Hanna
10-13-2011, 06:28
James Holmes
05-10-2011
Quan điểm cho rằng Mỹ nên bỏ mặc Đông Nam Á cho Trung Quốc là đặt không đúng chỗ. Châu Á không phải là một Georgia khác, theo James Holmes.
Vài tháng trước, trên tạp chí Foreign Policy, một đồng nghiệp của tôi là Giáo sư Lyle Goldstein đă so sánh Biển Đông (nguyên văn: Biển Hoa Nam) ngày nay với cuộc chiến Nga – Georgia năm 2008. Tóm lại, ông ấy vẫn giữ quan điểm, rằng Mỹ thật dại dột khi đặt cược uy tín vào một đồng minh chiến lược cấp ba xa xôi và yếu kém, nằm cạnh bên một đất nước hùng mạnh hơn nhiều lần vốn đang thèm khát lănh thổ và sự phụ thuộc chính trị. Chính quyền Bush đă dồn dập dành cho Tbilisi “sự quan tâm cấp cao và các cố vấn quân sự“, để rồi chỉ thốt ra mỗi tiếng ‘rên rỉ’ khi Moscow ra lệnh cho các lực lượng thiết giáp đè bẹp quân đội Georgia và xâm chiếm phần lớn đất nước láng giềng này. Uy tín của Mỹ đă bị tổn hại nặng nề khi nước này không thể đảo ngược kết quả. Đứng về phía Georgia rơ ràng là một sự thất bại trong việc liều lĩnh chính sách ngoại giao.
Ông Lyle đă vẽ ra một bức tranh u ám. Nếu các nhà lănh đạo Mỹ chú ư đến lời khuyên của ông, họ sẽ từ bỏ gần như tất cả các cam kết ở Đông Nam Á, nơi mà ông mô tả là một khu vực có tầm quan trọng không đáng kể, cạnh bên một nước Trung Quốc ngày càng hùng mạnh. Ông cho rằng “Đông Nam Á chẳng có chút ư nghĩa nào trong sự cân bằng quyền lực toàn cầu“. Nếu không th́ Washington có nguy cơ phải chịu thất bại ngoại giao mới mà không đạt được lợi ích nào có thể hiểu được.
Cũng như chính quyền Bush không có “ham muốn ǵ khi đánh liều một cuộc xung đột lớn hơn với Moscow về một đất nước thuộc lợi ích chiến lược bên ŕa“, chính quyền Obama sẽ không, thực ra là không nên ràng buộc vận mệnh của ḿnh với các nước Đông Nam Á yếu kém. Điều này sẽ thêm vào lời cảnh báo chống lại sự ủng hộ các nước bạn bè nhưng “không quan trọng” vốn đang đấu tranh ở thế bất lợi. Mỹ không nên cố gắng thực hiện các nỗ lực hăo huyền nhằm đảo ngược t́nh h́nh. Tốt hơn là nên giũ bỏ những vướng bận không cần thiết trong khi hợp tác với Bắc Kinh để chống cướp biển và khủng bố trong khu vực, với hy vọng xây dựng một mối quan hệ tin cậy trên biển.
Nếu đây là một lời khẩn cầu thẳng thắn để Washington tránh bị vướng vào những tranh chấp lănh hải phức tạp đang gây bất ổn chính trị khu vực, tôi sẽ ủng hộ ngay lập tức. Như người phương Nam chúng ta thường nói, Mỹ không “quan tâm” đến việc ai sẽ kiểm soát đảo, san hô hay đảo đá nào, miễn là cường quốc kiểm soát chúng tôn trọng tự do hàng hải theo đúng luật pháp thông thường và thỏa thuận. Do vậy, vấn đề tranh luận giữa các quan chức Mỹ đó là, mối quan tâm duy nhất của Hoa Kỳ trong chủ đề tranh căi này là tự do hàng hải đi qua các vùng biển trong khu vực và thấy những cuộc căi vă về lănh thổ được giải quyết mà không phải dùng đến vũ lực.
