Hanna
11-03-2011, 22:09
Các vụ đối đầu quyết liệt giữa Trung Quốc và Mỹ cho thấy nếu Đông Á không phải là một nơi ḱnh địch mới giữa hai nước lớn này, th́ vùng này cũng trở thành một điểm va chạm mới. Nguyên nhân chủ yếu là do sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc và ư muốn của nước này một ḿnh thống trị cả vùng này. Nhưng đó lại là điều mà tất cả các nước láng giềng không thần phục Bắc Kinh lo sợ. Tướng Daniel Schaeffer, thành viên nhóm tư vấn Asie21-Futuribles, nhà tư vấn quốc tế, phân tích và lư giải nguyên nhân khách quan và chủ quan, bối cảnh quốc tế và trong vùng, ư đồ và lợi ích của Mỹ và Trung Quốc cũng như vị thế địa chính trị và cách tính toán của tác nhân khác nhau trong vùng, trong bài “Vùng Đông Á liêu có trở thành nơi ḱnh địch Mỹ-Trung không” đăng trên tạp chí “Địa chính trị” như sau:
Đông Á liệu có trở thành nơi diễn ra sự ḱnh địch nhau giữa Trung Quốc và Mỹ không? Căn cứ vào các sự kiện nảy sinh trong năm 2010, khẳng định đó dường như là điều hiển nhiên, cho dù không biểu hiện gay gắt có phần chùng xuống từ cuối năm ngoái. Rồi sự ḱnh địch đó lại tăng lên do sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Trung Quốc có tham vọng khẳng định ảnh hưởng ngày càng mạnh của ḿnh đối với toàn vùng, muốn làm thui chột mọi cuộc can thiệp từ bên ngoài ngăn cản tham vọng của ḿnh. Nhưng Mỹ lại muốn tiếp tục đóng vai tṛ cường quốc trong vùng này v́ điều đó nằm trong lợi ích chiến lược của Mỹ. Một mặt, Trung Quốc có thể chấp nhận sự hiện diện đó nhưng chỉ giới hạn ở các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao và văn hoá. Trái lại, khi thể hiện ở khía cạnh chính trị, và hơn nữa là quân sự, sự hiện diện đó lại ngày càng chọc giận Bắc Kinh. Nhưng cho dù, dưới vỏ bọc “phát triển hoà b́nh”, Trung Quốc đưa ra các chương tŕnh hợp tác kinh tế với vẻ bề ngoài hấp dẫn đối với các nước láng giềng ở Đông Nam Á, các nước này vẫn lo ngại sự trỗi dậy của Trung Quốc và sợ mất một phần đáng kể quyền tự do chính trị của ḿnh. Chính v́ vậy, việc Mỹ tỏ rơ sự quan tâm đến vùng này lại trấn an các nước nói trên và đối với họ là một yếu tố giữ ổn định, có khả năng giúp họ duy tŕ được cân bằng với Trung Quốc. Việc sử dụng lối nói kích động tâm lư không tin Mỹ trong các nước châu Á rơ ràng cho thấy Trung Quốc tức giận trước diễn biến t́nh h́nh đó.
Đông Á hay nơi nổ ra ḱnh địch Mỹ-Trung về kinh tế
Về phương diện kinh tế, Đông Á đúng ra phải dược coi là một nơi cạnh tranh b́nh thường hơn là nơi nổ ra ḱnh địch giữa hai cường quốc kinh tế. Quả thực là cho dù giữa hai nước có tranh chấp kinh tế căng thẳng, song Trung Quốc và Mỹ không đối chọi nhau quyết liệt trong lĩnh vực này như hai nước thể hiện trong các chủ đề chính trị và chiến lược. Ngoài một số điểm bất đồng, liên quan đến việc Bắc Kinh duy tŕ tỷ giá đồng nhân dân tệ ở mức thấp giả tạo và mất cân đối trong cán cân trao đổi thương mại bất lợi cho Mỹ, một yếu tố làm trầm trọng thêm những tranh chấp kinh tế mới xuất hiện gần đây với hậu quả ảnh hưởng tới lợi ích chiến lược của Mỹ cũng như của nhiều nước công nghiệp hoá khác. Đó là ư đồ của Trung Quốc trong năm 2010 giảm xuất khẩ đất hiếm.
Cuộc chiến đất hiếm
Toàn bộ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo của Trung Quốc cần đến đất hiếm do sử dụng nhiều thành quả công nghệ. Trung Quốc nắm giữ 37% trữ lượng đất hiếm của thế giới. Nhưng sau khi được hiện đại hoá, ngành khai thác này hiện nay bảo đảm tới 93% sản lượng của thế giới. Điều đó giúp Trung Quốc có được vị thế gần như độc quyền khiến các nước sử dụng đất hiếm lâm vào t́nh thế dễ bị đánh quỵ và phụ thuộc có tính chiến lược vào Trung Quốc.
