Hanna
01-03-2012, 12:25
(Tiến tŕnh toàn cầu hóa và mối đe dọa đối với phương Tây)
Charles A. Kupchan, Foreign Affairs, January/February 2012
Trần Ngọc Cư dịch
Trong bài phát biểu đọc tại Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 17-11-2000, Tổng thống Bill Clinton đă ví xu thế toàn cầu hóa với các lực thiên nhiên như gió và nước trong cách lư giải sau đây:
"Chúng ta có thể dồn gió cho căng buồm. Chúng ta có thể dùng nước để tạo ra năng lượng. Chúng ta có thể cố gắng chống lại băo và lũ lụt để bảo vệ nhân dân và tài sản. Nhưng chúng ta chẳng thể nào phủ nhận sự hiện hữu của gió và nước, hoặc t́m cách loại chúng. Xu hướng toàn cầu hoá cũng thế. Chúng ta có thể nỗ lực để tối đa hoá cái lợi của nó và giảm thiểu những rủi ro, nhưng chúng ta không thể làm ngơ trước xu hướng này và nó cũng sẽ không tự biến mất". (trích bản dịch của TTXVN).
Đúng vậy. Trong hai thập kỷ qua, tiến tŕnh toàn cầu hóa đă tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các nước đang phát triển vươn lên, v́ tiến tŕnh này đă trải rộng tổng số của cải trên thế giới và "hội nhập hàng tỉ công nhân lương thấp vào hệ thống kinh tế toàn cầu" (Kupchan). Cùng với xu thế toàn cầu hoá, sự ra đời của công nghệ thông tin đă trang bị một số nước đang phát triển "đôi hài vạn dặm" để vươn lên nhanh chóng, nổi bật nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Brazil, Hồi Quốc, Nam Phi... Tiến tŕnh toàn cầu hoá đă chuyển sức mạnh kinh tế từ trung tâm quyền lực truyền thống là các cường quốc phương Tây sang các vùng phụ biên của thế giới.
Trong bài tiểu luận sau đây, Giáo sư Charles A. Kupchan đă kết luận rằng tiến tŕnh toàn cầu hóa đă từng bước lấy mất quyền kiểm soát của các cường quốc phương Tây trên các vấn đề quốc tế, đồng thời gây ra t́nh trạng bất ổn và bất b́nh đẳng nghiêm trọng trong các xă hội dân chủ. Các chính phủ dân chủ hàng đầu phương Tây đang lâm vào một cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia.
Như vậy, làn sóng toàn cầu hóa đă tạo ra t́nh trạng bên lở - bên bồi. Có lẽ đă đến lúc chúng ta phải nh́n lại và đánh giá t́nh h́nh là người Việt Nam chúng ta đă thu hoạch những ǵ, và thu hoạch bao nhiêu trong vận hội mới do tiến tŕnh toàn cầu hóa mang lại, trước khả năng lịch sử có thể sang trang trong tương lai. V́ tiến tŕnh nào cũng có giai đoạn thoái trào của nó: có bắt đầu th́ phải có kết thúc. Điều đáng báo động là, đối diện với khủng hoảng kinh tế và chính trị trong nước, thậm chí các chính phủ dân chủ tự do tiên tiến nhất cũng phải tính đến các đường lối dân túy chủ nghĩa (populist approaches): nhúng tay vào việc hoạch định kinh tế và bảo hộ mậu dịch để phục vụ quyền lợi bức thiết của các khối cử tri rộng lớn, nếu các chính phủ này không muốn thấy sự lan rộng của các phong trào quần chúng nổi dậy, mà màn giáo đầu có thể là Phong trào Chiếm Phố Wall. Đây cũng là cảnh báo quan trọng mà học giả Kupchan đă đưa ra trong bài viết của ḿnh, và chúng ta như một quốc gia đang thụ hưởng thành quả của kinh tế toàn cầu thiết tưởng cũng nên suy nghĩ về viễn cảnh đó.
Bauxite Việt Nam
Một cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia đang trùm phủ lên các chế độ dân chủ tiên tiến nhất thế giới. Chẳng phải t́nh cờ mà Mỹ, châu Âu, và Nhật Bản đang đồng thời trải qua một t́nh trạng suy sụp chính trị; tiến tŕnh toàn cầu hóa đang mở ra một khoảng cách ngày càng lớn giữa những ǵ mà các khối cử tri đang đ̣i hỏi từ chính phủ của họ và những ǵ mà các chính phủ ấy có thể đáp ứng được. Sự so le giữa việc người dân ngày càng đ̣i hỏi một khả năng điều hành quốc gia tốt đẹp và việc chính phủ ngày càng bất lực trong việc cung ứng khả năng ấy là một trong những thử thách nghiêm trọng nhất của thế giới phương Tây hiện nay.
