẽ vô cùng thất vọng. Được mô phỏng sâu sắc bởi triết học chính trị của Thomas Jefferson, người ngờ vực trước hết là sự lạm dụng đặc trưng của mọi quyền lực chính trị tập trung hóa, tâm trạng phản đối và chống tinh hoa chủ nghĩa của các Đảng Trà khiến người ta nhớ lại các cuộc chiến của Đảng Nhân dân chống những kẻ đầu cơ của các ngân hàng và ngành đường sắt trong những năm 1890 hoặc những năm trước khi diễn ra cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu của Andrew Jackson, “Bạn của người của dân chúng”.
Tuy nhiên, mỗi một làn sóng chủ nghĩa dân túy đó dường như thể hiện bởi trạng thái kinh tế và xă hội đặc biệt cũng nhiều như bởi một niềm tin cơ cấu vào sự khôn ngoan của con người b́nh thường, được vũ trang bởi nhận thức duy nhất và sự độc lập có tính chỉ trích. Về điều đó, những t́nh tiết khác nhau của chủ nghĩa dân túy đem lại một t́nh cảm chính trị rất Mỹ, liên quan tới truyền thống tôn giáo về bất đồng chứng kiến tín đồ Tin lành đă dựng lên đất nước này. Tuy lo lắng, nhưng các Đảng Trà hiện nay không thất vọng: sự tập hợp của họ thường xuyên mang tính chất nhiệt t́nh và nhẹ nhàng và một trong những lời trách móc mà họ gửi tới giới tinh hoa của Oasinhtơn chính xác là thái độ tiêu cực.
Ngược lại, họ nổi giận và sự nổi giận đó thường thể hiện với những giọng điệu gợi lại sự khoa trương về “những sự bừng tỉnh lớn”, những phong trào phục hưng tôn giáo đó đă nhịp bước cho lịch sử nước Mỹ lúc ban đầu và dẫn tới việc nhân lên những cách gọi tên của đạo Tin lành và đôi khi dẫn tới việc thành lập các môn phái, như những người theo giáo phái Mormon. Trong khi sự phát triển kinh tế của đất nước kéo theo những thay đổi xă hội quy mô, th́ các nhà tiên tri cảnh báo cho những người trung thành, bằng những bài thuyết giáo hừng hực, rằng nếu người ta không t́m lại được con đường đúng đắn, với quyết tâm và trái tim trong trắng của các tín đồ thanh giáo đầu tiên, th́ cơn giận dữ của Thượng đế sẽ giáng xuống người dân của họ. Kiểu thuyết giáo đó, vừa mang tính tiên tri tối nghĩa vừa là một kiểu nói về động cơ chính trị, đă in đậm dấu ấn văn hóa Mỹ, tới mức hầu như trở thành một kiểu văn học.
Tin rằng thiện chí của họ giá trị hơn những bài diễn văn được cho là sáng suốt của các nhà lănh đạo, những thành viên của các Đảng Trà tập hợp tại các địa điểm công cộng để đưa ra lời cảnh báo và khuyến khích chính quyền thay đổi phương hướng chừng nào vẫn chưa muộn. Nếu như diễn văn của họ có thể dường như mang tính cấp tiến, th́ chính là v́ họ muốn đánh thức đất nước khỏi sự đờ đẫn mà ch́m đắm trong đó là một ban lănh đạo tham nhũng và một sự thoải mái hăo huyền – như các công dân và các tín đồ b́nh thường khác đă làm trong các cuộc khủng hoảng trước đó. Nhưng hiện nay làm thế nào giải thích được sự hăng hái mà những người Mỹ, theo gương của các vị tiền bối, mong muốn bảo vệ một h́nh mẫu duy nhất mà họ cho là đang bị đe dọa?
Sự tỉnh ngộ của các tầng lớp trung lưu
Những lo ngại và sự giận dữ có thể cảm nhận được vào thời điểm đó có thể giải thích được, ít nhất là một phần, qua ba đột biến sâu sắc diễn ra ở Mỹ vào thời điểm chuyển giao thế kỷ. Đột biến đầu tiên là sự thay đổi dân số của đất nước, với một sự phân chia lại dân số có lợi cho các bang miền Nam và miền Tây và cả tầm quan trọng gia tăng của những sắc tộc người Tây Ban Nha và châu Á.
