vuitoichat
10-27-2011, 14:25
Lời giới thiệu: Theo Wikipedia (http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_V%C4 %83n_Hi%E1%BA%BFu) th́ ông Dương Văn Hiếu biệt danh “Hùm xám của Chế độ” là người chỉ huy Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung, cơ quan t́nh báo, phản gián của Ngô Đ́nh Cẩn, vào những năm đầu của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa.
Dương Văn Hiếu sinh tại Hà Nam, trong một gia đ́nh trung lưu, học trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà Nội; Có bằng diplôme d’Eùtudes primaires supérieures . Sau Hiệp định Genève năm 1954, Dương Văn Hiếu được ông Vơ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, Dương Văn Hiếu giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha Công an Cảnh sát Trung nguyên Trung phần, sau đó trở thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Giữa 1957, Dương Văn Hiếu được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung.
Dưới sự chỉ huy của Dương Văn Hiếu Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung từng bắt ông Mười Hương, Vũ Ngọc Nhạ, đại tá Lê Câu, truy bắt Huỳnh Văn Trọng [1], theo dơi Phạm Ngọc Thảo.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đ́nh Diệm, Dương Văn Hiếu bị bắt, điều tra, và bị kết án khổ sai chung thân đày ca Côn đảo. Đến năm 1964, th́ Dương Văn Hiếu được phóng thích và phải hành nghề mua bán âu dược để sinh sống. Sau năm 1968, Dương Văn Hiếu có một thời gian làm việc cho Phủ Đặc ủy Trung ương T́nh báo nhưng không được trọng dụng nên ông bỏ việc. Đêm 28 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Hiếu rời Việt Nam trên một chiếc tàu Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An.
————-
Sau đây là những thông tin mà ông Dương Văn Hiếu cung cấp cho Lâm Lễ Trinh về thời gian ông cộng tác với chế độ Ngô Đ́nh Diệm; những nhận định của ông về chuyện thương thảo giữa Ngô Đ́nh Diệm với ông Hồ Chí Minh…
CUỐI CÙNG, DƯƠNG VĂN HIẾU LÊN TIẾNG…
Sự tịnh khẩu từ 1963 cho đến nay của ông Dương Văn Hiếu, nguyên Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung thời Đệ nhứt Cộng hoà Việt Nam, là một cuộc hành tŕnh xuyên sa mạc dài trên bốn thập niên. Tác giả bài này đă liên lạc lại được với ông Hiếu hiện định cư tại San Jose, Californie. « Con người biết quá nhiều, L’homme qui en savait trop » và từng bị gán biệt danh «Hùm Xám của Chế độ» đă chấp nhận trả lời nhiều câu hỏi của chúng tôi liên hệ đến một giai đoạn chính trị cực kỳ sôi động trong cuộc chiến tranh t́nh báo chống Bắc Việt từ 1954 cho đến tháng 11.1963. Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, ông Hiếu bị Hội đồng Quân Dân Cách Mạng điều tra, đưa ra Côn đảo với một số nhân vật khác của Chính phủ cũ và được trả tự do năm 1964.
Đêm 28.4.1975, ông rời Việt Nam với đứa con trai đầu ḷng trên một chiếc tàu Hải quân VN cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An. Năm 1989, gia đ́nh gồm có vợ và tám người con sau qua đoàn tụ với ông tại Hoa kỳ.
Ông Dương Văn Hiếu nay 81 tuổi, sức khoẻ không dồi dào như trước nhưng trí nhớ c̣n sắc bén khi nhắc đến kư ức xa xưa. Ông giới hạn hoàn toàn sự giao thiệp bên ngoài về mặt chính trị và đă từ chối mọi đề nghị phỏng vấn của báo chí. Sau đây là những điểm chính có thể tiết lộ trong cuộc nói chuyên có ghi âm giữa ông Dương Văn Hiếu (DVH) và tác giả (LLT) :
LLT: Xin ông vui ḷng cho biết sơ lược, nếu được, những năm niên thiếu của ông và trường hợp nào ông tham gia ngành công an và được bổ nhiệm vào chức vụ Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐMT). Chức vụ chót của ông trước trước cuộc đảo chính 1.11.1963 là ǵ ?
