Hanna
10-29-2011, 21:17
Một góc Sài G̣n trước năm 1975
Cho đến năm 1975, th́ tại miền Nam Việt Nam, ít có ai nói hay viết ǵ về chuyện “Xă hội Dân sự” (the civil society = XHDS). Tuy nhiên, từ mấy chục năm gần đây, th́ khái niệm XHDS đă trở thành rất thông dụng phổ biến trong các sách báo, trong lănh vực truyền thông khắp nơi trên thế giới. Và như ta đă thấy XHDS chính là cái khu vực thứ ba (the third sector) bên cạnh khu vực chính quyền nhà nước (the state) và khu vực thị trường kinh doanh (the marketplace). Cả ba khu vực này khác biệt với nhau, nhưng cùng sinh họat chung với nhau trong tư thế cộng đồng sinh tồn (co-existence) để tạo thành cái không gian xă hội (the social space) do tập thể con người chúng ta sinh sống hợp quần trong xă hội mà tạo lập ra. Để tóm tắt cho gọn cái định nghĩa về XHDS, ta có thể biểu thị bằng một phương tŕnh đơn giản như sau đây:
“Không gian xă hội = Nhà nước + Thị trường + Xă Hội Dân Sự”.
Khu vực nhà nước gồm các đơn vị cơ sở chính quyền các cấp từ địa phương đến trung ương. Khu vực thị trường kinh doanh gồm các công ty, xí nghiệp họat động với mục đích t́m kiếm lợi nhuận (for profit). C̣n khu vực XHDS, th́ gồm các tổ chức “phi chính phủ” họat động có tính cách tự nguyên và bất vụ lợi (non-governmental, voluntary, non-profit organisations).
Theo tiêu chuẩn này, th́ rơ ràng là tại xă hội ở miền Nam Việt Nam hồi trước đă có một khu vực XHDS rất sinh động, khởi sắc. Với bài viết này, tôi xin cố gắng ghi lại mấy nét đặc sắc của XHDS – mà cho đến nay ít có người đề cập đến với sự tŕnh bày gọn gàng mà bao quát cần thiết – để người đọc b́nh thường có thể h́nh dung ra được cái khung cảnh sinh họat của một bộ phận có tầm vóc và tiềm năng thật to lớn của dân tộc tại miền nam, dù là trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt tang thương đẫm máu thuở đó.
I– Một số đoàn thể, hiệp hội tiêu biểu.
A/ Hội Hồng Thập Tự.
Hội này có một trụ sở khá là bề thế khang trang, tọa lạc tại góc đường Cống Quỳnh và Hồng Thập Tự, gần với Bảo sanh viện Từ Dũ Saigon. Trước năm 1975, Dược sĩ La Thành Trung giữ nhiệm vụ Hội trưởng. Tại nhiều tỉnh lại c̣n có các chi nhánh của Hội nữa. Hội HTT được tổ chức theo khuôn mẫu của HTT quốc tế, nên phương thức sinh họat khá là mở rộng, thông thóang ḥan ṭan theo lư tưởng nhân đạo, chứ không hề theo đuổi một mục tiêu chính trị nào. Và chính quyền tại miền Nam hồi ấy cũng không hề có hành vi nào nhằm can thiệp, khống chế tổ chức này. Về mặt đối ngọai, HTT ḥan ṭan được tự do liên lạc với Hội HTT Quốc tế (CICR = Comité International de la Croix Rouge) có trụ sở chính tại Geneva, cũng như liên lạc với các Hội HTT bạn ở các quốc gia khác. CICR là một tổ chức thuần túy nhân đạo nhằm giúp các nạn nhân thiên tai băo lụt, động đất, bệnh dịch hay do chiến tranh gây ra, được thành lập đầu tiên tại Thụy sĩ từ cuối thế kỷ XIX và sau này phát triển tại khắp nơi trên thế giới.
B/ Hội Hướng Đạo.
Tổ chức Hướng Đạo du nhập vào Việt nam từ thập niên 1930. Sau đó, trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, sinh họat bị gián đọan một thời gian. Kể từ năm 1950, mới lại xây dựng lại riêng trong một số thành phố như Hanoi, Saigon trong vùng do chính quyền quốc gia kiểm sóat. Vào năm 1959, th́ tại miền Nam đă có đến trên 3000 đ̣an viên họat động. Những hướng đạo viên kỳ cựu về ngành nam như Trần Văn Lược, Hùynh Ngọc Diệp, Trần Văn Khắc, Trần Điền, Nguyễn Văn Thơ v.v… là những nhân vật rất năng nổ họat động tại miền Nam. Về ngành nữ, th́ các nữ hướng đạo có tên tuổi như Ḥang Thị Đáo, Phan Nguyệt Minh, Trần Bạch Bích, Phạm Thị Thân v.v…đă tiếp tục gây dựng lại nền nếp sinh họat của nữ hướng đạo tại miền Nam cho đến năm 1975. Cả hai ngành nam, nữ hướng đạo đều được sự hỗ trợ của các bộ Giáo dục vả Thanh niên và được tự do liên lạc mật thiết với phong trào hương đạo quốc tế (the world movement of scout).
