vuitoichat
11-18-2011, 10:52
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều duy tŕ hoặc đang tăng cường xây dựng hạm đội tàu sân bay ở Thái B́nh Dương. Nga cũng không thể đứng ngoài.
Trong khi Bộ trưởng Quốc pḥng Nga A. Serdyukov nói rằng, Nga không có kế hoạch đóng tàu sân bay trong tương lai dài hạn th́ ở Bắc Kinh, New Dehli và Tokyo người ta nghĩ khác.
Trung Quốc đang hoàn thiện tàu sân bay “huấn luyện” của ḿnh nâng cấp từ tàu Varyag của Liên Xô, đồng thời có kế hoạch đóng thêm 2 tàu sân bay hoàn toàn nội địa. Ấn Độ đang chờ một tàu sân bay do Nga chuyển giao trong thời gian tới, dự định đóng 2 tàu nữa trong nước. Nhật Bản về chính thức không đóng tàu sân bay nhưng họ đang đóng loạt tàu khu trục chở máy bay lớp 16DDH Hyūga. Nhưng các tàu này khi cần có thể chở cả các máy bay chiến đấu cất/hạ cánh đường băng ngắn kiểu F-35 của Mỹ.
Khu vực châu Á-Thái B́nh Dương nhiều khả năng trở thành "trường đua" vũ trang. Lịch sử đối kháng trong khu vực này trong thế kỷ 20 đă đầy ắp những sự kiện. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đụng độ cùng lúc tại đây là lợi ích của mấy đại cường.
Được Anh, Mỹ ủng hộ, đế quốc Nhật ra tay ngăn chặn sự bành trướng của Nga, vốn đụowc đế chế Đức khuyến khích đông tiến. Khi thăm căn cứ Kronshtadt của Hạm đội Baltic vào tháng 5/1902, Hoàng đế Đức Wilhelm II tỏ ư khi Nga tấn công ở phía đông, Đức sẽ bảo đảm an ninh các đường biên giới phía tây nước Nga. Khi chiếc thuyền buồm Hohenzollern của Hoàng đế Đức Wilhelm II khi rời cảng Kronshtadt đă đánh tín hiệu: “Đô đốc Đại Tây Dương chào mừng Đô đốc Thái B́nh Dương”.
Các kế hoạch của đế quốc Nga và đế quốc Đức đă không thành - Nga thất bại trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 (mang tính chính trị hơn là quân sự), Hạm đội Thái B́nh Dương của Nga bị tiêu diệt, sự bành trướng của Nga sang phía đông bị chặn đứng. Berlin cũng sẽ thất bại nặng nề trong Thế chiến I mà không thể trở thành “Đô đốc Đại Tây Dương”.
http://images.vietinfo.eu//2011/11/18/165692/1321595480.0477.jpg
Tàu sân bay hạt nhân George Washington (CVN 73) - biểu tượng của sức mạnh Mỹ trên Thái B́nh Dương.
Trước thế chiến II, nổi lên hàng đầu là đế quốc Nhật sau khi đánh bại Trung Quốc và đế quốc Nga đă chủ trương xây dựng “khu vực thịnh vượng Đại Đông Á” đặt ra mục tiêu đánh bật tất cả các cường quốc châu Âu khỏi các thuộc địa của họ ở tây châu Á - Thái B́nh Dương và khóa chặt Mỹ ở đông châu Á -Thái B́nh Dương.
Việc này đă khiến Anh, Mỹ với dự án “đại Nhật Bản” mất ảnh hưởng đối với đồng minh phương đông của ḿnh. Nhưng đế quốc Nhật, dù có giành được những thành công ban đầu, đă không thể đơn độc đấu với các cường quốc Anglo-Saxon vốn có ưu thế hoàn toàn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, công nghệ. Bởi vậy, khi Berlin sụp đổ, đế quốc Nhật không c̣n cơ hội nào chống chọi lại Mỹ và Liên Xô.