Sự tiến triển đó có khả năng biến những người da trắng, chủ yếu theo đạo Tin Lành và gốc châu Âu, trở thành thiểu số. Một nghiên cứu mới đây của Pew Research Center đă xác nhận rằng hơn 16% dân số Mỹ là người gốc Tây Ban Nha và sự biến động dân số của Mỹ -91% – là ở các sắc tộc. Đó chính là một sự thay đổi nhanh chóng và rất lớn. Ngay cả đối với một đất nước đă biến từ mở cửa tới nhập cư thành một trong những giá trị chủ yếu của nó, th́ thực tiễn mới này nhất thiết đ̣i hỏi một thời gian thích ứng và không thể diễn ra mà không gây ra những phản ứng. Về mặt logíc, từ ít nhất một chục năm qua, chuyển biến này đă gây ra những lo ngại khác nhau về sự đồng nhất dân tộc.
Đột biến sâu sắc thứ hai: việc đánh giá lại các tầng lớp trung lưu, coi họ như động cơ của sự tăng trưởng của Mỹ, như một khuôn khổ văn hóa và cột trụ của hệ thống chính trị. Cuộc khủng hoảng năm 2008 đă động chạm tới tầng lớp trung lưu một cách rơ ràng trong hai giá trị hầu như có tính thiêng liêng của nó: lao động và sở hữu. Nhưng đối với họ, giấc mơ đă bắt đầu tan vỡ từ lâu, như Jacques Mistral đă giải thích trong bài Cuộc cách mạng nước Mỹ lần thứ ba: các tầng lớp trung lưu là những người bị mất nhiều trong cuộc cách mạng bảo thủ khởi đầu dưới thời Reagan.
Trong khi 1% số người giàu có nhất của Mỹ trở nên c̣n giàu có hơn nữa, th́ các tầng lớp trung lưu đă dần dần thấy việc làm của họ trở nên bấp bênh hơn, thu nhập của họ trở nên ít hơn và mức bảo hiểm xă hội bị thụt lùi: ngay cả trong một gia đ́nh có hai người đi làm th́ vẫn rất khó khăn trong việc tiết kiệm đủ tiền để gửi con tới học tại trường đại học, để đối mặt với những chi phí y tế hoặc chuẩn bị cho lúc nghỉ hưu. V́ vậy, cuộc “Đại suy thoái” năm 2008 đă diễn ra ngay sau cái mà một số nhà kinh tế gọi là “Đại tŕ trệ”’.
Giống như ở châu Âu, trạng thái bấp bênh gia tăng này pha trộn với những nhận thức tiêu cực về vấn đề toàn cầu hóa, vấn đề này có tính chất thời đại, nếu không nói là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến t́nh trạng trên.
Lawrence Summers, khi đó là cố vấn kinh tế của Bill Clinton và sau đó được Barack Obama bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng kinh tế quốc gia, đă nhấn mạnh tầm quan trọng của hiện tượng này ngay từ năm 1996 trong một bài báo đăng trên tờ Financial Time, ở đó ông đặt tên cho các tầng lớp trung lưu là “trung lưu lo lắng”.
Lần đầu tiên kể từ rất lâu, ở Mỹ ngày càng phổ biến suy nghĩ cho rằng ngay cả khi làm việc vất vả và ngay cả khi thể hiện tinh thần, có trách nhiệm và tôn trọng luật pháp, người ta cũng không c̣n có thể tin chắc vào việc xây dựng được một tương lai tốt hơn cho con em họ.
Đột biến thứ ba mà những hậu quả của nó bổ sung cho những hậu quả của hai đột biến trên: thiết lập lại sự cân bằng quyền lực trên thế giới, điều mà Fareed Zakaria đă đề cập trong cuốn sách mới đây “Nguy cơ của phần c̣n lại”. Với sự nổi lên của các cường quốc kinh tế mới – trước hết là Trung Quốc – Mỹ ở trong t́nh trạng muốn xét lại bản đồ trí tuệ về hành tinh của họ. Từ một thế kỷ nay quen đứng ở vị trí hàng đầu, hiện họ phải điều đ́nh với vô số những nước giữ vị trí hàng đầu khác, trong đó không nước nào có thể cạnh tranh với họ ở tất cả các lĩnh vực, nhưng đang dần dần tạo ra một t́nh thế mới và không thể đảo ngược. Một điều chắc chắn là Mỹ sẽ không c̣n là cường quốc đơn cực đă từng chi phối ở thế kỷ XX.
Trong nhận thức của người dân, người ta nói trước hết chính Trung Quốc là hiện thân của sự xét lại vai tṛ lănh đạo của Mỹ và người ta không c̣n tin vào những bài báo tập trung nói về những ư đồ của Trung Quốc về mặt quân sự. Tuy nhiên, chúng ta tin chắc rằng hiểm họa mà Trung Quốc có thể đem lại mang một bản chất khác, và nếu Mỹ quan tâm tới ư kiến họ bị “mất chỗ”, th́ trước hết là do sự mất đi tính cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến Mỹ.