DVH : Tôi sanh ra tại Hà Nam, Bắc Việt, trong một gia đ́nh trung lưu làm ăn thành công.Tôi học tại trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà Nội. Vừa lấy xong bằng diplôme d’Études primaires supérieures vào năm 1944-1945 th́ Nhựt đảo chính Pháp. Tôi lập gia đ́nh năm 1948, bố vợ tôi là bác sĩ Nguyễn Văn Tam từng phục vụ trong Liên khu 5 và cộng tác với Đức cha Lê Hữu Từ ở Phát Diệm. Sau Hiệp định Genève năm 1954, tôi được cụ Vơ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần, để ư trong một buổi học tập chính trị mà tôi là thuyết tŕnh viên (về đề tài Điện Biên Phủ). Ông tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, tôi giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên Trung phần. Khi ông Nguyễn Chử, một lănh tụ Quốc Dân Đảng, thay thế cụ Nguyện, tôi trở thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Nhờ phá vỡ được trong ṿng hai năm hệ thống điệp báo Cộng sản Khu 5 và mở rộng hoạt động ra đến các tỉnh Quảng trị, Quảng Ngải, B́nh Thuận, Qui Nhơn..v..v.., tôi được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đ́nh Cẩn và Đại biểu Chính phủ Miền Trung Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt t́nh với Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Giữa 1957, tôi được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐBMT) để làm việc tại Sàig̣n vào dầu năm 1958. Chủ đích của Đoàn là thi hành chính sách của Cố vấn Ngô Đ́nh Cẩn mệnh danh « Chiêu mời (sau đổi thành Cải tạo) và Xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến ». Lúc đó tôi đă gia nhập đảng Cần Lao.Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Quang Đán ngày 11.11.1960, tôi làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công an Nguyễn Văn Y, c̣n ông Nguyễn Văn Hay th́ giữ chức Phó Tổng giám đốc Công an.(Vợ ông Hay là một người em bà con của tướng Dương Văn Minh)
LLT: Có phải cùng một lúc, ba sĩ quan Cần Lao Nguyễn Văn Châu, Phạm Thư Đường và Lê Quang Tung cũng được đưa vào Nam. Châu trong chức Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lư, Bộ Quốc pḥng; Đường, Phụ tá cho Trần Kim Tuyến, Sở Nghiên Cứu Xă hội Chính trị (SNCCTXH); và Tung, cầm đầu Lực lượng Đặc biệt? Ngoài ra, c̣n có Phan Ngọc Các, hoạt động cho cánh Cần Lao Ngô Đ́nh Cẩn. Đoàn CTĐBMT đặt trụ sở tại đâu? có bao nhiêu nhân viên? chi phí họat động do cơ quan nào trang trải?
DVH : ĐCTĐBMT có trách vụ lo về t́nh báo chiến lược và phản gián, không liên hệ đến ba sĩ quan vừa kể và Phan Ngọc Các. Trụ sở của Đoàn đặt tại trại Lê Văn Duyệt, Sàig̣n, gần Quân khu Thủ đô. Dưới quyền tôi, có tám nhân viên và hai thơ kư đánh máy. Chi phí hoạt động (lương bổng, đồ ăn, feuille de route.v.v…) do Pḥng Hành chính của Phụ tá Nguyễn Thành tại Tổng Nha Công an cấp v́ trên giấy tờ, tôi và các nhân viên được coi như vẫn thuộc Ty Công an Thừa Thiên. Đôi khi Đoàn cũng nhận được sự trợ giúp của Chánh Văn Pḥng Đặc biệt Vơ Văn Hải, với tiền lấy từ Quỷ đen của Tổng Thống. Số tiền này không hệ trọng, chỉ có tính cách nâng đỡ tinh thần. Riêng cá nhân tôi không được cấp một nhà chức vụ. Tôi có mua một công xá gần nhà bí thơ Trần Sử ở khu Công Lư, Sàig̣n. Đoàn không nhận một ngân khoản nào đến từ ông Ngô Đ́nh Cẩn.
LLT: Xin ông cho biết vài chi tiết hệ trọng trong hồ sơ Vũ Ngọc Nhạ (từng tự xưng là cố vấn của TT Diệm) và Huỳnh Văn Trọng (cố vấn của Tổng Thống Thiệu)
DVH : Nhạ không bao giờ làm cố vấn cho TT Diệm. ĐCTĐBMT đă bắt y thời Đệ nhứt Cộng Ḥa như một cán bộ CS tép riu, một tiểu công chức tại Bộ Công Chánh. Nhạ mang nhiều tên khác: Vũ Đ́nh Long, Hai Long, Ông Giáo, Thầy Bốn..v..v.. C̣n Trọng th́ bị dính trong vu mệnh danh « Gián điệp Pháp ở Nhà hàng Morin Huế ». Y đă trốn thoát qua Nam Vang. Sau 1963,trở về Sàig̣n, y được Nhạ bố trí vào Dinh Độc lập. Chính Tổng trưởng Nội vụ Hà Thúc Kư đă thả Nhạ sau 1963. Nhạ tái hoạt động với cụm t́nh báo A 22 trong đó có Trọng và Lê Hữu Thúy tự Thắng. Linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu Nhạ cho Trần Ngọc Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận, bạn thân của vợ chồng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
LLT: ĐCTĐBMT có xử dụng «hầm» P42 – được báo giới ngoại quốc mô tả là « địa ngục trần gian»- để tra vấn các tù nhân hay không ?
DVH : P42 là một biệt thự thuộc Bộ Canh nông nằm bên trong Sở Thú, Jardin botanique Sàig̣n, dùng để nhốt một số can phạm chính trị đặc biệt. Đoàn chúng tôi không xử dụng v́ có trại Lê Văn Duyệt rồi.
LLT: Trong công tác, ông phúc tŕnh cho ai? Tổng Thống? Ông Nhu hay ông Cẩn? Ông có trao đổi tin tức, tài liệu ǵ với cơ quan CIA hay không? Mối giao hảo công vụ giữa ĐCTĐBMT và Tổng Nha Công An, Sở NCXHCT của Trần Kim Tuyến, Tổng Nha An ninh Bộ Quốc pḥng (Đổ Mậu) và Lê Quang Tung ra sao?