Kết quả, từ nửa sau thế kỷ 20, phương Tây đă giữ được vị trí trong khu vực, dù có sự đổi ngôi giữa Mỹ và Anh, c̣n các cường quốc châu Âu khác cũng nhanh chóng mất vị trí khi quá tŕnh phi thực dân hóa bắt đầu. Mỹ thay v́ nô dịch trực tiếp đă sử dụng các phương pháp khác, có tính thực dân mới để kiểm soát các nước mới giành được tự do thông qua các cơ chế phức tạp của hệ thống tài chính thế giới, thương mại và chính trị kết hợp với tác động về quân sự và tư tưởng.
Thời kỳ Chiến tranh Lạnh
Đối thủ chủ yếu của phương Tây vẫn là Nga như trước đây song về h́nh thức là Liên Xô, quốc gia đă lấy lại vị thế của ḿnh sau khi đánh bại Nhật Bản và giúp những người cộng sản Trung Quốc giành chiến thắng. Sau đó, 2 quốc gia anh em này đă giữ vững được chế độ đồng minh ở Triều Tiên và giáng cho Mỹ và phương Tây thất bại nặng nề. Điều đáng tiếc đố với Trung Quốc là Bắc Kinh chưa phải là một thế lực độc lập nên họ không thể giải phóng Đài Loan khỏi Quốc dân đảng cố thủ v́ phải có hạm đội mạnh mới làm được việc đó.
Liên Xô và Trung Quốc không phải là đồng minh trong thời gian dài. Sau khi Stalin mất, vị thế của Nga ở châu Á - Thái B́nh Dương bị suy yếu. Kết quả là châu Á - Thái B́nh Dương đă trở thành khu vực cạnh tranh giữa Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc.
Vị thế của Trung Quốc rất yếu và hầu như chỉ giới hạn trong hải phận của họ th́ dần dần Bắc Kinh đă tăng cường các khả năng. Họ đă tích cực tác động đến các nước láng giềng thông qua các tổ chức cộng sản được thành lập từ ở Trung Á đến Mỹ Latinh, cũng như thông qua vô số các cộng đồng người Hoa ăn sâu bám rễ ở nhiều nước. Khác với người Nga ở hải ngoại, các cộng đồng Hoa kiều không hề cắt đứt liên hệ với quê hương.
Điều dễ hiểu là Trung Quốc vẫn chưa thể thách thức Mỹ trên đại dương, tự ḿnh quy định ḍng chảy cho các quá tŕnh ở châu Á - Thái B́nh Dương, muốn làm thế cần phải hiện đại hóa về chất tổ hợp công nghệ quốc pḥng, khoa học và giáo dục, quân đội và hạm đội.
Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21
T́nh h́nh đă thay đổi sau sự sụp đổ của Liên Xô. Bắc Kinh có cơ hội tiếp cận, lợi dụng di sản kỹ thuật quân sự của Liên Xô, trong đó có hải quân. Điều đó đă cho phép nước này nhanh chóng rút ngắn khoảng cách công nghệ với phương Tây. Nhờ các tàu ngầm diesel và tàu khu trục của Nga, cũng như nhờ thực hiện các chương tŕnh tự lực mới (với các thiết bị Nga), Hải quân Trung Quốc giờ đă có thể hoạt động khá xa bờ. Đồng thời, Trung Quốc đă tiến sát đến việc sở hữu các tàu sân bay. Theo các chuyên gia quân sự, ngay trong thập kỷ này, Trung Quốc sẽ có 2 tàu sân bay tự đóng, cộng với tàu sân bay gần như hoàn chỉnh dựa vào tàu Varyag của Liên Xô trước đây.
Tuy nhiên, Bắc Kinh gặp phải cùng một vấn đề như đệ tam đế chế Đức - đó là khả năng của Mỹ với sự giúp sức của các đồng minh hoặc các quốc gia "có vấn đề" như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trở thành “pḥng tuyến đầu tiên” nhằm phong tỏa Hải quân Trung Quốc.