Qủa thực là lấy lư do khai thác đất hiếm gây tổn hại nghiệm trọng tới môi trường, mùa hè năm 2010, Trung Quốc tuyên bố hạn chế xuất khẩu loại tài nguyên này và hạn ngạch thực tế đă được áp dụng từ năm 2006. Bắc Kinh thậm chí c̣n ngừng xuất khẩu terbium và dysprosium, hai kim loại mà nước này nắm giữ tới 99% trữ lượng thế giới và được dùng trong nhiều ứng dụng dân sự và quân sự. Như vậy, cả một mảng của nền kinh tế Mỹ, cụ thể là sản xuất vũ khí, bị “đánh vỗ mặt” do quyết định này của Trung Quốc. Chính điều đó làm gia tăng mối ngờ vực của nước này về khả năng quân sự của nước kia và ngược lại.
Đúng là Trung Quốc khẳng định ḿnh không có ư định gây thiệt hại cho các nước xuất khẩu. Nhưng sự doạ dẫm thực tế trên liên quan đến đất hiếm đối với Trung Quốc lại là một cách gây áp lực có hiệu quả với Mỹ, nước mà Trung Quốc cho là mối đe doạ hiển nhiên.
Mối đe doạ của Trung Quốc đối với các công ty dầu mỏ Mỹ ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)
Một chủ đề tranh chấp khác giữa Mỹ và Trung Quốc là nước này gây áp lực để buộc các công ty dầu mỏ nước ngoài không kư hợp đồng với các công ty của các nước nằm ven biển Nam Trung Hoá, trong không gian biển mà Trung Quốc muốn kiểm soát thông qua đường lưỡi ḅ gấp khúc 9 đoạn. Nhưng đường gấp khúc đó thực tế bao phủ toàn bộ các mỏ dầu nằm trong vùng biển này. Chẳng hạn, dọc theo bờ biển Việt Nam, đường này cắt các lô từ 117 đến 127 trong đó chủ yếu nằm trong vùng lănh hải của Việt Nam. Tháng 11/2006, công ty ONGC của Ấn Độ trở thành nạn nhân khi Trung Quốc phản đối Chính phủ Việt Nam cho phép công ty này khai thác lô 127 nằm trong lực vực của Phú Khánh, ngoài khơi vịnh Cam Ranh, nhưng không phải v́ thế mà ONGC ngừng mọi hoạt động của ḿnh. Ngày 10/4/2007, sau khi phản đối Việt Nam, Trung Quốc đă thành công trong việc buộc tổ hợp BP-Conoco Phillips-Petrovietnam phải ngừng khai thác các mỏ khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch, nằm ở cực Tây-Nam quần đảo Trường Sa, trên thềm lục địa của Việt Nam. Sau đó nhiều công ty dầu mỏ nước ngoài khác, trong đó có cả của Mỹ như Exxon, cũng chịu sức ép của Trung Quốc.
Điều đó khiến Mỹ phải phản ứng một cách mạnh mẽ. Vào tháng 6/2010, tại hội nghị cấp cao lần thứ 9 về an ninh châu Á (Đối thoại Shangri La), Robert Gates, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ, lên án việc thực thi “ngoại giao cưỡng ép” ở biển Nam Trung Hoa.
Ḱnh địch trong các chương tŕnh hợp tác kinh tế ở Đông Nam Á
Về phương diện kinh tế vĩ mô, điều có vẻ hiển nhiên là Trung Quốc muốn hợp tác ở Viễn Đông được thiết lập dưới sự bảo trợ của ḿnh và thông qua việc thiết kế các chương tŕnh hội nhập vùng, nhưng loại Mỹ khỏi thành phần tham gia. Các dự án hội nhập vùng này, chỉ hoàn toàn mang tính chất Viễn Đông, được thực hiện thông qua một loạt dự án tiểu vùng trong đó nhiều dự án nhằm mục đích gắn chặt Đông Nam Á vào Trung Quốc.
Chẳng hạn, năm 2008, Trung Quốc đề xuất với ASEAN dự án tổng thể Khu hợp tác kinh tế toàn vùng vịnh Bắc Bộ được chia thành 3 mảng chính: trục Tây chạy theo hướng Nam Ninh-Xinhgapo, trục trung tâm chạy theo vùng hợp tác tiểu vùng Đại Mê Công, trục Đông liên quan đến biển và bờ biển bao gồm toàn bộ biển Nam Trung Hoa. Đó chính là sự tinh tế của dự án tổng thể trên với mục đích ngầm là việc kiểm soát tàon bộ biển Nam Trung Hoa được “gắn ch́m” trong một tổng thể với 3 mảng. Một tiến tŕnh tương tự cũng được tung ra khi hiệp định trao đổi tự do giữa 6 nước phát triển nhất của ASEAN bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2010, với viễn cảnh thu nạp thêm Mianma, Campuchia, Lào và Việt Nam vào năm 2015. Qua đó, Trung Quốc muốn thẳng tay loại bỏ mọi ảnh hưởng của Mỹ và Nhật Bản là những nước cũng đưa ra một số chương tŕnh tương tự, như dự án phát triển lưu vực Đại Mê Công.
