vuitoichat
12-28-2011, 13:29
Đôi ḍng về tác giả: Lê Văn Bỉnh, cựu sinh viên Đốc sự khóa 10, Cao Hoc 2 Ban Kinh Tế Tài Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Saigon. Du học Hoa Kỳ (1972-74), xong M.A. (Economics). Về nước, phục vụ tại Khu Chế Xuất Saigon và dạy học tại Đại Học Kinh Thương, Đại Học Cửu Long v.v. Ông là tác giả một số bài viết kinh tế giá trị đă đăng trên các báo Việt ngữ và điện tử hải ngoại. Dưới đây là một bài viết công phu của ông về tài chánh Hoa Kỳ. – Trọng Đạt
Trong một bức thư gửi cho một người bạn, vị Bộ Trưởng Ngân Khố đầu tiên của Hoa Kỳ Alexander Hamilton (h́nh trên tờ giấy bạc $10), đă viết:
Quốc trái, nếu không dư thừa, sẽ là quốc phúc đối với chúng ta. Nó sẽ là một chất xi măng có tác dụng mạnh mẽ gắn chặt Liên Hiệp của chúng ta lại. Nó c̣n đưa đến sự cần thiết duy tŕ thuế khóa tới mức độ nào đó, nếu không bị áp chế, sẽ là một kích thích cho nền kinh tế.
Hamilton đă viết những lời trần t́nh trên vào năm 1780, tức trên hai trăm ba mươi năm về trước, để giải thích v́ sao quốc gia tân lập này cần huy động quốc trái để trả dứt nợ mà một số tiểu bang c̣n mắc trong cuộc chiến tranh giành độc lập từ nước Anh. Quan điểm của ông đă thắng thế thời bấy giờ. Và quốc trái Hoa Kỳ h́nh thành từ đấy.
Nhiều người khi biện minh cho việc chính phủ vay nợ, đă cố t́nh bỏ đi mấy chữ “if it is not excessive” trong câu “A national debt, if it is not excessive, will be to us a national blessing.”
Có lẽ chỉ v́ Hamilton đă không cho biết đến mức độ nào th́ nợ bị gọi là “dư thừa”, cho nên vấn đề quốc trái đă không ngừng được bàn căi trong những thập niên vừa qua khi mức nợ cứ lần lần lên cao, và “nổ tung” ra từ giữa năm 2011 khi cần phải quyết định xem đến đâu th́ được xem là mức nợ không được phép vượt qua (debt ceiling). Báo chí của cộng đồng người Việt hải ngoại bỗng dưng cũng bị hai “chữ lạ” xâm nhập. Đó là “Nợ trần”! Nếu dịch là “trần nợ” theo nguyên văn và đúng ngữ pháp, th́ may ra người đọc c̣n có thể tưởng tượng để mà hiểu được!
Chữ quốc trái trong bài này dùng để dịch chữ national debt. Nếu đề cập đến Hoa Kỳ mà thôi, nó cũng dùng để chỉ nợ liên bang (federal debt) mà chính phủ liên bang Hoa Kỳ vay mượn từ các nguồn trong và ngoài nước.
Thật ra đă từ lâu các nhà lănh đạo trên thế giới đă sử dụng quốc trái để tài trợ những chi phí cần thiết. Đế quốc La Mă, đế quốc Anh v.v. không những chỉ được xây dựng trên xương máu của binh sĩ, mà c̣n trên nợ nần để mua sắm vũ khí, tàu bè, quân trang, quân dụng. Và từ năm 1936, khi học thuyết của kinh tế gia John Meynard Keynes ra đời thống ngự chính sách kinh tế của hầu hết các nước Tây phương nhiều thập niên sau đó, th́ vay mượn trở thành “chuyện thường ngày”. Không phải chỉ khi có chiến tranh lớn, chính quyền mới vay mượn nợ; mà trong thời b́nh, mỗi khi thấy cần thiết, chính quyền cũng vay mượn nợ như một công cụ cho chính sách kinh tế tài chánh. Thậm chí nhiều chính quyền c̣n vay mượn nợ để tài trợ cho những chương tŕnh được xem là dân sinh để nhằm duy tŕ hay củng cố quyền lợi của cá nhân hay đảng phái của ḿnh.
Song song với cuộc khủng hoảng nợ nần của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, người ta cũng đang chứng kiến cảnh bên kia bờ Đại Tây Dương, nhiều nước châu Âu trong Châu Âu Thống Nhất lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Bắt đầu từ Hy Lạp, rồi đến Ư, đến Tây Ban Nha v.v., vấn đề quốc trái đang đe dọa nền tiền tệ của khu vực sử dụng đồng euro. Ban đầu nhiều người nghĩ nếu không có sự ra tay của “hiệp sĩ” Đức dưới một h́nh thức nào đó, thậm chí của “hảo hớn” Bắc Kinh mà ngũ tạng kinh tế cũng đang có vấn đề, th́ tổ chức bên kia bờ Đại Tây Dương này, vốn đă được dày công thành lập với tham vọng đối kháng với sức mạnh kinh tế Hoa Kỳ, sẽ trở về giấc mơ nguyên thủy. Nhưng sau hội nghị thượng đỉnh European Leaders ngày 26/10/11 vừa qua, th́ t́nh h́nh tài chánh của châu Âu đă bớt khẩn trương và các vấn đề sẽ được giải quyết theo hướng mà hội nghị đă vạch ra, tuy chi tiết thi hành cũng sẽ gây xích mích ít nhiều giữa các nước trong tổ chức, nhất là giữa Pháp và Đức.