Cử tri tại các nước dân chủ công nghiệp hóa đang kỳ vọng chính phủ của họ giải quyết các vấn đề liên quan đến sự sa sút trong mức sống và t́nh trạng bất b́nh đẳng kinh tế ngày một gia tăng do sự luân lưu hàng hóa, dịch vụ, và vốn diễn ra ở mức độ chưa từng thấy trên toàn cầu. Họ cũng trông chờ các vị đại biểu của ḿnh giải quyết các vấn đề nổi cộm như việc nhập cư của người nước ngoài, t́nh trạng hâm nóng địa cầu, và các hệ quả thứ yếu khác của một thế giới toàn cầu hoá. Nhưng các chính phủ phương Tây không đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ ấy. Tiến tŕnh toàn cầu hóa đang lấy mất những lợi thế chính sách của những chính phủ này, đồng thời làm suy giảm sự thống trị truyền thống của phương Tây trên các vấn đề quốc tế, v́ tiến tŕnh này đă tạo điều kiện cho “phần c̣n lại của thế giới vươn lên”. Sự bất lực của các chính phủ dân chủ trong việc đáp ứng các nhu cầu của đại chúng do đó đă gia tăng sự bất măn của người dân, làm suy yếu thêm tính chính danh và hiệu năng của các định chế đại nghị.
Cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia trong phạm vi thế giới phương Tây đă diễn ra đặc biệt không đúng thời điểm. Toàn bộ hệ thống quốc tế đang kinh qua một biến chuyển tái tạo (tectonic change) do sự phân tán của cải và quyền lực đến những khu vực mới. Tiến tŕnh toàn cầu hóa lẽ ra phải làm lợi cho các xă hội tự do, những xă hội được cho là phù hợp nhất trong việc vận dụng tính nhanh nhạy và linh động của thị trường toàn cầu. Nhưng thay v́ vậy, nhiều khối quần chúng ở những nước dân chủ tiên tiến tại Bắc Mỹ, châu Âu, và Đông Á đang gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề – chính v́ các nền kinh tế của những nước này vừa hết hạn kỳ (không thể phát triển thêm được nữa) vừa mở ra với thế giới bên ngoài.
Trái lại, Brazil, Ấn độ, Hồi Quốc, và các nước dân chủ đang trỗi dậy khác hiện đang hưởng lợi nhờ sự chuyển dịch sinh lực kinh tế từ thế giới phát triển sang thế giới đang phát triển. Đặc biệt Trung Quốc (TQ) đang tỏ ra khôn khéo trong việc gặt hái những lợi ích của việc toàn cầu hóa trong khi hạn chế được những thiệt hại do nó mang lại – một phần không nhỏ là v́ TQ đă giữ quyền kiểm soát những công cụ chính sách mà các đối thủ tự do không chịu dùng đến. Chủ nghĩa tư bản nhà nước có những lợi thế rơ ràng, chí ít trong giai đoạn hiện nay. Do đó, không những chỉ có ưu thế vật chất của phương Tây đang bị đe dọa, mà sức hấp dẫn của phiên bản về tính hiện đại phương Tây cũng bị thử thách. Nếu các chế độ tự do dân chủ không thể phục hồi khả năng thanh toán các vấn đề chính trị và kinh tế hiện nay (political and economic solvency), th́ quyền lực chính trị và địa chính trị của Thế kỷ 21 rất có thể bị nhiều thế lực khác nhau giành giựt.
NHỮNG BẤT AN
Tiến tŕnh toàn cầu hóa đă trải rộng toàn bộ của cải của thế giới và giúp các nước đang phát triển đạt được sự phồn thịnh chưa từng có. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng đầu tư, mậu dịch, và các mạng lưới giao thông đă làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia (interdependence) và các hệ quả có tiềm năng ổn định t́nh h́nh. Xu thế toàn cầu hóa cũng buộc các quốc gia phi dân chủ phải mở cửa và v́ thế nó có thể thúc đẩy các cuộc nổi dậy của dân chúng. Nhưng đồng thời, việc toàn cầu hóa và nền kinh tế thông tin (digital economy) mà nó dựa vào là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia hiện nay tại phương Tây. Xu hướng giảm công nghiệp hóa (deindustrialization ) và đưa công việc ra nước ngoài (outsourcing), thương mại toàn cầu và bất quân b́nh ngân sách, vốn thặng dư và tín dụng và bong bóng đầu tư – những hậu quả này của xu thế toàn cầu hóa đang áp đặt lên xă hội phương Tây nhiều gian khổ và bất an mà nhiều thế hệ gần đây chưa từng trải qua. T́nh trạng khốn khổ phát xuất từ cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008 là đặc biệt gay gắt, nhưng những vấn đề cơ bản đă phát xuất sớm hơn nhiều. Trong phần lớn hai thập kỷ qua, đồng lương của giai cấp trung lưu tại các nước dân chủ hàng đầu trên thế giới đă bị giữ ở mức cố định, và t́nh trạng bất b́nh đẳng kinh tế đă và đang gia tăng gay gắt, đồng thời xu thế toàn cầu hóa đă tưởng thưởng hậu hĩ những người thành công và để lại đằng sau nhiều người thất bại.