Nhưng vẫn chưa rơ liệu Trung Quốc có tôn trọng luật biển hoặc kiềm chế sử dụng vũ lực hay không. Nước này liên tục tuyên bố “chủ quyền không thể chối căi” ở các vùng biển và không phận quốc tế nằm trong những đường nào đó trên bản đồ Biển Đông. Trung Quốc cũng nỗ lực ngăn chặn những hoạt động bay, giám sát quân sự, và khảo sát quân sự ở những khu vực chung, như các nước ven biển có thể thực hiện ở “những vùng lănh hải” của họ.
Vùng lănh hải này là vành đai biển 12 dặm ngoài khơi, nơi mà chính phủ ở các nước ven biển thực hiện đầy đủ quyền thực thi pháp lư. Các quốc gia ven biển không có quyền thống lĩnh những vùng biển xa hơn, ngay cả khi luật pháp quốc tế cho họ đặc quyền thực thi pháp lư đối với nguồn tài nguyên nhiên nhiên ở vùng biển và đáy biển cách bờ 200 dặm (xa hơn nếu địa h́nh dưới nước cho phép). Washington hoàn toàn đúng khi chống lại sự xâm lấn lén lút của Trung Quốc dựa trên quyền của các nước đi biển.
Sự tương tự của Biển Đen không làm thay đổi điều này, chủ yếu v́ các động lực ở đó hoàn toàn khác biệt so với những ǵ phổ biến ở Biển Đông ngày nay. Theo tôi, t́nh huống phải vượt qua ba cuộc kiểm tra về sự tương đồng giữa Nga – Georgia th́ mới phù hợp. Thứ nhất, phải đưa một nước lớn đấu với một nước nhỏ về lợi ích ngoại biên của Mỹ. Thứ hai, sự bất đối xứng trong sức mạnh quân sự phải tới mức mà bên mạnh hơn có thể thực hiện một việc đă rồi, chế ngự đối thủ yếu hơn trước khi Mỹ và cộng đồng quốc tế có thể tập trung quyết tâm và vũ lực để can thiệp. Và thứ ba, khoảng cách từ các lực lượng Mỹ tới nơi xảy ra xung đột phải xa tới mức Washington không thể triển khai lực lượng kịp thời để tạo ra một sự khác biệt. Quân đội Mỹ sẽ thiếu các căn cứ ở phía trước để sắp xếp và duy tŕ vũ khí gần chiến trường. Thật may, Biển Đông hoàn toàn không không đáp ứng bất kỳ cuộc kiểm tra nào như thế này.
Trước tiên, cân nhắc sự chênh lệch về sức mạnh giữa Trung Quốc và các nước láng giềng nhỏ hơn. Rơ ràng là Trung Quốc áp đảo bất kỳ quốc gia Đông nam Á nào trong một cuộc đấu nhau một chọi một, và với sự cách biệt khá lớn. Chẳng hạn, Chính phủ Philippines đă quyết định gia tăng gấp đôi ngân sách quốc pḥng của nước này, lên tới 2,5 tỷ USD. Quân đội Mỹ sẽ tiêu tốn cỡ đó vào con tàu sắp tới, tàu khu trục có tên lửa điều khiển, loại Arleigh Burke. Ngược lại, Trung Quốc dành 91,5 tỷ USD trong năm nay, theo các con số chính thức, và con số này có thể ít hơn so với thực tế. Số tiền chi tiêu này nhiều gấp 36 lần ngân sách của Philippines. Một dữ kiện khác: gần đây Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đă chuyển tàu tuần tra, loại Hamilton, năm 1967, cho phía Philippines. Con tàu tuần tra này đă trở hành niềm tự hào của Hải quân Philippines, thay thế con tàu khu trục hộ tống, được chế tạo cho Hải quân Mỹ thời Đệ nhị Thế chiến. Điều này cho thấy rơ sự yếu kém của Manila trên biển. Không có ǵ phải ngạc nhiên khi các nhà lănh đạo Philippines đă phải viện đến hiệp ước pḥng thủ chung Mỹ – Philippines với hy vọng dụ dỗ Washington ủng hộ các tuyên bố lănh hải của họ. Họ cần sự giúp đỡ.