Một chút lư thuyết
Để tài trợ công chi, chính phủ thường sử dụng 2 biện pháp chính: thuế và vay mượn. Tại Hoa Kỳ, cả hai đều phải có sự chấp thuận của Quốc Hội: thuế thường được biểu quyết riêng biệt và vay mượn thường được thông qua khi biểu quyết ngân sách. Lệ phí cũng giúp khá nhiều cho số thu[1], do các cơ quan hành chánh quyết định. Ngân sách hằng năm của liên bang mang tên niên lịch năm sắp tới, bắt đầu vào ngày 1 tháng 10 của niên lịch năm nay và chấm dứt vào ngày 30/9 niên lịch sau. Thí dụ Ngân Sách 2012 bắt đầu ngày 1/10/2011 (đă được soạn thảo xong và chuyển sang quốc hội vào tháng Hai năm 2011 để Quốc Hội thảo luận và biểu quyết) và sẽ chấm dứt ngày 30/09/12.
Lư tưởng là số dự thu bằng số dự chi. Đôi khi nền kinh tế bỗng nhiên phồn thịnh hơn dự tính, th́ số thực thu có thể vượt quá số dự thu, nhờ căn bản thuế tăng lên, trong khi thuế suất vẫn không thay đổi. Khi số thực thu nhỏ hơn số thực chi th́ xảy ra khiếm hụt ngân sách (budget deficit). Và khi số thực thu lớn hơn số thực chi th́ là thặng dư ngân sách (budget surplus).
Khi số thu (revenues) nhỏ hơn số chi (outlays), th́ ư nghĩ đầu tiên là phải t́m cách nâng số thu lên, bằng cách tăng thuế suất các loại thuế hiện hành hoặc đặt ra các loại thuế mới. Giải pháp tăng thuế suất có thể đưa đến việc trốn thuế (tax evasion), tức người bị đánh thuế sẽ không khai thuế, hoặc khai gian, mặc dầu biết đó là phạm pháp; hoặc họ t́m mọi cách để tránh thuế (tax avoidance) nếu có thể được, chẳng hạn không đi làm thêm nếu là cá nhân, hay tân tạo, sửa chửa máy móc dụng cụ theo luật định, mặc dầu không cần thiết, nếu là cơ sở thương mại. Cả hai hành vi trốn thuế và tránh thuế, nếu ở mức độ cao sẽ đưa đến thất thu cho ngân sách. Ngoài ra, cả hai giải pháp tăng thuế hay ra thuế mới không phải dễ thực hiện, v́ dễ đưa đến hậu quả chính trị không hay cho những nhân vật đề nghị, hay bỏ phiếu.
Một câu hỏi tự nhiên khác cũng được đặt ra: Tại sao khi dự trù ngân sách lại không bớt số dự chi để cho nó cân bằng với số dự thu? Thông thường vị Tổng Thống đương nhiệm, muốn chứng tỏ ḿnh làm được việc, thường có khuynh hướng thêm chương tŕnh này, dự án nọ v.v. dĩ nhiên đưa đến tốn kém hơn dưới thời người tiền nhiệm, hay ngay cả dưới tài khóa trước; hoặc để cứu nguy cho t́nh thế kinh tế suy thoái, th́ lại tốn kém nhiều hơn. Dự trù chi thêm, nhưng lại không dám dự trù tăng thuế, nhất là phải tăng nhiều cho cân bằng. Khi thảo luận, các vị dân cử –nhất là các vị thuộc đảng đối lập — có thể đề nghị cắt bớt các khoản chi; nhưng thường th́ chẳng mấy ai dám đề nghị tăng thuế, nhất là tăng thuế đụng chạm đến quyền lợi của cử tri, đặc biệt cử tri đă từng ủng hộ, hay có thể sẽ c̣n ủng hộ ḿnh. Vai tṛ của các tay vận động hành lang (lobbyists) sẽ trở nên rất lợi hại đối với các công ty, các ngành nghề lớn (xe hơi, xăng dầu, nông nghiệp vv.)