Cũng như vậy, nhờ chính sách răn đe thực hiện từ năm 2000 đối với các nước láng giềng ở Đông Nam Á – cụ thể là các nước thành viên ASEAN – và Bắc Á – như Nhật Bản và Hàn Quốc-Trung Quốc đă thành công trong việc đẩy các nước đến chỗ phải thông qua việc thành lập một quỹ dự trữ ngoại hối chung. Mục đích ở đây là hạn chế nguy cơ gây bất ổn thị trường trong trường hợp xuất hiện viễn cảnh một cuộc khủng hoảng tiền tệ mới, như cuộc khủng hoảng năm 1997 ở châu Á. Thoả thuận này thiết lập một Quỹ 120 tỷ USD cho phépmột hay nhiều đối tác đối phó với khó khăn trước mắt trong cán cân thanh toán và nguồn tiền mặt trong ngắn hạn. Một số nhà quan sát phê phán việc CMIM thiết lập một quỹ tiền tệ châu Á độc lập có nguy cơ làm tổn thại đến tinh vượt trội của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Bắt đầu từ năm 2000, khi dự án được soạn thảo giữa Trung Quốc với nước này hay nước khác trong số các đối tác trên cơ sở song phương, cho dù cựu Tổng giám đốc IMF, Hort Kohler, xem sáng kiến trên là để bổ sung cho hoạt động của thể chế tài chính quốc tế này,những lời phê phán cũng không phải là không có cơ sở. Đối với Trung Quốc, vấn đề ở đây là thành lập một cơ chế tài chính vĩ mô độc lập với Mỹ, một không gian riêng biệt trong tỷ giá tiền tệ được thương lượng giữa các đối tác với nhau và bỏ qua mọi đ̣i hỏi của Mỹ phải định giá lại giá trị thấp giả tạo của đồng nhân dân tệ.
Đông Á, nơi tranh giành ảnh hưởng mới giữa Mỹ và Trung Quốc
Đông Á trong một thời gian dài là nơi Trung Quốc và Mỹ cạnh tranh ảnh hưởng của nhau. Điều đó không phải là mới. Trái lại, điều chưa từng có là ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng lấn át ảnh hưởng của Mỹ, không những thông qua phát triển các chương tŕnh phát triển kinh tế chung và biểu hiện sức mạnh kinh tế, công nghệ và quân sự, mà c̣n v́ trong 10 năm trở lại đây Mỹ đă tạo cảm giác họ không c̣n quan tâm đến vùng này nữa. Một số người cho sự tụt lùi bề ngoài đó là do khủng hoảng kinh tế nổ ra vào tháng 9/2008. Nhưng thực tế là sau vụ khủng bố 11/9, Mỹ cho rằng Đông Nam Á không phải là điểm ưu tiên trong cuộc chiến chống khủng bố của ḿnh. Từ đó, trong thập kỷ qua, Mỹ ít quan tâm đến vùng này, do đó tầm nh́n của họ bị hạn chế. Đó chính là điều đă thúc đẩy Trung Quốc tăng cường tham vọng của ḿnh.
Vẻ thờ ơ bề ngoài của Mỹ đối với vùng Viễn Đông trong thập kỷ qua và Trung Quốc giành lợi thế
Có hai dấu hiệu chính khiến Trung Quốc cho rằng Mỹ ít quan tâm hơn đến vùng này. Thứ nhất là thái độ hoà giải đối với Trung Quốc của Tổng thống Barack Obama trong nửa đầu nhiệm kỳ của ông. Thái độ đó được xem hoặc là biểu hiện của sự yếu thế, hoặc như việc Mỹ bắt đầu chấp nhận một số đ̣i hỏi của Trung Quốc. Theo dấu hiệu thứ hai, bị lăng quên trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế, Mỹ cho rằng mối nguy hiểm ở Đông Á là không cao. Trong bối cảnh đó, sau khi Mỹ liệt Đông Nam Á thuộc loại “mặt trận thứ yếu” của cuộc chiến này, mối quan tâm của Mỹ đối với vùng này đă bị đưa xuống hàng thứ hai trong suốt thập kỷ qua. Đó là điều đă cho phép Trung Quốc nhảy vào khoảng trống đó và giành được một số lợi thế. Trung Quốc càng dễ dàng đạt được mục đích đó v́ tuy có lúc Mỹ được lắng nghe khi họ nói về dân chủ và nhân quyền, song bước đi của Mỹ lại không được chấp nhận ở một số nước trong vùng vốn không thích nghe theo thông điệp của Mỹ. Như vậy Mỹ đă bị thua thiệt ở vùng này.
Nói vậy cũng không phải không có nghĩa là khích lệ nhân quyền là một công cụ gây ảnh hưởng được Mỹ sử dụng để gây khó khăn cho Trung Quốc hơn là để t́m kiếm sự ủng hộ ở châu Á. Đó là lư do giải thích tại sao Mỹ không muốn bị người khác áp đặt cách hành xử khi Tổng thống Obama quyết định tiếp đón Đạtlai Lạtma trong chuyến thăm Mỹ của nhân vật này từ 17-27/2/2010. Cũng như vậy, ngày 12/1, sau khi David Drummond, Phó Chủ tịch phụ trách phát triển và các vấn đề pháp lư của Google, tố cáo “từ Trung Quốc” có một “cuộc tấn công có chủ đích và rất hiện đại” vào hạ tầng của Google. Trên thực tế, đó hoàn toàn là một cuộc kiểm duyệt được Chính phủ Trung Quốc thực hiện đối với môtơ t́m kiếm, một sự trừng phạt được áp dụng sau khi Google quyết dịnh không tuân thủ các điều kiện tự kiểm duyệt mà Bắc Kinh yêu cầu hăng này thực hiện trước khi được vào thị trường Trung Quốc. Ở đây, Chính phủ Mỹ ủng hộ lập trường của Google và quyền tự do ngôn luận trên mạng ở Trung Quốc.