Hiện nay, hạm đội Mỹ mạnh hơn nhiều và có công nghệ cao hơn nhiều hải quân Trung Quốc. Chẳng hạn, hạm đội Mỹ sở hữu 11 tàu sân bay và c̣n 1 chiếc dự bị. Lầu Năm góc trong 20 năm tới không định giảm số lượng tàu sân bay, dù trong trường hợp kinh tế tiếp tục khủng hoảng, có khả năng giảm số lượng tàu sân bay trực chiến xuống c̣n 9-10 chiếc, c̣n trong lực lượng dự bị sẽ có 1-2 tàu.
Ba tàu sân bay Trung Quốc, kể cả tàu huấn luyện, sẽ không thể đối chọi với sức mạnh ghê gớm đó. Ngoài ra, Mỹ đang tích cực giúp đỡ tăng cường quân đội, trong đó có hải quân của các nước đồng minh ở châu Á - Thái B́nh Dương.
Đơn cử, tàu sân bay trực thăng Dokdo của Hàn Quốc có cấu trúc mang mọi nét đặc trưng của một tàu sân bay hạng nhẹ. Đội máy bay trên tàu Dokdo gồm 15 trực thăng. Tuy nhiên, không loại trừ là khi có quyết định chính trị trên tàu sẽ bố trí cả các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng AV-8 Harrier. Điều đó trên thực tế sẽ biến tàu sân bay trực thăng thành tàu sân bay hạng nhẹ. Bởi vậy, nên xem Hàn Quốc như ứng viên gần nhất gia nhập “câu lạc bộ tàu sân bay”.
http://images.vietinfo.eu//2011/11/18/165692/1321595482.613.jpg
Tàu sân bay trực thăng Dokdo của Hàn Quốc.
Ở châu Á - Thái B́nh Dương, hạm đội Mỹ có thể duy tŕ đồng thời hơn 4-5 tàu sân bay (trong thời kỳ đặc biệt căng thẳng), trong khi 1-2 tàu thường được sửa chữa định kỳ hoặc chuẩn bị để hành quân. Tuy nhiên, khi tăng cường lực lượng ở một khu vực nào đó th́ lực lượng ở các hướng chiến lược khác bị suy yếu đi. Chẳng hạn, hiện nay, Mỹ đặt ra vấn đề giải thể Hạm đội 2 của Hải quân Mỹ mà địa bàn trách nhiệm gồm Bắc Đại Tây Dương và Tây Bắc cực. Hạm đội này có thể bị cắt giảm xuống mức cơ cấu danh nghĩa gồm chủ yếu là các đơn vị huấn luyện và bảo đảm với số tàu chiến tối thiểu.
Trên thực tế, đang tái diễn kịch bản đầu thế kỷ 20, khi mà Đức và Nga đă có thể thách thức thế giới Anglo-Saxon, nhưng cuối cùng lại buộc phải quay ra đánh nhau, khiến các kế hoạch thống trị thế giới đều sụp đổ.
Hiện nay, Bắc Kinh không ngại lợi dụng Nga để thu hút lực lượng của Mỹ, thế giới phương Tây lên hướng bắc. Đối với Nga, hướng chiến lược phía bắc quả thực là quan trọng sống c̣n, sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đă mất nhiều vị thế ở hướng này. Cần phải tăng cường hạm đội phương Bắc, thành lập các đơn vị cơ động sẵn sàng hoạt động ở điều kiện Cực Bắc, tiến hành các chương tŕnh phát triển các khu vực phía bắc.
Tuy nhiên, Nga cũng sẽ không quên châu Á - Thái B́nh Dương, bởi Nhật Bản liên tục yêu sách lănh thổ đối với Nga (Xét đến sự tăng cường hải quân của Nhật th́ đây là mối đe dọa hiện thực đối với sự toàn vẹn lănh thổ của Nga); t́nh h́nh bất ổn trên bán đảo Triều Tiên; sức mạnh của Mỹ vẫn c̣n đó; Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh.
Bởi vậy, việc hiện đại hóa hạ tầng quân sự ở khu vực Viễn Đông của Nga cũng cần thiết sống c̣n. Tính đến các yếu tố đó, Nga cũng phải có các kế hoạch xây dựng khoảng 3 cụm tàu sân bay xung kích, đồng thời phải có 1 tàu sân bay dự bị. Điều đó sẽ cho phép bảo đảm lợi ích của Nga ở Thái B́nh Dương và Bắc Băng Dương.