Khi Quốc Hội thảo luận cắt bỏ một số loại thuế, nhất là khi giảm thuế suất cho các loại thuế hiện hành –đặc biệt thuế lương bỗng (payroll tax) và thuế lợi tức (income tax), dư luận thường lên án là cắt giảm thuế chỉ “giúp cho người giàu trở thành giàu thêm”. Câu chuyện này đă xảy ra từ thời Tổng Thống Reagan. Tái diễn ra dưới thời Tổng Thống G.W.Bush, lúc nền kinh tế Hoa Kỳ đă dấu hiệu suy thoái trước khi ông bước vào Ṭa Bạch Ốc, chứ không cần phải đợi đến biến cố lịch sử 9-11-2001. Có phải thực sự Đảng Cộng Ḥa đă hai lần hành động vô lư và “điên rồ” hay không?
V́ chủ trương giảm thuế suất để tăng thu cho ngân sách là một chủ trương tương đối mới, chỉ phổ biến từ đầu thập niên 1970, cho nên xin bàn thêm một chút. Thật vậy, từ khi phương pháp sản xuất hằng loạt (mass production) được áp dụng rộng răi ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, lư thuyết kinh tế dựa chủ yếu trên số cầu tổng gộp (aggregate demand): muốn kinh tế tăng trưởng cần phải nâng cao số cầu tổng gộp, tức cầu của những người tiêu thụ (consumption), cộng với cầu của những nhà đầu tư (investment) và cầu của chính phủ (government), tức (C + I + G) như thường viết vắn tắt. Theo Keynes, cung cầu không thể tự điều chỉnh; do đó muốn giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, th́ chính quyền cần ảnh hưởng đến cầu tổng gộp qua chính sách tài chính, tức tăng công chi. Theo lư luận này, th́ một đô la chính phủ chi ra sẽ làm cho tổng sản lượng quốc gia tăng thêm nhiều hơn một đô la theo tác dụng số nhân (multiplier effect), và càng lớn hơn khi càng qua tay nhiều người hơn. Nói chung, cầu tổng gộp tăng kéo cung tổng gộp (hàng hóa và dịch vụ) tăng theo, làm cho kinh tế lớn mạnh thêm, và chính quyền sẽ thu nhiều được thuế hơn. Năm 1971, sau khi quyết định tách đồng đô la ra khỏi kim bản vị (tức không thể đổi đồng đô la để lấy vàng như trước đó), Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Giờ đây tôi cũng là một người theo chủ nghĩa Keynes trong kinh tế học” (I am now a Keysian in economics).
Sang đầu thập niên 1970, một số kinh tế gia thuộc trường phái “kinh tế dựa trên phía cung” (supply side economics, trong đó có Arthur B. Laffer[2], sau trở nên một thành viên của Economic Policy Advisory Board của Tổng Thống Reagan 1981-89), lư luận rằng việc giảm thuế suất không những không bớt mà c̣n tăng tổng số thu cho ngân sách nữa. Nếu tổng số thuế thu là tích số của thuế suất và căn bản thuế (tax base), như công thức dưới đây:
Tổng số thuế thu = (thuế suất) X (căn bản thuế),
th́ khi giảm thuế suất đến một mức nào đó, căn bản thuế sẽ mở rộng ra, và chính phủ sẽ thu thuế vào nhiều hơn. Theo một nghiên cứu, khi thuế suất lên cao đến 70%, như trường hợp Thụy Điển năm 1969, chính quyền giảm thuế suất, th́ tổng số thu đă tăng lên. Cơ sở cho lư luận của lư thuyết “kinh tế dựa trên phía cung” là: Giảm thuế suất sẽ khuyến khích và thúc đẩy người ta hăng hái làm việc hơn: người lao động cung cấp thêm sức lao động để làm thêm giờ, thêm jobs; các nhà sản xuất cung cấp thêm hàng hóa dịch vụ, các nhà tư bản cung cấp thêm vốn để đầu tư vv. Và Chú Sam sẽ có thêm tiền thuế bỏ vào túi, nhiều hơn khi không giảm thuế suất.
Một thí dụ giản dị: Giả sử có 10.000 người đang thất nghiệp, và mỗi người hưỏng trợ cấp thất nghiệp 1.300 đô la/tháng. Nếu có jobs mở ra cho họ, trung b́nh 2.000/tháng và thuế suất là 20%; như vậy khi đi làm, họ sẽ lănh 1.600 đô la/tháng, không hơn trợ cấp thất nghiệp bao nhiêu và chưa chắc họ muốn đi làm ngay. Bây giờ, nếu giảm thuế bằng cách hạ thuế suất xuống chỉ c̣n 10%, nếu đi làm mỗi người sẽ lănh 1.800 đô la/tháng. Họ có thể suy nghĩ lại. Nếu tất cả đều đi làm, thuế chính phủ sẽ thu: 2.000 x 10% x 10.000 = 2.000.000 đôla/tháng. Đó là chưa kể đến số tiền tiêt kiệm lớn v́ không c̣n phải trả cho trợ cấp thất nghiệp: 13.000.000 đôla/tháng.