Đơn giản là lực lượng vũ trang Philippines không thể đọ với những hạm đội mà các cơ quan giám sát hàng hải của Trung Quốc triển khai, huống hồ ǵ những hạm đội viễn dương ở các xưởng đóng tàu mà Hải quân Trung Quốc hiện đang đóng. Giáo sư Goldstein đă đề cập đến phần nhiều thực tế là Bắc Kinh dựa vào “các tàu tuần tra không vũ trang” do các cơ quan phi quân sự triển khai “để thực thi các tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông“. Đây “rơ ràng là một dấu hiệu” rằng Trung Quốc “không muốn leo thang thành xung đột vũ trang“. Tất nhiên, Bắc Kinh không muốn leo thang, biến các tranh chấp lănh thổ thành xung đột quân sự. Điều mà một chính phủ ôn ḥa muốn phát triển mà không có chiến tranh, hoàn thành các mục tiêu đă đề ra mà không gặp phải hậu quả ngoài ư muốn kèm theo chiến tranh là ǵ? Bằng cách triển khai những con tàu để bảo vệ các tuyên bố của ḿnh, Bắc Kinh ra hiệu thực tế là, đơn giản nước này đang thực hiện chính sách chủ quyền trên biển. Nước này muốn gắn các tuyên bố với tính hợp pháp. Nhưng nếu các nước Đông nam Á kiên quyết phản đối, chắc chắn là Trung Quốc sẽ cử các tàu của Hải quân Trung Quốc tới thực thi ư muốn của họ. Như cựu Thủ tướng Singapore, ông Lư Quang Diệu dự đoán, “đằng sau những con tàu tuần tra nhỏ này là hải quân viễn dương” nếu các cơ quan thi hành luật của Trung Quốc không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Điểm rộng hơn là Đông Nam Á giữ vai tṛ c̣n quan trọng hơn cả lợi ích cận biên đối với Mỹ. Sự tương phản này hầu như không lộ rơ hơn giữa Biển Đông nằm ở vị trí chiến lược với Biển Đen hẻo lánh. Biển Đen có thể đúng là một vùng biển chết đối với chính sách của Mỹ. Điều này dường như nằm ngoài suy nghĩ của Goldstein, người cho rằng tự do hàng hải “đă trở thành một trụ cột chính trong chính sách của Mỹ tại khu vực” và rằng điểm được cho là mấu chốt này “trên thực tế khá là vô lư”. Nhưng tự do của các vùng biển này không phải là một khái niệm mới lạ nào đó. Nó đă là một trụ cột của chính sách ngoại giao Mỹ trong nhiều thập niên qua. Trang web của Bộ Ngoại giao Mỹ đă chỉ ra một cách hữu ích rằng Chương tŕnh Tự do Hàng hải có từ thời Carter hồi cuối những năm 1970. Kể từ đó, các chính quyền kế tiếp nhau thuộc cả hai đảng chính trị đều từ chối “đồng ư với những hành động đơn phương của các nước khác nhằm hạn chế các quyền và sự tự do của cộng đồng quốc tế về hàng hải, việc bay trên các vùng trời và việc sử dụng các vùng biển khơi có liên quan khác”.
Ngăn cản các quốc gia ven biển khỏi việc vây chiếm các phần của chung toàn cầu, gây hại cho tự do trên biển, chẳng thể là vô lư. Chương tŕnh Tự do Hàng hải “hoạt động trên một một lộ tŕnh bộ tam, bao gồm không chỉ những thể hiện về ngoại giao và sự quyết đoán về hành động của các đơn vị quân đội Mỹ mà c̣n cả những tham vấn đa phương và song phương với các chính phủ khác trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy sự ổn định hàng hải và tuân thủ luật pháp quốc tế. Bộ máy quân sự và ngoại giao Mỹ thường phản đối các tuyên bố quá thể, luôn có một cách để củng cố luật pháp quốc tế theo thời gian nếu không có đối thủ. Bộ Ngoại giao đă nhiều lần đưa ra phản đối với các chính phủ vi phạm. Các đơn vị Hải quân Mỹ đă chủ ư vượt qua những giới tuyến được vẽ sai trên bản đồ, phát đi một thông điệp rằng Washington phản đối những giới tuyến đó.