DVH : Tôi làm việc gần ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng cần hỏi thêm, Tổng Thống gọi tôi vào Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc tŕnh cho ông Cẩn. Trong những ngày cuối cùng trước đảo chính 1963, tôi bị ông Cẩn hiểu lầm “nhức đầu”. Ông Nguyễn Văn Minh, bí thơ ông Cẩn, và Trung tá Phạm Thư Đường, chánh văn pḥng Cố vấn Nhu cũng ở trong hoàn cảnh đó.
Tôi không bao giờ liên lạc với CIA. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính 1.11.1963, bị Cách Mạng giam tại Chí Hoà, tôi mới được biết rằng tên Phan Khanh, phụ tá cho tôi, chiụ trách nhiệm về operations, được CIA móc nối. Khanh do ông Cẩn giới thiệu với tôi “v́ biết vơ”.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực lượng Đặïc biệt) và Đổ Mậu (An ninh Quân đội) không ưa tôi. Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và bà Thiếu tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông Y tại Công An) đều không thích bà Tuyến v́ tranh dành địa vị bên cạnh bà Nhu nên ảnh hưởng đến các ông chồng. Tôi tránh xen vào mê hồn trận này.
Riêng về Đổ Mậu, ông hận tôi v́ ĐCTĐBMT đă phát hiện và bắt Thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được ông đặt làm Trưởng pḥng An ninh tại Nha An ninh Quân đội.
LLT: Phương pháp làm việc của ĐCTĐBMT có ǵ mới lạ? Hiệu quả công tác của Đoàn ra sao? Phản ứng của phiá CS Bắc Việt như thế nào?
DVH : Sau đây tóm tắt vài đặc điểm của Chính sách Cải tạo (đi đôi với việc thành lập Lực Lượng Vơ Trang Nhân Dân}: Trong các nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ ăn, ở,học tập, chơi và sinh hoạt chung với cán bộ Việt Cộng sa lưới. Các Toán trưởng thu thập những tờ khai báo của những cán bộ này nạp cho Ban cải tạo hay Ban nghiên cứu. Chúng tôi không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật; giữ kín hoàn toàn những trường hợp đầu hàng hay hợp tác; Đoàn chúng tôi đă tạo nên một màng lưới phục kích, bao vây các cán bộ từ chính đường giây giao liên và cơ sở cũ mà Cách Mạng đă dày công tổ chức. Thay v́ hỏi cung thông thường, chúng tôi áp dụng phương thức mạn đàm, trao đổi, tranh luận, khai thông tư tưởng, cởi mở với đối tượng. Nếu cần, mua chuộc, dụ dỗ chuyển hướng. Đối với những cán bộ CS ngoan cố, chúng tôi xử dụng tập thể CS cải tạo để khuyên nhủ lôi cuốn hoặc, theo đường lối “xa luân chiến”, giải thích chính sách chuyển hướng, tranh luận áp đảo các thắc mắc, phản ứng của người bị bắt…v..v..V́ thời lượng buổi nói chuyện hôm nay giới hạn nên chúng tôi mong trở lại vấn đề phức tạp này trong một dịp khác.
Để trả lời phần hai câu hỏi của Luật sư, ít nữa 4 quyển sách tịch thu được trong chiến khu VC cho thấy chúng rất e sợ “chính sách mới lạ, kỳ diệu và nguy hiểm” do ĐCTĐBMT áp dụng. Bốn quyển ấy mang tên “Đoàn Mật vụ của Ngô Đ́nh Cẩn (tác giả Văn Phan), Đường Thời Đại (tác giả Đặng Đ́nh Loan), Cuộc chiến tranh đặc biệt (hồi kư của Đinh Thị Vân) và Bội phản hay Chân chính (tiểu thuyết hồi kư của Dư Văn Chất}. Với chính sách này, Đoàn chúng tôi bắt gọn được – vào hạ bán niên 1958 – hai màng lưới T́nh báo Chiến lược và Quân báo CS từ Bến Hải vào đến Sàig̣n.
Trong tài liệu mệnh danh “Thư vào Nam” của Tổng bí thơ Lê Duẫn gởi tháng 7.1962 cho Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, khi ấy Xứ ủy Nam bộ, có đọan viết: “Đă có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5 (Miền Trung), t́nh h́nh khó khăn đến mức tưởng như Cách Mạng không thể duy tŕ và phát triển được.”
LLT: V́ sao (Nha sĩ dỏm và Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao cho ông N Đ Cẩn tại Miền Nam, bị bắt? Ai bắt?
DVH : Cố vấn Nhu ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt v́ Các làm tiền thương gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao lung tung. Ông Cẩn rất bất mản về chuyện Các bị bắt và bảo tôi thưa lại với ông Nhu phóng thích Các. Tung là người của ông Cẩn.Tôi có cảm nghĩ Tung và Tuyến theo dơi tôi c̣n (Nguyễn Văn) Y th́ đố kỵ tôi.
.
LLT: Thái Trắng (tức Lê Văn Thái, qua đời tại San Diego) và Thái Đen (tức Nguyễn Như Thái, biệt danh Đại tá Thanh Tùng) có làm việc cho ông hay không?