Ứng cử viên Tổng Thống Ronald Reagan đă đưa ra chương tŕnh giảm khiếm hụt ngân sách và nợ nần liên bang như một trong những chủ đề tranh cử. Thắng cử vẻ vang, ngày 20/1/81, ông tuyên bố như sau về chuyện nợ nần trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên:
“Đồng bào và tôi, với tư cách cá nhân, có thể sống quá phương tiện của chúng ta bằng cách vay mượn, nhưng chỉ trong một thời gian hạn định mà thôi. Vậy th́, nói chung như một quốc gia, chúng ta có nên nghĩ rằng chúng ta không bị ràng buộc bởi cùng cái giới hạn đó hay chăng? Chúng ta phải hành động ngay bây giờ để duy tŕ mai hậu. Và đừng để hiểu lầm. Chúng ta sẽ bắt đầu hành động, bắt đầu ngay hôm nay.”
Ông lại c̣n quả quyết: “Chính quyền không là một giải đáp cho vấn đề; chính quyền mới chính là vấn đề.” Ông đă thành công trong việc thuyết phục quốc hội chịu giảm thuế suất lợi tức (từ 70%, xuống c̣n 50% năm 1984, rồi chỉ c̣n 33%; rồi với cuộc cải cách thuế khóa năm 1986, thuế lợi tức chỉ c̣n 2 thuế suất 28% và 15% khi ông măn nhiệm kỳ 2). Ông cũng tận lực cắt giảm tổng công chi của chính phủ liên bang, từ 23,5% TSLQG năm 1983 xuống c̣ 21,2% năm 1989. Chỉ riêng trong lănh vực quốc pḥng, ông cũng làm cho các vị dân cử bùi tai thông qua kế hoạch tốn kém “Chiến Tranh Giữa Các V́ Sao” (Star War), lôi cuốn Liên Xô phiêu lưu vào cuộc thi đua vơ trang, và cuối cùng tan ră, chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh không một phát súng như chúng ta đă biết. Và kết quả sau 2 nhiệm kỳ là: khiếm hụt từ 73.845 tỷ (tài khóa 1981) 152.481 tỷ (tài khóa 1989), và nợ liên bang cùng thời đă tăng theo, từ 909.050 triệu tỷ lên 3.206.564 triệu, tức trên 3,2 ngàn-tỷ (3.2 trillion). Nói cách khác, nợ nần tính bằng ngàn-tỷ bắt đầu từ thời Reagan![3]
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh ở đây: Khiếm hụt ngân sách và quốc trái không phải là các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của chính sách kinh tế, v́ các mục tiêu chính của chính sách kinh tế là chống lạm phát, tạo công việc làm, tăng lợi tức cho dân chúng. Thật vậy, dưới thời Reagan, ngân sách năm nào cũng khiếm hụt – năm ít hơn, năm nhiều hơn – và quốc trái mỗi năm đều tăng về số lượng, cũng như về tỷ lệ so với tổng sản lượng quốc gia (Quốc Trái/TSLQG)[4], nhưng nhờ chính sách cắt giảm thuế và chủ rrương tháo gỡ các ràng buộc (deregulation, chẳng hạn không c̣n qui định giá cả, lệ phí, không hạn chế địa lư hoạt động của các ngân hàng v.v.) mà nền kinh tế Hoa Kỳ bành trướng thêm ra hơn 30% trong thời kỳ 7 năm hồi phục. Chỉ riêng năm 1984, mức tăng trưởng kinh tế lên con số kỷ lục 6,8%. Về phương diện nhân dụng, đă có thêm 20 triệu công việc làm; tỷ lệ thất nghiệp giảm dần, chỉ c̣n 5,3% vào năm 1989. Tỷ lệ lạm phát năm 1980 (trước khi Reagan nhậm chức) xuống phân nửa, tức chỉ c̣n 6,2% vào năm 1982; rồi lại xuống thêm phân nửa vào năm sau đó, tức 3,2%, nghĩa là gần đạt mức lư tưởng 3% mà các kinh tế gia xem là lúc nền kinh tế toàn dụng. Cũng dưới thời Reagan, lợi tức khả dụng thực (real per capita disposable income, tức lợi tức khả dụng sau khi điều chỉnh lạm phát) đă tăng lên 18%, khiến cho mức sống của dân chúng được nâng cao nhiều.
Lúc đầu, nhiều kinh tế gia không mấy tin tưởng vào hiệu quả của nguyên tắc giảm thuế theo lư thuyết kinh tế dựa trên phía cung. Nhưng về sau, khi nó phát huy đầy đủ tác dụng th́ kết quả rất khả quan. Thực vậy trong tài khóa 1986, khiếm hụt ngân sách lên đến con số kỷ lục: 221 tỷ. Nhưng trong 3 tài khóa kế tiếp sau đó, th́ khiếm hụt chỉ c̣n 149,8 tỷ; 155,2 tỷ và 152,5 tỷ. Một vài tác giả c̣n dành công lao cho lư thuyết này khi kể đến sự ra đời và phát triển của các đại công ty như Microsoft, Intel, Wal Mart v.v.