05-10-2011
Quan điểm cho rằng Mỹ nên bỏ mặc Đông Nam Á cho Trung Quốc là đặt không đúng chỗ. Châu Á không phải là một Georgia khác, theo James Holmes.
Vài tháng trước, trên tạp chí Foreign Policy, một đồng nghiệp của tôi là Giáo sư Lyle Goldstein đă so sánh Biển Đông (nguyên văn: Biển Hoa Nam) ngày nay với cuộc chiến Nga – Georgia năm 2008. Tóm lại, ông ấy vẫn giữ quan điểm, rằng Mỹ thật dại dột khi đặt cược uy tín vào một đồng minh chiến lược cấp ba xa xôi và yếu kém, nằm cạnh bên một đất nước hùng mạnh hơn nhiều lần vốn đang thèm khát lănh thổ và sự phụ thuộc chính trị. Chính quyền Bush đă dồn dập dành cho Tbilisi “sự quan tâm cấp cao và các cố vấn quân sự“, để rồi chỉ thốt ra mỗi tiếng ‘rên rỉ’ khi Moscow ra lệnh cho các lực lượng thiết giáp đè bẹp quân đội Georgia và xâm chiếm phần lớn đất nước láng giềng này. Uy tín của Mỹ đă bị tổn hại nặng nề khi nước này không thể đảo ngược kết quả. Đứng về phía Georgia rơ ràng là một sự thất bại trong việc liều lĩnh chính sách ngoại giao.
Ông Lyle đă vẽ ra một bức tranh u ám. Nếu các nhà lănh đạo Mỹ chú ư đến lời khuyên của ông, họ sẽ từ bỏ gần như tất cả các cam kết ở Đông Nam Á, nơi mà ông mô tả là một khu vực có tầm quan trọng không đáng kể, cạnh bên một nước Trung Quốc ngày càng hùng mạnh. Ông cho rằng “Đông Nam Á chẳng có chút ư nghĩa nào trong sự cân bằng quyền lực toàn cầu“. Nếu không th́ Washington có nguy cơ phải chịu thất bại ngoại giao mới mà không đạt được lợi ích nào có thể hiểu được.
Cũng như chính quyền Bush không có “ham muốn ǵ khi đánh liều một cuộc xung đột lớn hơn với Moscow về một đất nước thuộc lợi ích chiến lược bên ŕa“, chính quyền Obama sẽ không, thực ra là không nên ràng buộc vận mệnh của ḿnh với các nước Đông Nam Á yếu kém. Điều này sẽ thêm vào lời cảnh báo chống lại sự ủng hộ các nước bạn bè nhưng “không quan trọng” vốn đang đấu tranh ở thế bất lợi. Mỹ không nên cố gắng thực hiện các nỗ lực hăo huyền nhằm đảo ngược t́nh h́nh. Tốt hơn là nên giũ bỏ những vướng bận không cần thiết trong khi hợp tác với Bắc Kinh để chống cướp biển và khủng bố trong khu vực, với hy vọng xây dựng một mối quan hệ tin cậy trên biển.
Nếu đây là một lời khẩn cầu thẳng thắn để Washington tránh bị vướng vào những tranh chấp lănh hải phức tạp đang gây bất ổn chính trị khu vực, tôi sẽ ủng hộ ngay lập tức. Như người phương Nam chúng ta thường nói, Mỹ không “quan tâm” đến việc ai sẽ kiểm soát đảo, san hô hay đảo đá nào, miễn là cường quốc kiểm soát chúng tôn trọng tự do hàng hải theo đúng luật pháp thông thường và thỏa thuận. Do vậy, vấn đề tranh luận giữa các quan chức Mỹ đó là, mối quan tâm duy nhất của Hoa Kỳ trong chủ đề tranh căi này là tự do hàng hải đi qua các vùng biển trong khu vực và thấy những cuộc căi vă về lănh thổ được giải quyết mà không phải dùng đến vũ lực.