Các cuộc đấu về vấn đề quyền tự do cá nhân này ở châu Á tuy có thể có ích cho Mỹ để đối phó với Trung Quốc, song không phải v́ thế mà ngăn chặn được sự phát triển của Trung Quốc ở Đông Á. Bước tiến đó tuy nhiên diễn ra ở Đông Nam Á tốt đẹp hơn ở Đông Bắc Á, nơi từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, vùng ảnh hưởng của Trung Quốc và Mỹ nh́n chung tương đương với nhau. Trung Quốc có ảnh hưởng ở Bắc Triều Tiên, c̣n Mỹ ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Hawai. Đối với hai địch thủ này, Mông Cổ, trước đây chịu ảnh hưởng của Nga, giờ đây trở thành một cuộc chơi.
Các vùng ảnh hưởng bao trùm của Mỹ
Tại Đông Nam Á, Mỹ vẫn có ảnh hưởng mạnh ở Xinhgapo và Philippin. Mỹ đă đánh mất ưu thế tại Inđônêxia sau khi áp dụng các biện pháp trừng phạt từ tháng 9/1999 đối với Giacácta v́ chính phủ nước này không có khả năng ngăn chặn bạo lực do lực lượng dân binh gây ra ở Timor Leste để chống lại việc vùng này giành độc lập. Từ đó đến nay, Mỹ đă lấy lại được một phần ảnh hưởng sau quyết định nối lại các chương tŕnh hợp tác quân sự bị ngừng lại. Minh chứng cho điều này là tháng 9/2010, Marty Natalegawa, Bộ trưởng Ngoại giao Inđônêxia, đă lên án việc Trung Quốc định lấy Mỹ ra khỏi một tiến tŕnh giải quyết các vấn đề về chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa.
Tại Malaixia, ảnh hưởng của Mỹ tuy khó đánh giá, nhưng là có thực. Hợp tác quốc pḥng và an ninh giữa hai nước đă dần dần được củng cố kể từ sau vụ 11/9. Thực tế là Oasinhtonw đă nhận rơ tầm quan trọng của Cuala Lămpơ trong cuộc chiến chống khủng bố. Đó là lư do giải thích tại sao năm 2003, chính phủ hai nước thống nhất đặt trụ ở của Trung tâm chống khủng bố vùng Đông Nam Á (SEARCCT) ở Malaixia. Hơn nữa, trong khuôn khổ tranh chấp lănh thổ giữa Trung Quốc và Malaixia ở biển Nam Trung Hoa, sự có mặt của Mỹ được cảm nhận rơ ràng là sự hỗ trợ có tính trấn an đối với Malaixia.
Cuối tháng 7/2010, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hà Nội và Oasinhton, Mỹ đă được chào đón nồng nhiệt ở Việt Nam là nước, trong số tất cả các nước khác, chống lại quyết liệt nhất yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở biển Nam Trung Hoa. Quả thực là sự trở lại của Mỹ rất được hoanh nghênh khi một nước ở ngay bên cạnh như Trung Quốc cảm thấy bất an khi tạo cho Bắc Kinh cảm giác rằng ḿnh dựa quá nhiều vào Oasinhton. Đó là một trong những lư do giải thích tại sao bề ngoài Việt Nam không muốn Mỹ can dự để hỗ trợ đối thoại hàng năm về chnhs trị, an ninh và quốc pḥng lần thứ ba giữa Mỹ và Việt Nam, được thiết lập từ năm 2008, th́ cũng không được công bố. Cũng có thể yêu cầu đó được đưa ra qua các thông điệp ngầm, cũng nhân dịp kỷ niệm 15 năm nói ở trên, như các cuộc diễn tập biểu dương của tàu sân bay USS Washington, ngày 8/8/2010 cách Đà Nẵng 200 hải lư, tức trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và gần với quần đảo Hoàng Sa. Tham dự các cuộc diễn tập này có nhiều quan chức chính trị và quân sự cấp cao của Việt Nam. Một tín hiệu như vậy hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên đối với Trung Quốc. Sau đó trong một tuần liền diễn ra diễn tập song phương giữa Hải quân Việt Nam và 3 tàu hộ tống của chiếc tàu sân bay trên trước đó đă đi vào Biển Đông Trung Hoa (Biển Hoa Đông).
Do khong muốn v́ xích mích lại quá gần với Mỹ mà làm cho Trung Quốc cảm thấy bất an, nên Hà Nội phải t́m kiếm một đối trọng với sự trở lại của Mỹ. Gần như là tự nhiên, Nga trở thành đối trọng đó v́ nước này cũng muốn kiểm soát, ở biên giưói phía Đông của ḿnh, sự trỗi dậy của người khổng lồ chiến lược trong tương lai là Trung Quốc và, đồng thời, duy tŕ mối quan hệ hữu hảo đă được thiết lập với Bắc Kinh sau khi cuộc đối đầu tư tưởng của kỷ nguyên Xôviết và Maoít kết thúc. Trên thực tế, cũng trong tháng 7/2010, Nga được Việt Nam, lúc đó là Chủ tịch ASEAN, mời cùng với Mỹ tham gia Diễn đàn ASEAN mở rộng. Mátxcơva đồng ư với đề nghị đó và cử Ngoại trưởng Sergei Lavrov đến dự. Bằng cách khéo léo đó, Việt Nam cho thấy ư định duy tŕ cân bằng giữa tất cả các cường quốc trước hết là đối với ASEAN, và vạch ra xung quanh các nước thành viên tổ chức này một vành đai an ninh ảo được đặt dưới sự chủ tŕ của Mỹ và Nga mà vẫn không bị Trung Quốc coi thái độ đó là gây hấn.