Trên đây là lời giải thích rất đơn sơ cho biết v́ sao những chính quyền sau đó vẫn c̣n chuộng các biện pháp giảm thuế.
Trong một bức thư gửi cho một người bạn, vị Bộ Trưởng Ngân Khố đầu tiên của Hoa Kỳ Alexander Hamilton (h́nh trên tờ giấy bạc $10), đă viết:
Quốc trái, nếu không dư thừa, sẽ là quốc phúc đối với chúng ta. Nó sẽ là một chất xi măng có tác dụng mạnh mẽ gắn chặt Liên Hiệp của chúng ta lại. Nó c̣n đưa đến sự cần thiết duy tŕ thuế khóa tới mức độ nào đó, nếu không bị áp chế, sẽ là một kích thích cho nền kinh tế.
Hamilton đă viết những lời trần t́nh trên vào năm 1780, tức trên hai trăm ba mươi năm về trước, để giải thích v́ sao quốc gia tân lập này cần huy động quốc trái để trả dứt nợ mà một số tiểu bang c̣n mắc trong cuộc chiến tranh giành độc lập từ nước Anh. Quan điểm của ông đă thắng thế thời bấy giờ. Và quốc trái Hoa Kỳ h́nh thành từ đấy.
Nhiều người khi biện minh cho việc chính phủ vay nợ, đă cố t́nh bỏ đi mấy chữ “if it is not excessive” trong câu “A national debt, if it is not excessive, will be to us a national blessing.”
Có lẽ chỉ v́ Hamilton đă không cho biết đến mức độ nào th́ nợ bị gọi là “dư thừa”, cho nên vấn đề quốc trái đă không ngừng được bàn căi trong những thập niên vừa qua khi mức nợ cứ lần lần lên cao, và “nổ tung” ra từ giữa năm 2011 khi cần phải quyết định xem đến đâu th́ được xem là mức nợ không được phép vượt qua (debt ceiling). Báo chí của cộng đồng người Việt hải ngoại bỗng dưng cũng bị hai “chữ lạ” xâm nhập. Đó là “Nợ trần”! Nếu dịch là “trần nợ” theo nguyên văn và đúng ngữ pháp, th́ may ra người đọc c̣n có thể tưởng tượng để mà hiểu được!
Chữ quốc trái trong bài này dùng để dịch chữ national debt. Nếu đề cập đến Hoa Kỳ mà thôi, nó cũng dùng để chỉ nợ liên bang (federal debt) mà chính phủ liên bang Hoa Kỳ vay mượn từ các nguồn trong và ngoài nước.
Thật ra đă từ lâu các nhà lănh đạo trên thế giới đă sử dụng quốc trái để tài trợ những chi phí cần thiết. Đế quốc La Mă, đế quốc Anh v.v. không những chỉ được xây dựng trên xương máu của binh sĩ, mà c̣n trên nợ nần để mua sắm vũ khí, tàu bè, quân trang, quân dụng. Và từ năm 1936, khi học thuyết của kinh tế gia John Meynard Keynes ra đời thống ngự chính sách kinh tế của hầu hết các nước Tây phương nhiều thập niên sau đó, th́ vay mượn trở thành “chuyện thường ngày”. Không phải chỉ khi có chiến tranh lớn, chính quyền mới vay mượn nợ; mà trong thời b́nh, mỗi khi thấy cần thiết, chính quyền cũng vay mượn nợ như một công cụ cho chính sách kinh tế tài chánh. Thậm chí nhiều chính quyền c̣n vay mượn nợ để tài trợ cho những chương tŕnh được xem là dân sinh để nhằm duy tŕ hay củng cố quyền lợi của cá nhân hay đảng phái của ḿnh.
Song song với cuộc khủng hoảng nợ nần của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, người ta cũng đang chứng kiến cảnh bên kia bờ Đại Tây Dương, nhiều nước châu Âu trong Châu Âu Thống Nhất lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Bắt đầu từ Hy Lạp, rồi đến Ư, đến Tây Ban Nha v.v., vấn đề quốc trái đang đe dọa nền tiền tệ của khu vực sử dụng đồng euro. Ban đầu nhiều người nghĩ nếu không có sự ra tay của “hiệp sĩ” Đức dưới một h́nh thức nào đó, thậm chí của “hảo hớn” Bắc Kinh mà ngũ tạng kinh tế cũng đang có vấn đề, th́ tổ chức bên kia bờ Đại Tây Dương này, vốn đă được dày công thành lập với tham vọng đối kháng với sức mạnh kinh tế Hoa Kỳ, sẽ trở về giấc mơ nguyên thủy. Nhưng sau hội nghị thượng đỉnh European Leaders ngày 26/10/11 vừa qua, th́ t́nh h́nh tài chánh của châu Âu đă bớt khẩn trương và các vấn đề sẽ được giải quyết theo hướng mà hội nghị đă vạch ra, tuy chi tiết thi hành cũng sẽ gây xích mích ít nhiều giữa các nước trong tổ chức, nhất là giữa Pháp và Đức.