DVH : Chỉ có Thái Đen cộng tác với tôi. Thái Trắng làm việc với Tuyến, y là bà con vợ trước (Đặng Tuyết Mai) của Nguyễn Cao Kỳ. Không biết tại sao Thái Đen lại mang biêt danh “Đại tá Thanh Tùng” v́ y không bao giờ có chân trong Quân đôi hay đồng hoá sĩ quan. Y phụ tá cho tôi về mặt hành chính, bị Toà lên án khổ sai chung thân, bị đưa ra Côn đảo về tội “bắt người trái phép” và được thả ra trước tôi. Thời Đệ nhị Cộng Hoà, h́nh như Nguyễn Ngọc Loan có xử dụng đương sự.
LLT: Ông có thể cho biết tên và chức vụ của vài cán bộ cao cấp Việt Cộng bị ĐCTĐBMT bắt giữ?
.
DVH : Có thể cho biết hai tên:
a -Trần Quốc Hương tự Mười Hương, Ủy viên Trung ương Đảng, người chỉ huy màng lưới T́nh báo Chiến lược của Hà Nội tại Miền Nam. Y bị bắt lối năm 1958. Chính tôi đă đưa Hương ra Huế gặp bí mật hai ông Nhu và Cẩn ở Thuận An, trên một chuyến máy bay đặc biệt do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ lái. Hương được Hội đồng Cách Mạng trả tự do tháng 5.1964.
- Đại tá Cộng Sản Lê Câu đă giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, Công cán ûy viên của Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẩu. Lương ăn trộm và chuyển cho Hà Nội toàn bản chính kế hoạch kinh tế Staley-Vũ Quốc Thúc.Tôi gài bẩy bắt Lương khi y lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt để đi Thái Lan v́ công vụ. Ông Mẩu không hay biết lư do.
LLT: Ông biết ǵ về đại tá Phạm Ngọc Thảo?
DVH : Trong phạm vi trách nhiệm phản gián, tôi có theo dơi Phạm Ngọc Thảo. Tôi biết Thảo được Đức cha Thục giới thiệu vào Bảo An và Thảo có liên hệ chính trị với bác sỉ Tuyến trong những năm tháng chót trước cuộc binh biến 1.11.1963. H́nh như Thảo có tŕnh với Tổng Thống Diệm rằng Đoàn Công tác của chúng tôi bám sát y. Tôi có dịp thưa với Tổng Thống nên lưu ư đến Thảo v́ Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong chức vụ hệ trọng. Tổng Thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai thác kinh nghiệm của Thảo trong lănh vực ấp chiến lược và khu trù mật?.
LLT: Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 th́ ông ở đâu? Có trách vụ ǵ? Xin cho biết vài ư kiến về cuộc khủng hoảng Phật giáo.
DVH : Lúc đó tôi công tác ở Sàig̣n, tôi không liên hệ trực tiếp đến vụ Phật giáo. Tôi nhớ: Một hôm tôi vào tŕnh việc trong Dinh (Độc Lập), Tổng Thống than phiên rằng cụ vưà kinh lư khu Dinh điền Vị Thanh về, đi ngang một ngôi chùa, thấy cờ Phật giáo treo trên cột cao giữa sân chuà, c̣n Quốc kỳ th́ bắng giấy, nhỏ cở bàn tay, dán trên trụ cột ngoài cổng, không ra thể thống ǵ cả. Khi về, Tổng Thống có mời Đức Khâm Mạng Toà Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai Phó Hội chủ Tổng Hội Phất giáo) vô cho biết t́nh trạng và yêu cầu lưu ư các giáo dân phải tôn trọng Quốc kỳ theo thể thức được Chính phủ quy định. Hai vị vừa kể hứa lưu ư giáo dân. Sau đó Tổng Thống có ra lệnh miệng cho ông Đổng lư Văn pḥng Quách Ṭng Đức gởi công điện nhắc các Tỉnh. Không biết v́ sao ông Đức để đến ngày chót trước Lễ Phật Đản 8.5.1963 mới gởi công điện.Tổng Thống có kêu ông Đức vô hỏi, ông Đức xin từ chức, Tổng Thống nói: công chuyện đổ bể như thế, xin thôi có ích chi?
Ngoài ra, lúc bị giam chung với tôi sau ngày 1.11.1963, Thiếu tá Đặng Sỉ, Tiểu khu trưởng kiêm Phó Tỉnh trưởng Thưà Thiên, nói với tôi rằng ông bị oan v́ đưọc Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1 Chiến thuật, cho phép ông chiều ngày 8.5.1963, trước Đài Phát thanh Huế, dùng lưụ đạn hơi để giải tán biểu t́nh. Không biết “bàn tay bí mật” nào đă vung một trái lưu đạn chiến đấu gây thiệt mạng cho 8 em bé và thương tích cho nhiều người khác. Sĩ bị Toà phạt khổ sai chung thân.
Thượng tọa Trí Quang, làm việc cho CS, đóng vai tṛ hàng đầu trong vụ Phật giáo, lợi dụng mối giao hảo tốt với Cố vấn Cẩn. Sau 1975, tướng Nghiêm không bị làm khó v́ đi đêm với Bắc Việt từ trước. Cũng như bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Bênh viện Huế.Tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục hành động nóng nảy , Cố vấn Cẩn bị bó tay.