Đông Á liệu có trở thành nơi diễn ra sự ḱnh địch nhau giữa Trung Quốc và Mỹ không? Căn cứ vào các sự kiện nảy sinh trong năm 2010, khẳng định đó dường như là điều hiển nhiên, cho dù không biểu hiện gay gắt có phần chùng xuống từ cuối năm ngoái. Rồi sự ḱnh địch đó lại tăng lên do sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Trung Quốc có tham vọng khẳng định ảnh hưởng ngày càng mạnh của ḿnh đối với toàn vùng, muốn làm thui chột mọi cuộc can thiệp từ bên ngoài ngăn cản tham vọng của ḿnh. Nhưng Mỹ lại muốn tiếp tục đóng vai tṛ cường quốc trong vùng này v́ điều đó nằm trong lợi ích chiến lược của Mỹ. Một mặt, Trung Quốc có thể chấp nhận sự hiện diện đó nhưng chỉ giới hạn ở các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao và văn hoá. Trái lại, khi thể hiện ở khía cạnh chính trị, và hơn nữa là quân sự, sự hiện diện đó lại ngày càng chọc giận Bắc Kinh. Nhưng cho dù, dưới vỏ bọc “phát triển hoà b́nh”, Trung Quốc đưa ra các chương tŕnh hợp tác kinh tế với vẻ bề ngoài hấp dẫn đối với các nước láng giềng ở Đông Nam Á, các nước này vẫn lo ngại sự trỗi dậy của Trung Quốc và sợ mất một phần đáng kể quyền tự do chính trị của ḿnh. Chính v́ vậy, việc Mỹ tỏ rơ sự quan tâm đến vùng này lại trấn an các nước nói trên và đối với họ là một yếu tố giữ ổn định, có khả năng giúp họ duy tŕ được cân bằng với Trung Quốc. Việc sử dụng lối nói kích động tâm lư không tin Mỹ trong các nước châu Á rơ ràng cho thấy Trung Quốc tức giận trước diễn biến t́nh h́nh đó.
Đông Á hay nơi nổ ra ḱnh địch Mỹ-Trung về kinh tế
Về phương diện kinh tế, Đông Á đúng ra phải dược coi là một nơi cạnh tranh b́nh thường hơn là nơi nổ ra ḱnh địch giữa hai cường quốc kinh tế. Quả thực là cho dù giữa hai nước có tranh chấp kinh tế căng thẳng, song Trung Quốc và Mỹ không đối chọi nhau quyết liệt trong lĩnh vực này như hai nước thể hiện trong các chủ đề chính trị và chiến lược. Ngoài một số điểm bất đồng, liên quan đến việc Bắc Kinh duy tŕ tỷ giá đồng nhân dân tệ ở mức thấp giả tạo và mất cân đối trong cán cân trao đổi thương mại bất lợi cho Mỹ, một yếu tố làm trầm trọng thêm những tranh chấp kinh tế mới xuất hiện gần đây với hậu quả ảnh hưởng tới lợi ích chiến lược của Mỹ cũng như của nhiều nước công nghiệp hoá khác. Đó là ư đồ của Trung Quốc trong năm 2010 giảm xuất khẩ đất hiếm.
Cuộc chiến đất hiếm
Toàn bộ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo của Trung Quốc cần đến đất hiếm do sử dụng nhiều thành quả công nghệ. Trung Quốc nắm giữ 37% trữ lượng đất hiếm của thế giới. Nhưng sau khi được hiện đại hoá, ngành khai thác này hiện nay bảo đảm tới 93% sản lượng của thế giới. Điều đó giúp Trung Quốc có được vị thế gần như độc quyền khiến các nước sử dụng đất hiếm lâm vào t́nh thế dễ bị đánh quỵ và phụ thuộc có tính chiến lược vào Trung Quốc.
Qủa thực là lấy lư do khai thác đất hiếm gây tổn hại nghiệm trọng tới môi trường, mùa hè năm 2010, Trung Quốc tuyên bố hạn chế xuất khẩu loại tài nguyên này và hạn ngạch thực tế đă được áp dụng từ năm 2006. Bắc Kinh thậm chí c̣n ngừng xuất khẩu terbium và dysprosium, hai kim loại mà nước này nắm giữ tới 99% trữ lượng thế giới và được dùng trong nhiều ứng dụng dân sự và quân sự. Như vậy, cả một mảng của nền kinh tế Mỹ, cụ thể là sản xuất vũ khí, bị “đánh vỗ mặt” do quyết định này của Trung Quốc. Chính điều đó làm gia tăng mối ngờ vực của nước này về khả năng quân sự của nước kia và ngược lại.