Một chút lư thuyết
Để tài trợ công chi, chính phủ thường sử dụng 2 biện pháp chính: thuế và vay mượn. Tại Hoa Kỳ, cả hai đều phải có sự chấp thuận của Quốc Hội: thuế thường được biểu quyết riêng biệt và vay mượn thường được thông qua khi biểu quyết ngân sách. Lệ phí cũng giúp khá nhiều cho số thu[1], do các cơ quan hành chánh quyết định. Ngân sách hằng năm của liên bang mang tên niên lịch năm sắp tới, bắt đầu vào ngày 1 tháng 10 của niên lịch năm nay và chấm dứt vào ngày 30/9 niên lịch sau. Thí dụ Ngân Sách 2012 bắt đầu ngày 1/10/2011 (đă được soạn thảo xong và chuyển sang quốc hội vào tháng Hai năm 2011 để Quốc Hội thảo luận và biểu quyết) và sẽ chấm dứt ngày 30/09/12.
Lư tưởng là số dự thu bằng số dự chi. Đôi khi nền kinh tế bỗng nhiên phồn thịnh hơn dự tính, th́ số thực thu có thể vượt quá số dự thu, nhờ căn bản thuế tăng lên, trong khi thuế suất vẫn không thay đổi. Khi số thực thu nhỏ hơn số thực chi th́ xảy ra khiếm hụt ngân sách (budget deficit). Và khi số thực thu lớn hơn số thực chi th́ là thặng dư ngân sách (budget surplus).
Khi số thu (revenues) nhỏ hơn số chi (outlays), th́ ư nghĩ đầu tiên là phải t́m cách nâng số thu lên, bằng cách tăng thuế suất các loại thuế hiện hành hoặc đặt ra các loại thuế mới. Giải pháp tăng thuế suất có thể đưa đến việc trốn thuế (tax evasion), tức người bị đánh thuế sẽ không khai thuế, hoặc khai gian, mặc dầu biết đó là phạm pháp; hoặc họ t́m mọi cách để tránh thuế (tax avoidance) nếu có thể được, chẳng hạn không đi làm thêm nếu là cá nhân, hay tân tạo, sửa chửa máy móc dụng cụ theo luật định, mặc dầu không cần thiết, nếu là cơ sở thương mại. Cả hai hành vi trốn thuế và tránh thuế, nếu ở mức độ cao sẽ đưa đến thất thu cho ngân sách. Ngoài ra, cả hai giải pháp tăng thuế hay ra thuế mới không phải dễ thực hiện, v́ dễ đưa đến hậu quả chính trị không hay cho những nhân vật đề nghị, hay bỏ phiếu.
Một câu hỏi tự nhiên khác cũng được đặt ra: Tại sao khi dự trù ngân sách lại không bớt số dự chi để cho nó cân bằng với số dự thu? Thông thường vị Tổng Thống đương nhiệm, muốn chứng tỏ ḿnh làm được việc, thường có khuynh hướng thêm chương tŕnh này, dự án nọ v.v. dĩ nhiên đưa đến tốn kém hơn dưới thời người tiền nhiệm, hay ngay cả dưới tài khóa trước; hoặc để cứu nguy cho t́nh thế kinh tế suy thoái, th́ lại tốn kém nhiều hơn. Dự trù chi thêm, nhưng lại không dám dự trù tăng thuế, nhất là phải tăng nhiều cho cân bằng. Khi thảo luận, các vị dân cử –nhất là các vị thuộc đảng đối lập — có thể đề nghị cắt bớt các khoản chi; nhưng thường th́ chẳng mấy ai dám đề nghị tăng thuế, nhất là tăng thuế đụng chạm đến quyền lợi của cử tri, đặc biệt cử tri đă từng ủng hộ, hay có thể sẽ c̣n ủng hộ ḿnh. Vai tṛ của các tay vận động hành lang (lobbyists) sẽ trở nên rất lợi hại đối với các công ty, các ngành nghề lớn (xe hơi, xăng dầu, nông nghiệp vv.)
Khi Quốc Hội thảo luận cắt bỏ một số loại thuế, nhất là khi giảm thuế suất cho các loại thuế hiện hành –đặc biệt thuế lương bỗng (payroll tax) và thuế lợi tức (income tax), dư luận thường lên án là cắt giảm thuế chỉ “giúp cho người giàu trở thành giàu thêm”. Câu chuyện này đă xảy ra từ thời Tổng Thống Reagan. Tái diễn ra dưới thời Tổng Thống G.W.Bush, lúc nền kinh tế Hoa Kỳ đă dấu hiệu suy thoái trước khi ông bước vào Ṭa Bạch Ốc, chứ không cần phải đợi đến biến cố lịch sử 9-11-2001. Có phải thực sự Đảng Cộng Ḥa đă hai lần hành động vô lư và “điên rồ” hay không?