Trên thực tế, ngành công nghiệp này là nguồn gốc dẫn tới sự phồn vinh của tất cả các khu vực và niềm tự hào của Trung Mỹ trong hơn một thế kỷ qua. Làm thế nào mà Mỹ có thể tiếp tục phồn vinh trong một thế giới mà họ không c̣n là nước thống trị duy nhất nữa? Những “tinh hoa tự do của duyên hải phía Đông” luôn có thể thử giải thích rằng lợi thế cạnh tranh thực sự của Mỹ nằm trong tương quan của họ với sự hiểu biết, nghiên cứu và sáng tạo, và chừng nào các trường đại học của họ vẫn c̣n là những trường tốt nhất thế giới th́ họ vẫn sẽ không bị đe dọa. Và trong thời gian đó, kết quả các cuộc thăm ḍ cho thấy một số lớn người Mỹ cho rằng Trung Quốc đă là cường quốc hàng đầu thế giới…
Nước Mỹ lâm nguy chăng?
Chính trên cơ sở sự chuyển tiếp vất vả, phức tạp và khó khăn đó đă diễn ra vụ khủng bố ngày 11/9/2011, với những hậu quả chấn thương tâm lư đối với một đất nước chưa bao giờ bị tấn công kiểu đó trên lănh thổ của họ. Dưới chính quyền Bush, mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo trở thành nguyên nhân sinh ra tất cả các mối đe dọa khác và đă tạo thành những mối lo sợ phổ biến như đă được nêu.
Ê kíp cầm quyền tại Oasinhtơn muốn chống lại điều đó bằng việc thể hiện sức mạnh quân sự và ưu thế tinh thần ở Trung Đông: không những họ đă thất bại trong việc giảm bớt mối đe dọa mà c̣n kéo nước Mỹ vào hai cuộc chiến tranh khó khăn và làm tổn hại tới uy tín của họ đối với các đồng minh và trong một bộ phận của thế giới. Trên lĩnh vực đối nội, phản ứng với vụ 11/9 đă đặt đất nước, trong một giai đoạn vô định, vào một t́nh trạng báo động thường trực, dưới sự che chở của một bộ mới là bộ An ninh nội địa. Cơn băo Katrina, đă tàn phá New Orlean năm 2005, mặc dù đó là một thảm họa mang bản chất khác, nhưng đă củng cố ư nghĩ cho rằng nhà nước không c̣n có thể đảm bảo được an ninh cho mọi người, đặc biệt là những người đă bị tước đoạt nhiều nhất. Vấn đề an ninh, hay nói đúng ra là mất an ninh, đă trở thành hiện tượng ở khắp mọi nơi. Ngoài các ví dụ khác, ở thời điểm này người ta thừa nhận điều đó qua các vấn đề năng lượng, được mổ xẻ đặc biệt kỹ càng qua lăng kính này. Và dường như hai cuộc chiến tranh tốn kém, đánh mất vai tṛ chính thống đối với thế giới, sự bất công xă hội và bất b́nh đẳng không đủ, đến mùa Thu năm 2008 Wall Street đă sụp đổ. Liệu có cần thực sự ngạc nhiên khi thấy nước Mỹ nản chí không?
Khi đó, người ta muốn t́m thấy trong tư cách ứng cử viên của Barack Obama, tiếp đó là việc ông đắc cử tổng thống một phương thuốc chữa chạy cho một loạt những thảm họa đó. Hành tŕnh, sự quyến rũ và tài hùng biện của ông giúp cho người dân Mỹ trở lại với giấc mơ của họ. Obama đă tiến hành chiến dịch về chủ đề đổi mới, tính chất lịch sử của những thách thức mà đất nước này phải đối phó trước khi cho phép huy động mọi nguồn lực của ḿnh. Với những trọng tâm mà năm 1933 Franklin Roosevelt đă kêu gọi mọi người dũng cảm tập hợp nhau lại trước “những giờ khắc đen tối của lịch sử dân tộc”, hoặc John Kennedy kêu gọi đồng bào của ông trở lại cuộc chiến lâu dài v́ tự do, Obama cổ vũ người Mỹ quyết tâm đối phó với những thách thức của thế kỷ XXI.
Thật trái ngược là t́nh trạng ảm đạm hiện nay có lẽ chủ yếu do người ta quá hy vọng vào thắng lợi của Barack Obama hồi tháng 11/2008. Việc bầu một tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử của họ dường như đem lại lư do cho tất cả những người Mỹ muốn tiếp tục tin rằng ở đất nước họ, mỗi người càng lao động, dũng cảm, khéo léo và táo bạo th́ càng có khả năng thành công. Một lần nữa nước Mỹ làm thay đổi thế giới. Lịch sử của nước Mỹ lại trở thành một lịch sử về sự giải phóng và tiến bộ. Đó chính là lịch sử của một dân tộc may mắn, một số phận duy nhất và đặc biệt!