Nguồn: Baodatviet
Trong khi Bộ trưởng Quốc pḥng Nga A. Serdyukov nói rằng, Nga không có kế hoạch đóng tàu sân bay trong tương lai dài hạn th́ ở Bắc Kinh, New Dehli và Tokyo người ta nghĩ khác.
Trung Quốc đang hoàn thiện tàu sân bay “huấn luyện” của ḿnh nâng cấp từ tàu Varyag của Liên Xô, đồng thời có kế hoạch đóng thêm 2 tàu sân bay hoàn toàn nội địa. Ấn Độ đang chờ một tàu sân bay do Nga chuyển giao trong thời gian tới, dự định đóng 2 tàu nữa trong nước. Nhật Bản về chính thức không đóng tàu sân bay nhưng họ đang đóng loạt tàu khu trục chở máy bay lớp 16DDH Hyūga. Nhưng các tàu này khi cần có thể chở cả các máy bay chiến đấu cất/hạ cánh đường băng ngắn kiểu F-35 của Mỹ.
Khu vực châu Á-Thái B́nh Dương nhiều khả năng trở thành "trường đua" vũ trang. Lịch sử đối kháng trong khu vực này trong thế kỷ 20 đă đầy ắp những sự kiện. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đụng độ cùng lúc tại đây là lợi ích của mấy đại cường.
Được Anh, Mỹ ủng hộ, đế quốc Nhật ra tay ngăn chặn sự bành trướng của Nga, vốn đụowc đế chế Đức khuyến khích đông tiến. Khi thăm căn cứ Kronshtadt của Hạm đội Baltic vào tháng 5/1902, Hoàng đế Đức Wilhelm II tỏ ư khi Nga tấn công ở phía đông, Đức sẽ bảo đảm an ninh các đường biên giới phía tây nước Nga. Khi chiếc thuyền buồm Hohenzollern của Hoàng đế Đức Wilhelm II khi rời cảng Kronshtadt đă đánh tín hiệu: “Đô đốc Đại Tây Dương chào mừng Đô đốc Thái B́nh Dương”.
Các kế hoạch của đế quốc Nga và đế quốc Đức đă không thành - Nga thất bại trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 (mang tính chính trị hơn là quân sự), Hạm đội Thái B́nh Dương của Nga bị tiêu diệt, sự bành trướng của Nga sang phía đông bị chặn đứng. Berlin cũng sẽ thất bại nặng nề trong Thế chiến I mà không thể trở thành “Đô đốc Đại Tây Dương”.
http://images.vietinfo.eu//2011/11/18/165692/1321595480.0477.jpg
Tàu sân bay hạt nhân George Washington (CVN 73) - biểu tượng của sức mạnh Mỹ trên Thái B́nh Dương.
Trước thế chiến II, nổi lên hàng đầu là đế quốc Nhật sau khi đánh bại Trung Quốc và đế quốc Nga đă chủ trương xây dựng “khu vực thịnh vượng Đại Đông Á” đặt ra mục tiêu đánh bật tất cả các cường quốc châu Âu khỏi các thuộc địa của họ ở tây châu Á - Thái B́nh Dương và khóa chặt Mỹ ở đông châu Á -Thái B́nh Dương.
Việc này đă khiến Anh, Mỹ với dự án “đại Nhật Bản” mất ảnh hưởng đối với đồng minh phương đông của ḿnh. Nhưng đế quốc Nhật, dù có giành được những thành công ban đầu, đă không thể đơn độc đấu với các cường quốc Anglo-Saxon vốn có ưu thế hoàn toàn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, công nghệ. Bởi vậy, khi Berlin sụp đổ, đế quốc Nhật không c̣n cơ hội nào chống chọi lại Mỹ và Liên Xô.