V́ chủ trương giảm thuế suất để tăng thu cho ngân sách là một chủ trương tương đối mới, chỉ phổ biến từ đầu thập niên 1970, cho nên xin bàn thêm một chút. Thật vậy, từ khi phương pháp sản xuất hằng loạt (mass production) được áp dụng rộng răi ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới, lư thuyết kinh tế dựa chủ yếu trên số cầu tổng gộp (aggregate demand): muốn kinh tế tăng trưởng cần phải nâng cao số cầu tổng gộp, tức cầu của những người tiêu thụ (consumption), cộng với cầu của những nhà đầu tư (investment) và cầu của chính phủ (government), tức (C + I + G) như thường viết vắn tắt. Theo Keynes, cung cầu không thể tự điều chỉnh; do đó muốn giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, th́ chính quyền cần ảnh hưởng đến cầu tổng gộp qua chính sách tài chính, tức tăng công chi. Theo lư luận này, th́ một đô la chính phủ chi ra sẽ làm cho tổng sản lượng quốc gia tăng thêm nhiều hơn một đô la theo tác dụng số nhân (multiplier effect), và càng lớn hơn khi càng qua tay nhiều người hơn. Nói chung, cầu tổng gộp tăng kéo cung tổng gộp (hàng hóa và dịch vụ) tăng theo, làm cho kinh tế lớn mạnh thêm, và chính quyền sẽ thu nhiều được thuế hơn. Năm 1971, sau khi quyết định tách đồng đô la ra khỏi kim bản vị (tức không thể đổi đồng đô la để lấy vàng như trước đó), Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Giờ đây tôi cũng là một người theo chủ nghĩa Keynes trong kinh tế học” (I am now a Keysian in economics).
Sang đầu thập niên 1970, một số kinh tế gia thuộc trường phái “kinh tế dựa trên phía cung” (supply side economics, trong đó có Arthur B. Laffer[2], sau trở nên một thành viên của Economic Policy Advisory Board của Tổng Thống Reagan 1981-89), lư luận rằng việc giảm thuế suất không những không bớt mà c̣n tăng tổng số thu cho ngân sách nữa. Nếu tổng số thuế thu là tích số của thuế suất và căn bản thuế (tax base), như công thức dưới đây:
Tổng số thuế thu = (thuế suất) X (căn bản thuế),
th́ khi giảm thuế suất đến một mức nào đó, căn bản thuế sẽ mở rộng ra, và chính phủ sẽ thu thuế vào nhiều hơn. Theo một nghiên cứu, khi thuế suất lên cao đến 70%, như trường hợp Thụy Điển năm 1969, chính quyền giảm thuế suất, th́ tổng số thu đă tăng lên. Cơ sở cho lư luận của lư thuyết “kinh tế dựa trên phía cung” là: Giảm thuế suất sẽ khuyến khích và thúc đẩy người ta hăng hái làm việc hơn: người lao động cung cấp thêm sức lao động để làm thêm giờ, thêm jobs; các nhà sản xuất cung cấp thêm hàng hóa dịch vụ, các nhà tư bản cung cấp thêm vốn để đầu tư vv. Và Chú Sam sẽ có thêm tiền thuế bỏ vào túi, nhiều hơn khi không giảm thuế suất.
Một thí dụ giản dị: Giả sử có 10.000 người đang thất nghiệp, và mỗi người hưỏng trợ cấp thất nghiệp 1.300 đô la/tháng. Nếu có jobs mở ra cho họ, trung b́nh 2.000/tháng và thuế suất là 20%; như vậy khi đi làm, họ sẽ lănh 1.600 đô la/tháng, không hơn trợ cấp thất nghiệp bao nhiêu và chưa chắc họ muốn đi làm ngay. Bây giờ, nếu giảm thuế bằng cách hạ thuế suất xuống chỉ c̣n 10%, nếu đi làm mỗi người sẽ lănh 1.800 đô la/tháng. Họ có thể suy nghĩ lại. Nếu tất cả đều đi làm, thuế chính phủ sẽ thu: 2.000 x 10% x 10.000 = 2.000.000 đôla/tháng. Đó là chưa kể đến số tiền tiêt kiệm lớn v́ không c̣n phải trả cho trợ cấp thất nghiệp: 13.000.000 đôla/tháng.