Đúng là Trung Quốc khẳng định ḿnh không có ư định gây thiệt hại cho các nước xuất khẩu. Nhưng sự doạ dẫm thực tế trên liên quan đến đất hiếm đối với Trung Quốc lại là một cách gây áp lực có hiệu quả với Mỹ, nước mà Trung Quốc cho là mối đe doạ hiển nhiên.
Mối đe doạ của Trung Quốc đối với các công ty dầu mỏ Mỹ ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)
Một chủ đề tranh chấp khác giữa Mỹ và Trung Quốc là nước này gây áp lực để buộc các công ty dầu mỏ nước ngoài không kư hợp đồng với các công ty của các nước nằm ven biển Nam Trung Hoá, trong không gian biển mà Trung Quốc muốn kiểm soát thông qua đường lưỡi ḅ gấp khúc 9 đoạn. Nhưng đường gấp khúc đó thực tế bao phủ toàn bộ các mỏ dầu nằm trong vùng biển này. Chẳng hạn, dọc theo bờ biển Việt Nam, đường này cắt các lô từ 117 đến 127 trong đó chủ yếu nằm trong vùng lănh hải của Việt Nam. Tháng 11/2006, công ty ONGC của Ấn Độ trở thành nạn nhân khi Trung Quốc phản đối Chính phủ Việt Nam cho phép công ty này khai thác lô 127 nằm trong lực vực của Phú Khánh, ngoài khơi vịnh Cam Ranh, nhưng không phải v́ thế mà ONGC ngừng mọi hoạt động của ḿnh. Ngày 10/4/2007, sau khi phản đối Việt Nam, Trung Quốc đă thành công trong việc buộc tổ hợp BP-Conoco Phillips-Petrovietnam phải ngừng khai thác các mỏ khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch, nằm ở cực Tây-Nam quần đảo Trường Sa, trên thềm lục địa của Việt Nam. Sau đó nhiều công ty dầu mỏ nước ngoài khác, trong đó có cả của Mỹ như Exxon, cũng chịu sức ép của Trung Quốc.
Điều đó khiến Mỹ phải phản ứng một cách mạnh mẽ. Vào tháng 6/2010, tại hội nghị cấp cao lần thứ 9 về an ninh châu Á (Đối thoại Shangri La), Robert Gates, Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ, lên án việc thực thi “ngoại giao cưỡng ép” ở biển Nam Trung Hoa.
Ḱnh địch trong các chương tŕnh hợp tác kinh tế ở Đông Nam Á
Về phương diện kinh tế vĩ mô, điều có vẻ hiển nhiên là Trung Quốc muốn hợp tác ở Viễn Đông được thiết lập dưới sự bảo trợ của ḿnh và thông qua việc thiết kế các chương tŕnh hội nhập vùng, nhưng loại Mỹ khỏi thành phần tham gia. Các dự án hội nhập vùng này, chỉ hoàn toàn mang tính chất Viễn Đông, được thực hiện thông qua một loạt dự án tiểu vùng trong đó nhiều dự án nhằm mục đích gắn chặt Đông Nam Á vào Trung Quốc.
Chẳng hạn, năm 2008, Trung Quốc đề xuất với ASEAN dự án tổng thể Khu hợp tác kinh tế toàn vùng vịnh Bắc Bộ được chia thành 3 mảng chính: trục Tây chạy theo hướng Nam Ninh-Xinhgapo, trục trung tâm chạy theo vùng hợp tác tiểu vùng Đại Mê Công, trục Đông liên quan đến biển và bờ biển bao gồm toàn bộ biển Nam Trung Hoa. Đó chính là sự tinh tế của dự án tổng thể trên với mục đích ngầm là việc kiểm soát tàon bộ biển Nam Trung Hoa được “gắn ch́m” trong một tổng thể với 3 mảng. Một tiến tŕnh tương tự cũng được tung ra khi hiệp định trao đổi tự do giữa 6 nước phát triển nhất của ASEAN bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2010, với viễn cảnh thu nạp thêm Mianma, Campuchia, Lào và Việt Nam vào năm 2015. Qua đó, Trung Quốc muốn thẳng tay loại bỏ mọi ảnh hưởng của Mỹ và Nhật Bản là những nước cũng đưa ra một số chương tŕnh tương tự, như dự án phát triển lưu vực Đại Mê Công.
Cũng như vậy, nhờ chính sách răn đe thực hiện từ năm 2000 đối với các nước láng giềng ở Đông Nam Á – cụ thể là các nước thành viên ASEAN – và Bắc Á – như Nhật Bản và Hàn Quốc-Trung Quốc đă thành công trong việc đẩy các nước đến chỗ phải thông qua việc thành lập một quỹ dự trữ ngoại hối chung. Mục đích ở đây là hạn chế nguy cơ gây bất ổn thị trường trong trường hợp xuất hiện viễn cảnh một cuộc khủng hoảng tiền tệ mới, như cuộc khủng hoảng năm 1997 ở châu Á. Thoả thuận này thiết lập một Quỹ 120 tỷ USD cho phépmột hay nhiều đối tác đối phó với khó khăn trước mắt trong cán cân thanh toán và nguồn tiền mặt trong ngắn hạn. Một số nhà quan sát phê phán việc CMIM thiết lập một quỹ tiền tệ châu Á độc lập có nguy cơ làm tổn thại đến tinh vượt trội của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Bắt đầu từ năm 2000, khi dự án được soạn thảo giữa Trung Quốc với nước này hay nước khác trong số các đối tác trên cơ sở song phương, cho dù cựu Tổng giám đốc IMF, Hort Kohler, xem sáng kiến trên là để bổ sung cho hoạt động của thể chế tài chính quốc tế này,những lời phê phán cũng không phải là không có cơ sở. Đối với Trung Quốc, vấn đề ở đây là thành lập một cơ chế tài chính vĩ mô độc lập với Mỹ, một không gian riêng biệt trong tỷ giá tiền tệ được thương lượng giữa các đối tác với nhau và bỏ qua mọi đ̣i hỏi của Mỹ phải định giá lại giá trị thấp giả tạo của đồng nhân dân tệ.