Kết quả, từ nửa sau thế kỷ 20, phương Tây đă giữ được vị trí trong khu vực, dù có sự đổi ngôi giữa Mỹ và Anh, c̣n các cường quốc châu Âu khác cũng nhanh chóng mất vị trí khi quá tŕnh phi thực dân hóa bắt đầu. Mỹ thay v́ nô dịch trực tiếp đă sử dụng các phương pháp khác, có tính thực dân mới để kiểm soát các nước mới giành được tự do thông qua các cơ chế phức tạp của hệ thống tài chính thế giới, thương mại và chính trị kết hợp với tác động về quân sự và tư tưởng.
Thời kỳ Chiến tranh Lạnh
Đối thủ chủ yếu của phương Tây vẫn là Nga như trước đây song về h́nh thức là Liên Xô, quốc gia đă lấy lại vị thế của ḿnh sau khi đánh bại Nhật Bản và giúp những người cộng sản Trung Quốc giành chiến thắng. Sau đó, 2 quốc gia anh em này đă giữ vững được chế độ đồng minh ở Triều Tiên và giáng cho Mỹ và phương Tây thất bại nặng nề. Điều đáng tiếc đố với Trung Quốc là Bắc Kinh chưa phải là một thế lực độc lập nên họ không thể giải phóng Đài Loan khỏi Quốc dân đảng cố thủ v́ phải có hạm đội mạnh mới làm được việc đó.
Liên Xô và Trung Quốc không phải là đồng minh trong thời gian dài. Sau khi Stalin mất, vị thế của Nga ở châu Á - Thái B́nh Dương bị suy yếu. Kết quả là châu Á - Thái B́nh Dương đă trở thành khu vực cạnh tranh giữa Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc.
Vị thế của Trung Quốc rất yếu và hầu như chỉ giới hạn trong hải phận của họ th́ dần dần Bắc Kinh đă tăng cường các khả năng. Họ đă tích cực tác động đến các nước láng giềng thông qua các tổ chức cộng sản được thành lập từ ở Trung Á đến Mỹ Latinh, cũng như thông qua vô số các cộng đồng người Hoa ăn sâu bám rễ ở nhiều nước. Khác với người Nga ở hải ngoại, các cộng đồng Hoa kiều không hề cắt đứt liên hệ với quê hương.
Điều dễ hiểu là Trung Quốc vẫn chưa thể thách thức Mỹ trên đại dương, tự ḿnh quy định ḍng chảy cho các quá tŕnh ở châu Á - Thái B́nh Dương, muốn làm thế cần phải hiện đại hóa về chất tổ hợp công nghệ quốc pḥng, khoa học và giáo dục, quân đội và hạm đội.
Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21
T́nh h́nh đă thay đổi sau sự sụp đổ của Liên Xô. Bắc Kinh có cơ hội tiếp cận, lợi dụng di sản kỹ thuật quân sự của Liên Xô, trong đó có hải quân. Điều đó đă cho phép nước này nhanh chóng rút ngắn khoảng cách công nghệ với phương Tây. Nhờ các tàu ngầm diesel và tàu khu trục của Nga, cũng như nhờ thực hiện các chương tŕnh tự lực mới (với các thiết bị Nga), Hải quân Trung Quốc giờ đă có thể hoạt động khá xa bờ. Đồng thời, Trung Quốc đă tiến sát đến việc sở hữu các tàu sân bay. Theo các chuyên gia quân sự, ngay trong thập kỷ này, Trung Quốc sẽ có 2 tàu sân bay tự đóng, cộng với tàu sân bay gần như hoàn chỉnh dựa vào tàu Varyag của Liên Xô trước đây.
Tuy nhiên, Bắc Kinh gặp phải cùng một vấn đề như đệ tam đế chế Đức - đó là khả năng của Mỹ với sự giúp sức của các đồng minh hoặc các quốc gia "có vấn đề" như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trở thành “pḥng tuyến đầu tiên” nhằm phong tỏa Hải quân Trung Quốc.
Hiện nay, hạm đội Mỹ mạnh hơn nhiều và có công nghệ cao hơn nhiều hải quân Trung Quốc. Chẳng hạn, hạm đội Mỹ sở hữu 11 tàu sân bay và c̣n 1 chiếc dự bị. Lầu Năm góc trong 20 năm tới không định giảm số lượng tàu sân bay, dù trong trường hợp kinh tế tiếp tục khủng hoảng, có khả năng giảm số lượng tàu sân bay trực chiến xuống c̣n 9-10 chiếc, c̣n trong lực lượng dự bị sẽ có 1-2 tàu.