Dương Văn Hiếu sinh tại Hà Nam, trong một gia đ́nh trung lưu, học trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà Nội; Có bằng diplôme d’Eùtudes primaires supérieures . Sau Hiệp định Genève năm 1954, Dương Văn Hiếu được ông Vơ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, Dương Văn Hiếu giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha Công an Cảnh sát Trung nguyên Trung phần, sau đó trở thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Giữa 1957, Dương Văn Hiếu được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung.
Dưới sự chỉ huy của Dương Văn Hiếu Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung từng bắt ông Mười Hương, Vũ Ngọc Nhạ, đại tá Lê Câu, truy bắt Huỳnh Văn Trọng [1], theo dơi Phạm Ngọc Thảo.
Sau cuộc đảo chính Ngô Đ́nh Diệm, Dương Văn Hiếu bị bắt, điều tra, và bị kết án khổ sai chung thân đày ca Côn đảo. Đến năm 1964, th́ Dương Văn Hiếu được phóng thích và phải hành nghề mua bán âu dược để sinh sống. Sau năm 1968, Dương Văn Hiếu có một thời gian làm việc cho Phủ Đặc ủy Trung ương T́nh báo nhưng không được trọng dụng nên ông bỏ việc. Đêm 28 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Hiếu rời Việt Nam trên một chiếc tàu Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An.
————-
Sau đây là những thông tin mà ông Dương Văn Hiếu cung cấp cho Lâm Lễ Trinh về thời gian ông cộng tác với chế độ Ngô Đ́nh Diệm; những nhận định của ông về chuyện thương thảo giữa Ngô Đ́nh Diệm với ông Hồ Chí Minh…
CUỐI CÙNG, DƯƠNG VĂN HIẾU LÊN TIẾNG…
Sự tịnh khẩu từ 1963 cho đến nay của ông Dương Văn Hiếu, nguyên Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung thời Đệ nhứt Cộng hoà Việt Nam, là một cuộc hành tŕnh xuyên sa mạc dài trên bốn thập niên. Tác giả bài này đă liên lạc lại được với ông Hiếu hiện định cư tại San Jose, Californie. « Con người biết quá nhiều, L’homme qui en savait trop » và từng bị gán biệt danh «Hùm Xám của Chế độ» đă chấp nhận trả lời nhiều câu hỏi của chúng tôi liên hệ đến một giai đoạn chính trị cực kỳ sôi động trong cuộc chiến tranh t́nh báo chống Bắc Việt từ 1954 cho đến tháng 11.1963. Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, ông Hiếu bị Hội đồng Quân Dân Cách Mạng điều tra, đưa ra Côn đảo với một số nhân vật khác của Chính phủ cũ và được trả tự do năm 1964.
Đêm 28.4.1975, ông rời Việt Nam với đứa con trai đầu ḷng trên một chiếc tàu Hải quân VN cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An. Năm 1989, gia đ́nh gồm có vợ và tám người con sau qua đoàn tụ với ông tại Hoa kỳ.
Ông Dương Văn Hiếu nay 81 tuổi, sức khoẻ không dồi dào như trước nhưng trí nhớ c̣n sắc bén khi nhắc đến kư ức xa xưa. Ông giới hạn hoàn toàn sự giao thiệp bên ngoài về mặt chính trị và đă từ chối mọi đề nghị phỏng vấn của báo chí. Sau đây là những điểm chính có thể tiết lộ trong cuộc nói chuyên có ghi âm giữa ông Dương Văn Hiếu (DVH) và tác giả (LLT) :
LLT: Xin ông vui ḷng cho biết sơ lược, nếu được, những năm niên thiếu của ông và trường hợp nào ông tham gia ngành công an và được bổ nhiệm vào chức vụ Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐMT). Chức vụ chót của ông trước trước cuộc đảo chính 1.11.1963 là ǵ ?