Đông Á, nơi tranh giành ảnh hưởng mới giữa Mỹ và Trung Quốc
Đông Á trong một thời gian dài là nơi Trung Quốc và Mỹ cạnh tranh ảnh hưởng của nhau. Điều đó không phải là mới. Trái lại, điều chưa từng có là ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng lấn át ảnh hưởng của Mỹ, không những thông qua phát triển các chương tŕnh phát triển kinh tế chung và biểu hiện sức mạnh kinh tế, công nghệ và quân sự, mà c̣n v́ trong 10 năm trở lại đây Mỹ đă tạo cảm giác họ không c̣n quan tâm đến vùng này nữa. Một số người cho sự tụt lùi bề ngoài đó là do khủng hoảng kinh tế nổ ra vào tháng 9/2008. Nhưng thực tế là sau vụ khủng bố 11/9, Mỹ cho rằng Đông Nam Á không phải là điểm ưu tiên trong cuộc chiến chống khủng bố của ḿnh. Từ đó, trong thập kỷ qua, Mỹ ít quan tâm đến vùng này, do đó tầm nh́n của họ bị hạn chế. Đó chính là điều đă thúc đẩy Trung Quốc tăng cường tham vọng của ḿnh.
Vẻ thờ ơ bề ngoài của Mỹ đối với vùng Viễn Đông trong thập kỷ qua và Trung Quốc giành lợi thế
Có hai dấu hiệu chính khiến Trung Quốc cho rằng Mỹ ít quan tâm hơn đến vùng này. Thứ nhất là thái độ hoà giải đối với Trung Quốc của Tổng thống Barack Obama trong nửa đầu nhiệm kỳ của ông. Thái độ đó được xem hoặc là biểu hiện của sự yếu thế, hoặc như việc Mỹ bắt đầu chấp nhận một số đ̣i hỏi của Trung Quốc. Theo dấu hiệu thứ hai, bị lăng quên trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế, Mỹ cho rằng mối nguy hiểm ở Đông Á là không cao. Trong bối cảnh đó, sau khi Mỹ liệt Đông Nam Á thuộc loại “mặt trận thứ yếu” của cuộc chiến này, mối quan tâm của Mỹ đối với vùng này đă bị đưa xuống hàng thứ hai trong suốt thập kỷ qua. Đó là điều đă cho phép Trung Quốc nhảy vào khoảng trống đó và giành được một số lợi thế. Trung Quốc càng dễ dàng đạt được mục đích đó v́ tuy có lúc Mỹ được lắng nghe khi họ nói về dân chủ và nhân quyền, song bước đi của Mỹ lại không được chấp nhận ở một số nước trong vùng vốn không thích nghe theo thông điệp của Mỹ. Như vậy Mỹ đă bị thua thiệt ở vùng này.
Nói vậy cũng không phải không có nghĩa là khích lệ nhân quyền là một công cụ gây ảnh hưởng được Mỹ sử dụng để gây khó khăn cho Trung Quốc hơn là để t́m kiếm sự ủng hộ ở châu Á. Đó là lư do giải thích tại sao Mỹ không muốn bị người khác áp đặt cách hành xử khi Tổng thống Obama quyết định tiếp đón Đạtlai Lạtma trong chuyến thăm Mỹ của nhân vật này từ 17-27/2/2010. Cũng như vậy, ngày 12/1, sau khi David Drummond, Phó Chủ tịch phụ trách phát triển và các vấn đề pháp lư của Google, tố cáo “từ Trung Quốc” có một “cuộc tấn công có chủ đích và rất hiện đại” vào hạ tầng của Google. Trên thực tế, đó hoàn toàn là một cuộc kiểm duyệt được Chính phủ Trung Quốc thực hiện đối với môtơ t́m kiếm, một sự trừng phạt được áp dụng sau khi Google quyết dịnh không tuân thủ các điều kiện tự kiểm duyệt mà Bắc Kinh yêu cầu hăng này thực hiện trước khi được vào thị trường Trung Quốc. Ở đây, Chính phủ Mỹ ủng hộ lập trường của Google và quyền tự do ngôn luận trên mạng ở Trung Quốc.
Các cuộc đấu về vấn đề quyền tự do cá nhân này ở châu Á tuy có thể có ích cho Mỹ để đối phó với Trung Quốc, song không phải v́ thế mà ngăn chặn được sự phát triển của Trung Quốc ở Đông Á. Bước tiến đó tuy nhiên diễn ra ở Đông Nam Á tốt đẹp hơn ở Đông Bắc Á, nơi từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, vùng ảnh hưởng của Trung Quốc và Mỹ nh́n chung tương đương với nhau. Trung Quốc có ảnh hưởng ở Bắc Triều Tiên, c̣n Mỹ ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Hawai. Đối với hai địch thủ này, Mông Cổ, trước đây chịu ảnh hưởng của Nga, giờ đây trở thành một cuộc chơi.