Ba tàu sân bay Trung Quốc, kể cả tàu huấn luyện, sẽ không thể đối chọi với sức mạnh ghê gớm đó. Ngoài ra, Mỹ đang tích cực giúp đỡ tăng cường quân đội, trong đó có hải quân của các nước đồng minh ở châu Á - Thái B́nh Dương.
Đơn cử, tàu sân bay trực thăng Dokdo của Hàn Quốc có cấu trúc mang mọi nét đặc trưng của một tàu sân bay hạng nhẹ. Đội máy bay trên tàu Dokdo gồm 15 trực thăng. Tuy nhiên, không loại trừ là khi có quyết định chính trị trên tàu sẽ bố trí cả các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng AV-8 Harrier. Điều đó trên thực tế sẽ biến tàu sân bay trực thăng thành tàu sân bay hạng nhẹ. Bởi vậy, nên xem Hàn Quốc như ứng viên gần nhất gia nhập “câu lạc bộ tàu sân bay”.
http://images.vietinfo.eu//2011/11/18/165692/1321595482.613.jpg
Tàu sân bay trực thăng Dokdo của Hàn Quốc.
Ở châu Á - Thái B́nh Dương, hạm đội Mỹ có thể duy tŕ đồng thời hơn 4-5 tàu sân bay (trong thời kỳ đặc biệt căng thẳng), trong khi 1-2 tàu thường được sửa chữa định kỳ hoặc chuẩn bị để hành quân. Tuy nhiên, khi tăng cường lực lượng ở một khu vực nào đó th́ lực lượng ở các hướng chiến lược khác bị suy yếu đi. Chẳng hạn, hiện nay, Mỹ đặt ra vấn đề giải thể Hạm đội 2 của Hải quân Mỹ mà địa bàn trách nhiệm gồm Bắc Đại Tây Dương và Tây Bắc cực. Hạm đội này có thể bị cắt giảm xuống mức cơ cấu danh nghĩa gồm chủ yếu là các đơn vị huấn luyện và bảo đảm với số tàu chiến tối thiểu.
Trên thực tế, đang tái diễn kịch bản đầu thế kỷ 20, khi mà Đức và Nga đă có thể thách thức thế giới Anglo-Saxon, nhưng cuối cùng lại buộc phải quay ra đánh nhau, khiến các kế hoạch thống trị thế giới đều sụp đổ.
Hiện nay, Bắc Kinh không ngại lợi dụng Nga để thu hút lực lượng của Mỹ, thế giới phương Tây lên hướng bắc. Đối với Nga, hướng chiến lược phía bắc quả thực là quan trọng sống c̣n, sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đă mất nhiều vị thế ở hướng này. Cần phải tăng cường hạm đội phương Bắc, thành lập các đơn vị cơ động sẵn sàng hoạt động ở điều kiện Cực Bắc, tiến hành các chương tŕnh phát triển các khu vực phía bắc.
Tuy nhiên, Nga cũng sẽ không quên châu Á - Thái B́nh Dương, bởi Nhật Bản liên tục yêu sách lănh thổ đối với Nga (Xét đến sự tăng cường hải quân của Nhật th́ đây là mối đe dọa hiện thực đối với sự toàn vẹn lănh thổ của Nga); t́nh h́nh bất ổn trên bán đảo Triều Tiên; sức mạnh của Mỹ vẫn c̣n đó; Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh.
Bởi vậy, việc hiện đại hóa hạ tầng quân sự ở khu vực Viễn Đông của Nga cũng cần thiết sống c̣n. Tính đến các yếu tố đó, Nga cũng phải có các kế hoạch xây dựng khoảng 3 cụm tàu sân bay xung kích, đồng thời phải có 1 tàu sân bay dự bị. Điều đó sẽ cho phép bảo đảm lợi ích của Nga ở Thái B́nh Dương và Bắc Băng Dương.
Nguồn: Baodatviet