DVH : Tôi sanh ra tại Hà Nam, Bắc Việt, trong một gia đ́nh trung lưu làm ăn thành công.Tôi học tại trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà Nội. Vừa lấy xong bằng diplôme d’Études primaires supérieures vào năm 1944-1945 th́ Nhựt đảo chính Pháp. Tôi lập gia đ́nh năm 1948, bố vợ tôi là bác sĩ Nguyễn Văn Tam từng phục vụ trong Liên khu 5 và cộng tác với Đức cha Lê Hữu Từ ở Phát Diệm. Sau Hiệp định Genève năm 1954, tôi được cụ Vơ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần, để ư trong một buổi học tập chính trị mà tôi là thuyết tŕnh viên (về đề tài Điện Biên Phủ). Ông tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, tôi giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên Trung phần. Khi ông Nguyễn Chử, một lănh tụ Quốc Dân Đảng, thay thế cụ Nguyện, tôi trở thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Nhờ phá vỡ được trong ṿng hai năm hệ thống điệp báo Cộng sản Khu 5 và mở rộng hoạt động ra đến các tỉnh Quảng trị, Quảng Ngải, B́nh Thuận, Qui Nhơn..v..v.., tôi được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đ́nh Cẩn và Đại biểu Chính phủ Miền Trung Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt t́nh với Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Giữa 1957, tôi được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐBMT) để làm việc tại Sàig̣n vào dầu năm 1958. Chủ đích của Đoàn là thi hành chính sách của Cố vấn Ngô Đ́nh Cẩn mệnh danh « Chiêu mời (sau đổi thành Cải tạo) và Xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến ». Lúc đó tôi đă gia nhập đảng Cần Lao.Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Quang Đán ngày 11.11.1960, tôi làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công an Nguyễn Văn Y, c̣n ông Nguyễn Văn Hay th́ giữ chức Phó Tổng giám đốc Công an.(Vợ ông Hay là một người em bà con của tướng Dương Văn Minh)
LLT: Có phải cùng một lúc, ba sĩ quan Cần Lao Nguyễn Văn Châu, Phạm Thư Đường và Lê Quang Tung cũng được đưa vào Nam. Châu trong chức Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lư, Bộ Quốc pḥng; Đường, Phụ tá cho Trần Kim Tuyến, Sở Nghiên Cứu Xă hội Chính trị (SNCCTXH); và Tung, cầm đầu Lực lượng Đặc biệt? Ngoài ra, c̣n có Phan Ngọc Các, hoạt động cho cánh Cần Lao Ngô Đ́nh Cẩn. Đoàn CTĐBMT đặt trụ sở tại đâu? có bao nhiêu nhân viên? chi phí họat động do cơ quan nào trang trải?
DVH : ĐCTĐBMT có trách vụ lo về t́nh báo chiến lược và phản gián, không liên hệ đến ba sĩ quan vừa kể và Phan Ngọc Các. Trụ sở của Đoàn đặt tại trại Lê Văn Duyệt, Sàig̣n, gần Quân khu Thủ đô. Dưới quyền tôi, có tám nhân viên và hai thơ kư đánh máy. Chi phí hoạt động (lương bổng, đồ ăn, feuille de route.v.v…) do Pḥng Hành chính của Phụ tá Nguyễn Thành tại Tổng Nha Công an cấp v́ trên giấy tờ, tôi và các nhân viên được coi như vẫn thuộc Ty Công an Thừa Thiên. Đôi khi Đoàn cũng nhận được sự trợ giúp của Chánh Văn Pḥng Đặc biệt Vơ Văn Hải, với tiền lấy từ Quỷ đen của Tổng Thống. Số tiền này không hệ trọng, chỉ có tính cách nâng đỡ tinh thần. Riêng cá nhân tôi không được cấp một nhà chức vụ. Tôi có mua một công xá gần nhà bí thơ Trần Sử ở khu Công Lư, Sàig̣n. Đoàn không nhận một ngân khoản nào đến từ ông Ngô Đ́nh Cẩn.
LLT: Xin ông cho biết vài chi tiết hệ trọng trong hồ sơ Vũ Ngọc Nhạ (từng tự xưng là cố vấn của TT Diệm) và Huỳnh Văn Trọng (cố vấn của Tổng Thống Thiệu)
DVH : Nhạ không bao giờ làm cố vấn cho TT Diệm. ĐCTĐBMT đă bắt y thời Đệ nhứt Cộng Ḥa như một cán bộ CS tép riu, một tiểu công chức tại Bộ Công Chánh. Nhạ mang nhiều tên khác: Vũ Đ́nh Long, Hai Long, Ông Giáo, Thầy Bốn..v..v.. C̣n Trọng th́ bị dính trong vu mệnh danh « Gián điệp Pháp ở Nhà hàng Morin Huế ». Y đă trốn thoát qua Nam Vang. Sau 1963,trở về Sàig̣n, y được Nhạ bố trí vào Dinh Độc lập. Chính Tổng trưởng Nội vụ Hà Thúc Kư đă thả Nhạ sau 1963. Nhạ tái hoạt động với cụm t́nh báo A 22 trong đó có Trọng và Lê Hữu Thúy tự Thắng. Linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu Nhạ cho Trần Ngọc Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận, bạn thân của vợ chồng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
LLT: ĐCTĐBMT có xử dụng «hầm» P42 – được báo giới ngoại quốc mô tả là « địa ngục trần gian»- để tra vấn các tù nhân hay không ?
DVH : P42 là một biệt thự thuộc Bộ Canh nông nằm bên trong Sở Thú, Jardin botanique Sàig̣n, dùng để nhốt một số can phạm chính trị đặc biệt. Đoàn chúng tôi không xử dụng v́ có trại Lê Văn Duyệt rồi.
LLT: Trong công tác, ông phúc tŕnh cho ai? Tổng Thống? Ông Nhu hay ông Cẩn? Ông có trao đổi tin tức, tài liệu ǵ với cơ quan CIA hay không? Mối giao hảo công vụ giữa ĐCTĐBMT và Tổng Nha Công An, Sở NCXHCT của Trần Kim Tuyến, Tổng Nha An ninh Bộ Quốc pḥng (Đổ Mậu) và Lê Quang Tung ra sao?