C/ Hội Văn Hóa B́nh Dân.
Hội này được chính thức thành lập vào năm 1955 nhằm tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa và dậy nghề cho đại chúng, mà thường được biết đến là Trường Bách Khoa B́nh Dân. Đó là do sáng kiến và nỗ lực bền bỉ của các cựu sinh viên mới du học tại Mỹ về Saigon vào năm 1954, điển h́nh như Hùynh Văn Lang, Bùi Kiến Thành, Đỗ Trọng Chu v.v… Hội có giấy phép do Bộ Nội vụ cấp và đă họat động tại Saigon và các tỉnh địa phương liên tục cho đến năm 1975, giúp đào tạo chuyên môn căn bản cho hàng nhiều vạn học viên thuộc giới b́nh dân. Họat động có tính cách văn hóa xă hội này đă được nhiều người tham gia bằng cách yểm trợ về tài chánh và nhất là về nhân lực do các giảng viên tự nguyện đến giảng dậy miễn phí cho các lớp dậy nghề vào buổi tôi hay vào những ngày cuối tuần.
D/ Các tổ chức giáo dục, xă hội, y tế do các Tôn giáo điều hành.
Có thể kể đến con số hàng ngàn cơ sở xă hội nhân đạo và văn hóa giáo dục do các Tôn giáo lớn ở miền Nam như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo đứng ra thành lập và điều hành tại khắp các địa phương. Cụ thể như các trường Bồ Đề của Phật Giáo, các trường do các Sư Huynh hay Nữ Tu của Công Giáo…, các trường Đại học tư lập như Vạn Hạnh của Phật Giáo, Minh Đức và Đà lạt của Công Giáo, Đại học Cao Đài ở Tây Ninh, Đại học Ḥa Hảo ở Long Xuyên v.v… Và c̣n rất nhiều các chẩn y viên, cô nhi viện, viện dưỡng lăo do các tôn giáo đứng ra tổ chức và điều hành tại Saigon và các tỉnh miền quê nữa.
Cho đến năm 1975, th́ tại miền Nam Việt Nam, ít có ai nói hay viết ǵ về chuyện “Xă hội Dân sự” (the civil society = XHDS). Tuy nhiên, từ mấy chục năm gần đây, th́ khái niệm XHDS đă trở thành rất thông dụng phổ biến trong các sách báo, trong lănh vực truyền thông khắp nơi trên thế giới. Và như ta đă thấy XHDS chính là cái khu vực thứ ba (the third sector) bên cạnh khu vực chính quyền nhà nước (the state) và khu vực thị trường kinh doanh (the marketplace). Cả ba khu vực này khác biệt với nhau, nhưng cùng sinh họat chung với nhau trong tư thế cộng đồng sinh tồn (co-existence) để tạo thành cái không gian xă hội (the social space) do tập thể con người chúng ta sinh sống hợp quần trong xă hội mà tạo lập ra. Để tóm tắt cho gọn cái định nghĩa về XHDS, ta có thể biểu thị bằng một phương tŕnh đơn giản như sau đây:
“Không gian xă hội = Nhà nước + Thị trường + Xă Hội Dân Sự”.
Khu vực nhà nước gồm các đơn vị cơ sở chính quyền các cấp từ địa phương đến trung ương. Khu vực thị trường kinh doanh gồm các công ty, xí nghiệp họat động với mục đích t́m kiếm lợi nhuận (for profit). C̣n khu vực XHDS, th́ gồm các tổ chức “phi chính phủ” họat động có tính cách tự nguyên và bất vụ lợi (non-governmental, voluntary, non-profit organisations).
Theo tiêu chuẩn này, th́ rơ ràng là tại xă hội ở miền Nam Việt Nam hồi trước đă có một khu vực XHDS rất sinh động, khởi sắc. Với bài viết này, tôi xin cố gắng ghi lại mấy nét đặc sắc của XHDS – mà cho đến nay ít có người đề cập đến với sự tŕnh bày gọn gàng mà bao quát cần thiết – để người đọc b́nh thường có thể h́nh dung ra được cái khung cảnh sinh họat của một bộ phận có tầm vóc và tiềm năng thật to lớn của dân tộc tại miền nam, dù là trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt tang thương đẫm máu thuở đó.
I– Một số đoàn thể, hiệp hội tiêu biểu.