Nhưng vẫn chưa rơ liệu Trung Quốc có tôn trọng luật biển hoặc kiềm chế sử dụng vũ lực hay không. Nước này liên tục tuyên bố “chủ quyền không thể chối căi” ở các vùng biển và không phận quốc tế nằm trong những đường nào đó trên bản đồ Biển Đông. Trung Quốc cũng nỗ lực ngăn chặn những hoạt động bay, giám sát quân sự, và khảo sát quân sự ở những khu vực chung, như các nước ven biển có thể thực hiện ở “những vùng lănh hải” của họ.
Vùng lănh hải này là vành đai biển 12 dặm ngoài khơi, nơi mà chính phủ ở các nước ven biển thực hiện đầy đủ quyền thực thi pháp lư. Các quốc gia ven biển không có quyền thống lĩnh những vùng biển xa hơn, ngay cả khi luật pháp quốc tế cho họ đặc quyền thực thi pháp lư đối với nguồn tài nguyên nhiên nhiên ở vùng biển và đáy biển cách bờ 200 dặm (xa hơn nếu địa h́nh dưới nước cho phép). Washington hoàn toàn đúng khi chống lại sự xâm lấn lén lút của Trung Quốc dựa trên quyền của các nước đi biển.
Sự tương tự của Biển Đen không làm thay đổi điều này, chủ yếu v́ các động lực ở đó hoàn toàn khác biệt so với những ǵ phổ biến ở Biển Đông ngày nay. Theo tôi, t́nh huống phải vượt qua ba cuộc kiểm tra về sự tương đồng giữa Nga – Georgia th́ mới phù hợp. Thứ nhất, phải đưa một nước lớn đấu với một nước nhỏ về lợi ích ngoại biên của Mỹ. Thứ hai, sự bất đối xứng trong sức mạnh quân sự phải tới mức mà bên mạnh hơn có thể thực hiện một việc đă rồi, chế ngự đối thủ yếu hơn trước khi Mỹ và cộng đồng quốc tế có thể tập trung quyết tâm và vũ lực để can thiệp. Và thứ ba, khoảng cách từ các lực lượng Mỹ tới nơi xảy ra xung đột phải xa tới mức Washington không thể triển khai lực lượng kịp thời để tạo ra một sự khác biệt. Quân đội Mỹ sẽ thiếu các căn cứ ở phía trước để sắp xếp và duy tŕ vũ khí gần chiến trường. Thật may, Biển Đông hoàn toàn không không đáp ứng bất kỳ cuộc kiểm tra nào như thế này.
Trước tiên, cân nhắc sự chênh lệch về sức mạnh giữa Trung Quốc và các nước láng giềng nhỏ hơn. Rơ ràng là Trung Quốc áp đảo bất kỳ quốc gia Đông nam Á nào trong một cuộc đấu nhau một chọi một, và với sự cách biệt khá lớn. Chẳng hạn, Chính phủ Philippines đă quyết định gia tăng gấp đôi ngân sách quốc pḥng của nước này, lên tới 2,5 tỷ USD. Quân đội Mỹ sẽ tiêu tốn cỡ đó vào con tàu sắp tới, tàu khu trục có tên lửa điều khiển, loại Arleigh Burke. Ngược lại, Trung Quốc dành 91,5 tỷ USD trong năm nay, theo các con số chính thức, và con số này có thể ít hơn so với thực tế. Số tiền chi tiêu này nhiều gấp 36 lần ngân sách của Philippines. Một dữ kiện khác: gần đây Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đă chuyển tàu tuần tra, loại Hamilton, năm 1967, cho phía Philippines. Con tàu tuần tra này đă trở hành niềm tự hào của Hải quân Philippines, thay thế con tàu khu trục hộ tống, được chế tạo cho Hải quân Mỹ thời Đệ nhị Thế chiến. Điều này cho thấy rơ sự yếu kém của Manila trên biển. Không có ǵ phải ngạc nhiên khi các nhà lănh đạo Philippines đă phải viện đến hiệp ước pḥng thủ chung Mỹ – Philippines với hy vọng dụ dỗ Washington ủng hộ các tuyên bố lănh hải của họ. Họ cần sự giúp đỡ.