DVH : Tôi làm việc gần ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng cần hỏi thêm, Tổng Thống gọi tôi vào Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc tŕnh cho ông Cẩn. Trong những ngày cuối cùng trước đảo chính 1963, tôi bị ông Cẩn hiểu lầm “nhức đầu”. Ông Nguyễn Văn Minh, bí thơ ông Cẩn, và Trung tá Phạm Thư Đường, chánh văn pḥng Cố vấn Nhu cũng ở trong hoàn cảnh đó.
Tôi không bao giờ liên lạc với CIA. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính 1.11.1963, bị Cách Mạng giam tại Chí Hoà, tôi mới được biết rằng tên Phan Khanh, phụ tá cho tôi, chiụ trách nhiệm về operations, được CIA móc nối. Khanh do ông Cẩn giới thiệu với tôi “v́ biết vơ”.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực lượng Đặïc biệt) và Đổ Mậu (An ninh Quân đội) không ưa tôi. Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và bà Thiếu tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông Y tại Công An) đều không thích bà Tuyến v́ tranh dành địa vị bên cạnh bà Nhu nên ảnh hưởng đến các ông chồng. Tôi tránh xen vào mê hồn trận này.
Riêng về Đổ Mậu, ông hận tôi v́ ĐCTĐBMT đă phát hiện và bắt Thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được ông đặt làm Trưởng pḥng An ninh tại Nha An ninh Quân đội.
LLT: Phương pháp làm việc của ĐCTĐBMT có ǵ mới lạ? Hiệu quả công tác của Đoàn ra sao? Phản ứng của phiá CS Bắc Việt như thế nào?
DVH : Sau đây tóm tắt vài đặc điểm của Chính sách Cải tạo (đi đôi với việc thành lập Lực Lượng Vơ Trang Nhân Dân}: Trong các nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ ăn, ở,học tập, chơi và sinh hoạt chung với cán bộ Việt Cộng sa lưới. Các Toán trưởng thu thập những tờ khai báo của những cán bộ này nạp cho Ban cải tạo hay Ban nghiên cứu. Chúng tôi không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật; giữ kín hoàn toàn những trường hợp đầu hàng hay hợp tác; Đoàn chúng tôi đă tạo nên một màng lưới phục kích, bao vây các cán bộ từ chính đường giây giao liên và cơ sở cũ mà Cách Mạng đă dày công tổ chức. Thay v́ hỏi cung thông thường, chúng tôi áp dụng phương thức mạn đàm, trao đổi, tranh luận, khai thông tư tưởng, cởi mở với đối tượng. Nếu cần, mua chuộc, dụ dỗ chuyển hướng. Đối với những cán bộ CS ngoan cố, chúng tôi xử dụng tập thể CS cải tạo để khuyên nhủ lôi cuốn hoặc, theo đường lối “xa luân chiến”, giải thích chính sách chuyển hướng, tranh luận áp đảo các thắc mắc, phản ứng của người bị bắt…v..v..V́ thời lượng buổi nói chuyện hôm nay giới hạn nên chúng tôi mong trở lại vấn đề phức tạp này trong một dịp khác.
Để trả lời phần hai câu hỏi của Luật sư, ít nữa 4 quyển sách tịch thu được trong chiến khu VC cho thấy chúng rất e sợ “chính sách mới lạ, kỳ diệu và nguy hiểm” do ĐCTĐBMT áp dụng. Bốn quyển ấy mang tên “Đoàn Mật vụ của Ngô Đ́nh Cẩn (tác giả Văn Phan), Đường Thời Đại (tác giả Đặng Đ́nh Loan), Cuộc chiến tranh đặc biệt (hồi kư của Đinh Thị Vân) và Bội phản hay Chân chính (tiểu thuyết hồi kư của Dư Văn Chất}. Với chính sách này, Đoàn chúng tôi bắt gọn được – vào hạ bán niên 1958 – hai màng lưới T́nh báo Chiến lược và Quân báo CS từ Bến Hải vào đến Sàig̣n.
Trong tài liệu mệnh danh “Thư vào Nam” của Tổng bí thơ Lê Duẫn gởi tháng 7.1962 cho Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, khi ấy Xứ ủy Nam bộ, có đọan viết: “Đă có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5 (Miền Trung), t́nh h́nh khó khăn đến mức tưởng như Cách Mạng không thể duy tŕ và phát triển được.”
LLT: V́ sao (Nha sĩ dỏm và Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao cho ông N Đ Cẩn tại Miền Nam, bị bắt? Ai bắt?
DVH : Cố vấn Nhu ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt v́ Các làm tiền thương gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao lung tung. Ông Cẩn rất bất mản về chuyện Các bị bắt và bảo tôi thưa lại với ông Nhu phóng thích Các. Tung là người của ông Cẩn.Tôi có cảm nghĩ Tung và Tuyến theo dơi tôi c̣n (Nguyễn Văn) Y th́ đố kỵ tôi.
.
LLT: Thái Trắng (tức Lê Văn Thái, qua đời tại San Diego) và Thái Đen (tức Nguyễn Như Thái, biệt danh Đại tá Thanh Tùng) có làm việc cho ông hay không?