Ứng cử viên Tổng Thống Ronald Reagan đă đưa ra chương tŕnh giảm khiếm hụt ngân sách và nợ nần liên bang như một trong những chủ đề tranh cử. Thắng cử vẻ vang, ngày 20/1/81, ông tuyên bố như sau về chuyện nợ nần trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên:
“Đồng bào và tôi, với tư cách cá nhân, có thể sống quá phương tiện của chúng ta bằng cách vay mượn, nhưng chỉ trong một thời gian hạn định mà thôi. Vậy th́, nói chung như một quốc gia, chúng ta có nên nghĩ rằng chúng ta không bị ràng buộc bởi cùng cái giới hạn đó hay chăng? Chúng ta phải hành động ngay bây giờ để duy tŕ mai hậu. Và đừng để hiểu lầm. Chúng ta sẽ bắt đầu hành động, bắt đầu ngay hôm nay.”
Ông lại c̣n quả quyết: “Chính quyền không là một giải đáp cho vấn đề; chính quyền mới chính là vấn đề.” Ông đă thành công trong việc thuyết phục quốc hội chịu giảm thuế suất lợi tức (từ 70%, xuống c̣n 50% năm 1984, rồi chỉ c̣n 33%; rồi với cuộc cải cách thuế khóa năm 1986, thuế lợi tức chỉ c̣n 2 thuế suất 28% và 15% khi ông măn nhiệm kỳ 2). Ông cũng tận lực cắt giảm tổng công chi của chính phủ liên bang, từ 23,5% TSLQG năm 1983 xuống c̣ 21,2% năm 1989. Chỉ riêng trong lănh vực quốc pḥng, ông cũng làm cho các vị dân cử bùi tai thông qua kế hoạch tốn kém “Chiến Tranh Giữa Các V́ Sao” (Star War), lôi cuốn Liên Xô phiêu lưu vào cuộc thi đua vơ trang, và cuối cùng tan ră, chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh không một phát súng như chúng ta đă biết. Và kết quả sau 2 nhiệm kỳ là: khiếm hụt từ 73.845 tỷ (tài khóa 1981) 152.481 tỷ (tài khóa 1989), và nợ liên bang cùng thời đă tăng theo, từ 909.050 triệu tỷ lên 3.206.564 triệu, tức trên 3,2 ngàn-tỷ (3.2 trillion). Nói cách khác, nợ nần tính bằng ngàn-tỷ bắt đầu từ thời Reagan![3]
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh ở đây: Khiếm hụt ngân sách và quốc trái không phải là các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của chính sách kinh tế, v́ các mục tiêu chính của chính sách kinh tế là chống lạm phát, tạo công việc làm, tăng lợi tức cho dân chúng. Thật vậy, dưới thời Reagan, ngân sách năm nào cũng khiếm hụt – năm ít hơn, năm nhiều hơn – và quốc trái mỗi năm đều tăng về số lượng, cũng như về tỷ lệ so với tổng sản lượng quốc gia (Quốc Trái/TSLQG)[4], nhưng nhờ chính sách cắt giảm thuế và chủ rrương tháo gỡ các ràng buộc (deregulation, chẳng hạn không c̣n qui định giá cả, lệ phí, không hạn chế địa lư hoạt động của các ngân hàng v.v.) mà nền kinh tế Hoa Kỳ bành trướng thêm ra hơn 30% trong thời kỳ 7 năm hồi phục. Chỉ riêng năm 1984, mức tăng trưởng kinh tế lên con số kỷ lục 6,8%. Về phương diện nhân dụng, đă có thêm 20 triệu công việc làm; tỷ lệ thất nghiệp giảm dần, chỉ c̣n 5,3% vào năm 1989. Tỷ lệ lạm phát năm 1980 (trước khi Reagan nhậm chức) xuống phân nửa, tức chỉ c̣n 6,2% vào năm 1982; rồi lại xuống thêm phân nửa vào năm sau đó, tức 3,2%, nghĩa là gần đạt mức lư tưởng 3% mà các kinh tế gia xem là lúc nền kinh tế toàn dụng. Cũng dưới thời Reagan, lợi tức khả dụng thực (real per capita disposable income, tức lợi tức khả dụng sau khi điều chỉnh lạm phát) đă tăng lên 18%, khiến cho mức sống của dân chúng được nâng cao nhiều.
Lúc đầu, nhiều kinh tế gia không mấy tin tưởng vào hiệu quả của nguyên tắc giảm thuế theo lư thuyết kinh tế dựa trên phía cung. Nhưng về sau, khi nó phát huy đầy đủ tác dụng th́ kết quả rất khả quan. Thực vậy trong tài khóa 1986, khiếm hụt ngân sách lên đến con số kỷ lục: 221 tỷ. Nhưng trong 3 tài khóa kế tiếp sau đó, th́ khiếm hụt chỉ c̣n 149,8 tỷ; 155,2 tỷ và 152,5 tỷ. Một vài tác giả c̣n dành công lao cho lư thuyết này khi kể đến sự ra đời và phát triển của các đại công ty như Microsoft, Intel, Wal Mart v.v.
Trên đây là lời giải thích rất đơn sơ cho biết v́ sao những chính quyền sau đó vẫn c̣n chuộng các biện pháp giảm thuế.