V́ vậy, cũng chính bong bóng niềm tin và hy vọng t́m lại được đó đă nổ tung trong ḍng chảy của năm 2009, khi mà đương nhiên những khó khăn kinh tế và xă hội đă tích tụ, chính sách đảng phái phục hồi và Barack Obama, bất chấp sự sáng suốt và ư chí mà người ta muốn đem lại cho ông trong những phạm vi khác nhau, sẽ khó mà chèo chống được. Ngoặc đơn đă được khép lại. Người ta thậm chí có thể nói rằng tâm trạng không thỏa măn, sự giận dữ hiện nay c̣n lớn hơn khi có lúc người dân đă tin rằng vị tổng thống này có thể làm thay đổi t́nh h́nh.
Hiện nay, vấn đề sa sút không là việc riêng của cánh hữu dân túy; các nhà b́nh luận “tự do” không chịu thua khi cần phải, đôi khi mang tính cách cá nhân và với nhiều sự cay độc, đổ tội cho giới tinh hoa Oasinhtơn. Bằng cách quan niệm hóa, người ta có thể nói rằng nước Mỹ yêu nước cực đoan và dân tộc chủ nghĩa đặc biệt lo mất vai tṛ lănh đạo thế giới và lo ngại trước những mối đe dọa của một bên là Trung Quốc và bên kia là một hệ thống đa phương, hệ thống này chỉ có thể hạn chế phạm vi hoạt động và sự độc lập của đất nước họ; trong khi nước Mỹ tự do, với hy vọng rằng Barack Obama có thể kết thúc một chu kỳ bảo thủ và mở ra một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa tiến bộ bằng cách tái đầu tư vào chính sách cải cách kinh tế xă hội, đă phí công vô ích vào điều đó và chỉ ra sự trục trặc của động cơ kinh tế và xă hội, sự suy sụp của các hạ tầng cơ sở và của hệ thống giáo dục, sự đầu tư ít ỏi vào việc nghiên cứu và sáng tạo và, trong chừng mực nhất định, nguy cơ mà nước Mỹ đánh mất sức hút của họ là quyền lực mềm.
Thời điểm vệ tinh nhân tạo
Liệu nước Mỹ có sa sút đến như vậy và đến lượt chúng ta phải lo ngại về nó không? Về vấn đề này, nhà báo James Fallows đă có bài viết trên tờ The Atlantic như sau: nếu nước Mỹ không c̣n quan tâm tới tương lai mà lẽ ra họ phải quan tâm, th́ bấy nhiêu cuộc khủng hoảng niềm tin theo từng giai đoạn sẽ được ghi trong AND của dân tộc. Từ sự cảnh cáo của John Winthrop tới bài “diễn văn vụng về” nổi tiếng mà Jimmy Carter đă đọc năm 1979, từng giai đoạn, người Mỹ thấy ḿnh như đang ở bên bờ một vực thẳm, nhưng lại luôn biết tránh được tai họa, tới mức “sức chịu đựng” dường như là một nét trong bản mệnh dân tộc của họ. Về điều này, chúng ta có thể đang chứng kiến một trong những “thời điểm vệ tinh nhân tạo” mà ở đó nguy cơ bị vượt qua buộc Mỹ phải tự có phát kiến mới và dành toàn bộ năng lực của họ cho việc chinh phục một biên giới mới.
Nhưng t́m kiếm ở đâu một chương tŕnh Apollo mới, một “cuộc chiến tranh giữa các v́ sao” mới hoặc hơn nữa, một cuộc cách mạng mới có thể so sánh với sự xuất hiện của Internet? Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Barack Obama đă tỏ thái độ muốn lao vào những thách thức môi trường – kinh tế xanh, sinh thái và công nghệ nano…- coi đó như là một thiên đường mới mà sự tiến bộ của công nghệ và khả năng sáng tạo của nước Mỹ cho phép chinh phục. Trong Thông điệp liên bang được công bố hồi đầu năm 2010, ông đă tỏ ra rất theo thuyết ư chí. Ông nói: “Nước Mỹ sẽ không chấp nhận giữ những vai tṛ khác”. Nhưng kể từ đó, nếu có một lĩnh vực mà hầu như tất cả đều đồng thanh nói rằng chính quyền này dù thế nào chăng nữa vẫn phải vượt qua, cho dù những trở ngại chính trị tích tụ lại, th́ đó chính là vấn đề năng lượng và môi trường, điều mà người ta vẫn c̣n nêu ra mới đây tại các cuộc tranh luận về hạt nhân.