Các vùng ảnh hưởng bao trùm của Mỹ
Tại Đông Nam Á, Mỹ vẫn có ảnh hưởng mạnh ở Xinhgapo và Philippin. Mỹ đă đánh mất ưu thế tại Inđônêxia sau khi áp dụng các biện pháp trừng phạt từ tháng 9/1999 đối với Giacácta v́ chính phủ nước này không có khả năng ngăn chặn bạo lực do lực lượng dân binh gây ra ở Timor Leste để chống lại việc vùng này giành độc lập. Từ đó đến nay, Mỹ đă lấy lại được một phần ảnh hưởng sau quyết định nối lại các chương tŕnh hợp tác quân sự bị ngừng lại. Minh chứng cho điều này là tháng 9/2010, Marty Natalegawa, Bộ trưởng Ngoại giao Inđônêxia, đă lên án việc Trung Quốc định lấy Mỹ ra khỏi một tiến tŕnh giải quyết các vấn đề về chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa.
Tại Malaixia, ảnh hưởng của Mỹ tuy khó đánh giá, nhưng là có thực. Hợp tác quốc pḥng và an ninh giữa hai nước đă dần dần được củng cố kể từ sau vụ 11/9. Thực tế là Oasinhtonw đă nhận rơ tầm quan trọng của Cuala Lămpơ trong cuộc chiến chống khủng bố. Đó là lư do giải thích tại sao năm 2003, chính phủ hai nước thống nhất đặt trụ ở của Trung tâm chống khủng bố vùng Đông Nam Á (SEARCCT) ở Malaixia. Hơn nữa, trong khuôn khổ tranh chấp lănh thổ giữa Trung Quốc và Malaixia ở biển Nam Trung Hoa, sự có mặt của Mỹ được cảm nhận rơ ràng là sự hỗ trợ có tính trấn an đối với Malaixia.
Cuối tháng 7/2010, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hà Nội và Oasinhton, Mỹ đă được chào đón nồng nhiệt ở Việt Nam là nước, trong số tất cả các nước khác, chống lại quyết liệt nhất yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở biển Nam Trung Hoa. Quả thực là sự trở lại của Mỹ rất được hoanh nghênh khi một nước ở ngay bên cạnh như Trung Quốc cảm thấy bất an khi tạo cho Bắc Kinh cảm giác rằng ḿnh dựa quá nhiều vào Oasinhton. Đó là một trong những lư do giải thích tại sao bề ngoài Việt Nam không muốn Mỹ can dự để hỗ trợ đối thoại hàng năm về chnhs trị, an ninh và quốc pḥng lần thứ ba giữa Mỹ và Việt Nam, được thiết lập từ năm 2008, th́ cũng không được công bố. Cũng có thể yêu cầu đó được đưa ra qua các thông điệp ngầm, cũng nhân dịp kỷ niệm 15 năm nói ở trên, như các cuộc diễn tập biểu dương của tàu sân bay USS Washington, ngày 8/8/2010 cách Đà Nẵng 200 hải lư, tức trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và gần với quần đảo Hoàng Sa. Tham dự các cuộc diễn tập này có nhiều quan chức chính trị và quân sự cấp cao của Việt Nam. Một tín hiệu như vậy hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên đối với Trung Quốc. Sau đó trong một tuần liền diễn ra diễn tập song phương giữa Hải quân Việt Nam và 3 tàu hộ tống của chiếc tàu sân bay trên trước đó đă đi vào Biển Đông Trung Hoa (Biển Hoa Đông).
Do khong muốn v́ xích mích lại quá gần với Mỹ mà làm cho Trung Quốc cảm thấy bất an, nên Hà Nội phải t́m kiếm một đối trọng với sự trở lại của Mỹ. Gần như là tự nhiên, Nga trở thành đối trọng đó v́ nước này cũng muốn kiểm soát, ở biên giưói phía Đông của ḿnh, sự trỗi dậy của người khổng lồ chiến lược trong tương lai là Trung Quốc và, đồng thời, duy tŕ mối quan hệ hữu hảo đă được thiết lập với Bắc Kinh sau khi cuộc đối đầu tư tưởng của kỷ nguyên Xôviết và Maoít kết thúc. Trên thực tế, cũng trong tháng 7/2010, Nga được Việt Nam, lúc đó là Chủ tịch ASEAN, mời cùng với Mỹ tham gia Diễn đàn ASEAN mở rộng. Mátxcơva đồng ư với đề nghị đó và cử Ngoại trưởng Sergei Lavrov đến dự. Bằng cách khéo léo đó, Việt Nam cho thấy ư định duy tŕ cân bằng giữa tất cả các cường quốc trước hết là đối với ASEAN, và vạch ra xung quanh các nước thành viên tổ chức này một vành đai an ninh ảo được đặt dưới sự chủ tŕ của Mỹ và Nga mà vẫn không bị Trung Quốc coi thái độ đó là gây hấn.