Đơn giản là lực lượng vũ trang Philippines không thể đọ với những hạm đội mà các cơ quan giám sát hàng hải của Trung Quốc triển khai, huống hồ ǵ những hạm đội viễn dương ở các xưởng đóng tàu mà Hải quân Trung Quốc hiện đang đóng. Giáo sư Goldstein đă đề cập đến phần nhiều thực tế là Bắc Kinh dựa vào “các tàu tuần tra không vũ trang” do các cơ quan phi quân sự triển khai “để thực thi các tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông“. Đây “rơ ràng là một dấu hiệu” rằng Trung Quốc “không muốn leo thang thành xung đột vũ trang“. Tất nhiên, Bắc Kinh không muốn leo thang, biến các tranh chấp lănh thổ thành xung đột quân sự. Điều mà một chính phủ ôn ḥa muốn phát triển mà không có chiến tranh, hoàn thành các mục tiêu đă đề ra mà không gặp phải hậu quả ngoài ư muốn kèm theo chiến tranh là ǵ? Bằng cách triển khai những con tàu để bảo vệ các tuyên bố của ḿnh, Bắc Kinh ra hiệu thực tế là, đơn giản nước này đang thực hiện chính sách chủ quyền trên biển. Nước này muốn gắn các tuyên bố với tính hợp pháp. Nhưng nếu các nước Đông nam Á kiên quyết phản đối, chắc chắn là Trung Quốc sẽ cử các tàu của Hải quân Trung Quốc tới thực thi ư muốn của họ. Như cựu Thủ tướng Singapore, ông Lư Quang Diệu dự đoán, “đằng sau những con tàu tuần tra nhỏ này là hải quân viễn dương” nếu các cơ quan thi hành luật của Trung Quốc không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Điểm rộng hơn là Đông Nam Á giữ vai tṛ c̣n quan trọng hơn cả lợi ích cận biên đối với Mỹ. Sự tương phản này hầu như không lộ rơ hơn giữa Biển Đông nằm ở vị trí chiến lược với Biển Đen hẻo lánh. Biển Đen có thể đúng là một vùng biển chết đối với chính sách của Mỹ. Điều này dường như nằm ngoài suy nghĩ của Goldstein, người cho rằng tự do hàng hải “đă trở thành một trụ cột chính trong chính sách của Mỹ tại khu vực” và rằng điểm được cho là mấu chốt này “trên thực tế khá là vô lư”. Nhưng tự do của các vùng biển này không phải là một khái niệm mới lạ nào đó. Nó đă là một trụ cột của chính sách ngoại giao Mỹ trong nhiều thập niên qua. Trang web của Bộ Ngoại giao Mỹ đă chỉ ra một cách hữu ích rằng Chương tŕnh Tự do Hàng hải có từ thời Carter hồi cuối những năm 1970. Kể từ đó, các chính quyền kế tiếp nhau thuộc cả hai đảng chính trị đều từ chối “đồng ư với những hành động đơn phương của các nước khác nhằm hạn chế các quyền và sự tự do của cộng đồng quốc tế về hàng hải, việc bay trên các vùng trời và việc sử dụng các vùng biển khơi có liên quan khác”.
Ngăn cản các quốc gia ven biển khỏi việc vây chiếm các phần của chung toàn cầu, gây hại cho tự do trên biển, chẳng thể là vô lư. Chương tŕnh Tự do Hàng hải “hoạt động trên một một lộ tŕnh bộ tam, bao gồm không chỉ những thể hiện về ngoại giao và sự quyết đoán về hành động của các đơn vị quân đội Mỹ mà c̣n cả những tham vấn đa phương và song phương với các chính phủ khác trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy sự ổn định hàng hải và tuân thủ luật pháp quốc tế. Bộ máy quân sự và ngoại giao Mỹ thường phản đối các tuyên bố quá thể, luôn có một cách để củng cố luật pháp quốc tế theo thời gian nếu không có đối thủ. Bộ Ngoại giao đă nhiều lần đưa ra phản đối với các chính phủ vi phạm. Các đơn vị Hải quân Mỹ đă chủ ư vượt qua những giới tuyến được vẽ sai trên bản đồ, phát đi một thông điệp rằng Washington phản đối những giới tuyến đó.