DVH : Chỉ có Thái Đen cộng tác với tôi. Thái Trắng làm việc với Tuyến, y là bà con vợ trước (Đặng Tuyết Mai) của Nguyễn Cao Kỳ. Không biết tại sao Thái Đen lại mang biêt danh “Đại tá Thanh Tùng” v́ y không bao giờ có chân trong Quân đôi hay đồng hoá sĩ quan. Y phụ tá cho tôi về mặt hành chính, bị Toà lên án khổ sai chung thân, bị đưa ra Côn đảo về tội “bắt người trái phép” và được thả ra trước tôi. Thời Đệ nhị Cộng Hoà, h́nh như Nguyễn Ngọc Loan có xử dụng đương sự.
LLT: Ông có thể cho biết tên và chức vụ của vài cán bộ cao cấp Việt Cộng bị ĐCTĐBMT bắt giữ?
.
DVH : Có thể cho biết hai tên:
a -Trần Quốc Hương tự Mười Hương, Ủy viên Trung ương Đảng, người chỉ huy màng lưới T́nh báo Chiến lược của Hà Nội tại Miền Nam. Y bị bắt lối năm 1958. Chính tôi đă đưa Hương ra Huế gặp bí mật hai ông Nhu và Cẩn ở Thuận An, trên một chuyến máy bay đặc biệt do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ lái. Hương được Hội đồng Cách Mạng trả tự do tháng 5.1964.
- Đại tá Cộng Sản Lê Câu đă giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, Công cán ûy viên của Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẩu. Lương ăn trộm và chuyển cho Hà Nội toàn bản chính kế hoạch kinh tế Staley-Vũ Quốc Thúc.Tôi gài bẩy bắt Lương khi y lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt để đi Thái Lan v́ công vụ. Ông Mẩu không hay biết lư do.
LLT: Ông biết ǵ về đại tá Phạm Ngọc Thảo?
DVH : Trong phạm vi trách nhiệm phản gián, tôi có theo dơi Phạm Ngọc Thảo. Tôi biết Thảo được Đức cha Thục giới thiệu vào Bảo An và Thảo có liên hệ chính trị với bác sỉ Tuyến trong những năm tháng chót trước cuộc binh biến 1.11.1963. H́nh như Thảo có tŕnh với Tổng Thống Diệm rằng Đoàn Công tác của chúng tôi bám sát y. Tôi có dịp thưa với Tổng Thống nên lưu ư đến Thảo v́ Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong chức vụ hệ trọng. Tổng Thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai thác kinh nghiệm của Thảo trong lănh vực ấp chiến lược và khu trù mật?.
LLT: Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 th́ ông ở đâu? Có trách vụ ǵ? Xin cho biết vài ư kiến về cuộc khủng hoảng Phật giáo.
DVH : Lúc đó tôi công tác ở Sàig̣n, tôi không liên hệ trực tiếp đến vụ Phật giáo. Tôi nhớ: Một hôm tôi vào tŕnh việc trong Dinh (Độc Lập), Tổng Thống than phiên rằng cụ vưà kinh lư khu Dinh điền Vị Thanh về, đi ngang một ngôi chùa, thấy cờ Phật giáo treo trên cột cao giữa sân chuà, c̣n Quốc kỳ th́ bắng giấy, nhỏ cở bàn tay, dán trên trụ cột ngoài cổng, không ra thể thống ǵ cả. Khi về, Tổng Thống có mời Đức Khâm Mạng Toà Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai Phó Hội chủ Tổng Hội Phất giáo) vô cho biết t́nh trạng và yêu cầu lưu ư các giáo dân phải tôn trọng Quốc kỳ theo thể thức được Chính phủ quy định. Hai vị vừa kể hứa lưu ư giáo dân. Sau đó Tổng Thống có ra lệnh miệng cho ông Đổng lư Văn pḥng Quách Ṭng Đức gởi công điện nhắc các Tỉnh. Không biết v́ sao ông Đức để đến ngày chót trước Lễ Phật Đản 8.5.1963 mới gởi công điện.Tổng Thống có kêu ông Đức vô hỏi, ông Đức xin từ chức, Tổng Thống nói: công chuyện đổ bể như thế, xin thôi có ích chi?
Ngoài ra, lúc bị giam chung với tôi sau ngày 1.11.1963, Thiếu tá Đặng Sỉ, Tiểu khu trưởng kiêm Phó Tỉnh trưởng Thưà Thiên, nói với tôi rằng ông bị oan v́ đưọc Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1 Chiến thuật, cho phép ông chiều ngày 8.5.1963, trước Đài Phát thanh Huế, dùng lưụ đạn hơi để giải tán biểu t́nh. Không biết “bàn tay bí mật” nào đă vung một trái lưu đạn chiến đấu gây thiệt mạng cho 8 em bé và thương tích cho nhiều người khác. Sĩ bị Toà phạt khổ sai chung thân.
Thượng tọa Trí Quang, làm việc cho CS, đóng vai tṛ hàng đầu trong vụ Phật giáo, lợi dụng mối giao hảo tốt với Cố vấn Cẩn. Sau 1975, tướng Nghiêm không bị làm khó v́ đi đêm với Bắc Việt từ trước. Cũng như bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Bênh viện Huế.Tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục hành động nóng nảy , Cố vấn Cẩn bị bó tay.