A/ Hội Hồng Thập Tự.
Hội này có một trụ sở khá là bề thế khang trang, tọa lạc tại góc đường Cống Quỳnh và Hồng Thập Tự, gần với Bảo sanh viện Từ Dũ Saigon. Trước năm 1975, Dược sĩ La Thành Trung giữ nhiệm vụ Hội trưởng. Tại nhiều tỉnh lại c̣n có các chi nhánh của Hội nữa. Hội HTT được tổ chức theo khuôn mẫu của HTT quốc tế, nên phương thức sinh họat khá là mở rộng, thông thóang ḥan ṭan theo lư tưởng nhân đạo, chứ không hề theo đuổi một mục tiêu chính trị nào. Và chính quyền tại miền Nam hồi ấy cũng không hề có hành vi nào nhằm can thiệp, khống chế tổ chức này. Về mặt đối ngọai, HTT ḥan ṭan được tự do liên lạc với Hội HTT Quốc tế (CICR = Comité International de la Croix Rouge) có trụ sở chính tại Geneva, cũng như liên lạc với các Hội HTT bạn ở các quốc gia khác. CICR là một tổ chức thuần túy nhân đạo nhằm giúp các nạn nhân thiên tai băo lụt, động đất, bệnh dịch hay do chiến tranh gây ra, được thành lập đầu tiên tại Thụy sĩ từ cuối thế kỷ XIX và sau này phát triển tại khắp nơi trên thế giới.
B/ Hội Hướng Đạo.
Tổ chức Hướng Đạo du nhập vào Việt nam từ thập niên 1930. Sau đó, trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, sinh họat bị gián đọan một thời gian. Kể từ năm 1950, mới lại xây dựng lại riêng trong một số thành phố như Hanoi, Saigon trong vùng do chính quyền quốc gia kiểm sóat. Vào năm 1959, th́ tại miền Nam đă có đến trên 3000 đ̣an viên họat động. Những hướng đạo viên kỳ cựu về ngành nam như Trần Văn Lược, Hùynh Ngọc Diệp, Trần Văn Khắc, Trần Điền, Nguyễn Văn Thơ v.v… là những nhân vật rất năng nổ họat động tại miền Nam. Về ngành nữ, th́ các nữ hướng đạo có tên tuổi như Ḥang Thị Đáo, Phan Nguyệt Minh, Trần Bạch Bích, Phạm Thị Thân v.v…đă tiếp tục gây dựng lại nền nếp sinh họat của nữ hướng đạo tại miền Nam cho đến năm 1975. Cả hai ngành nam, nữ hướng đạo đều được sự hỗ trợ của các bộ Giáo dục vả Thanh niên và được tự do liên lạc mật thiết với phong trào hương đạo quốc tế (the world movement of scout).
C/ Hội Văn Hóa B́nh Dân.
Hội này được chính thức thành lập vào năm 1955 nhằm tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa và dậy nghề cho đại chúng, mà thường được biết đến là Trường Bách Khoa B́nh Dân. Đó là do sáng kiến và nỗ lực bền bỉ của các cựu sinh viên mới du học tại Mỹ về Saigon vào năm 1954, điển h́nh như Hùynh Văn Lang, Bùi Kiến Thành, Đỗ Trọng Chu v.v… Hội có giấy phép do Bộ Nội vụ cấp và đă họat động tại Saigon và các tỉnh địa phương liên tục cho đến năm 1975, giúp đào tạo chuyên môn căn bản cho hàng nhiều vạn học viên thuộc giới b́nh dân. Họat động có tính cách văn hóa xă hội này đă được nhiều người tham gia bằng cách yểm trợ về tài chánh và nhất là về nhân lực do các giảng viên tự nguyện đến giảng dậy miễn phí cho các lớp dậy nghề vào buổi tôi hay vào những ngày cuối tuần.
D/ Các tổ chức giáo dục, xă hội, y tế do các Tôn giáo điều hành.
Có thể kể đến con số hàng ngàn cơ sở xă hội nhân đạo và văn hóa giáo dục do các Tôn giáo lớn ở miền Nam như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Ḥa Hảo đứng ra thành lập và điều hành tại khắp các địa phương. Cụ thể như các trường Bồ Đề của Phật Giáo, các trường do các Sư Huynh hay Nữ Tu của Công Giáo…, các trường Đại học tư lập như Vạn Hạnh của Phật Giáo, Minh Đức và Đà lạt của Công Giáo, Đại học Cao Đài ở Tây Ninh, Đại học Ḥa Hảo ở Long Xuyên v.v… Và c̣n rất nhiều các chẩn y viên, cô nhi viện, viện dưỡng lăo do các tôn giáo đứng ra tổ chức và điều hành tại Saigon và các tỉnh miền quê nữa.