Những xu thế này không phải là phó sản tạm thời của một chu kỳ thương nghiệp (the business cycle), chúng cũng không chủ yếu do việc chính phủ thiếu điều tiết trong khu vực tài chính, hay do việc giảm thuế giữa hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, hay do những chính sách sai lầm khác. Như các nhà phân tích kinh tế Daniel Alpert, Robert Kockett, và Nouriel Roubini đă tranh luận gần đây trong tác phẩm nghiên cứu của họ The Way Forward (Con đường phía trước), th́ đồng lương tŕ trệ và t́nh trạng bất b́nh đẳng ngày càng gia tăng là hậu quả của việc hội nhập hằng tỉ công nhân lương thấp (low-wage workers) vào nền kinh tế toàn cầu và việc gia tăng năng suất nhờ áp dụng công nghệ thông tin vào khu vực sản xuất. Những phát triển này đă đẩy năng suất toàn cầu cao hơn mức đ̣i hỏi quá xa, gây tổn thất nặng nề cho công nhân tại các nền kinh tế trả lương cao (high-wage economies) của thế giới công nghiệp. T́nh trạng xáo trộn và bất măn của nhiều khối cử tri phương Tây do việc toàn cầu hóa đă được khuếch đại bởi cường độ gia tăng của những mối đe doạ xuyên quốc gia, nạn khủng bố, việc nhập cư bất hợp pháp, và nạn xuống cấp môi trường – vốn là hệ quả của quá tŕnh toàn cầu hóa. Cộng thêm vào mối phức tạp xấu xa này là cuộc cách mạng thông tin; Internet và sự tràn ngập các phương tiện thông tin đại chúng h́nh như đang làm gia tăng t́nh trạng phân cực ư thức hệ hơn là bồi dưỡng các cuộc thảo luận có ư nghĩa.
Các cử tri đứng trước sức ép kinh tế, xáo trộn xă hội, và chia rẽ chính trị đang hướng về các vị đại diện dân cử để t́m sự giúp đỡ. Nhưng, xu thế toàn cầu hóa càng thúc đẩy đ̣i hỏi bức thiết là chính phủ phải đáp ứng nguyện vọng người dân bao nhiêu, th́ chính xu thế này cũng đảm bảo rằng sự đáp ứng đó là bất cập bấy nhiêu. Các chính phủ tại các nước công nghiệp phương Tây đă đi vào một giai đoạn thiếu hiệu quả rơ rệt, v́ ba lư do chủ yếu sau đây:
Một là, xu thế toàn cầu hóa đă biến những công cụ chính sách truyền thống từng được sử dụng bởi những nước tự do dân chủ thành những công cụ cùn cụt hơn trước nhiều. Washington thường xuyên vận dụng chính sách ngân sách và tiền tệ để điều chỉnh hoạt động kinh tế. Nhưng trước cuộc cạnh tranh toàn cầu và một núi nợ chưa từng thấy, nền kinh tế Mỹ có vẻ gần như trở thành miễn dịch đối với các lượng tiền chi tiêu để kích thích kinh tế hay đối với những động thái mới nhất của Quĩ Dự trữ Liên bang [Ngân hàng Trung ương] về lăi suất. Phạm vi rộng lớn và tốc độ nhanh chóng của các lưu lượng thương mại và tài chính toàn cầu có ư nghĩa rằng các quyết định và các biến chuyển ở những nơi khác là quan trọng hơn những quyết định của Washington – như thái độ ngoan cố của Bắc Kinh về đồng Nhân dân tệ, phản ứng chậm chạp của châu Âu đối với cuộc khủng hoảng tài chính tại đó, hành vi của giới đầu tư và các cơ quan thẩm định giá trị, hoặc sự gia tăng phẩm chất các kiểu xe mới nhất của hăng Hyundai. Các nước dân chủ châu Âu qua một thởi gian lâu dài từng dựa vào chính sách tiền tệ để thích nghi với các thay đổi bất thường trong hoạt động kinh tế. Nhưng họ đă từ bỏ lựa chọn ấy khi họ gia nhập khu vực đồng euro. Nhật Bản trong hai thập kỷ vừa qua đă thử nghiệm chiến lược này đến chiến lược khác để kích thích kinh tế, nhưng vô hiệu. Trong một thế giới toàn cầu hóa, giản dị là, các quốc gia dân chủ không c̣n khả năng kiểm soát các hậu quả như trước.
Hai là, nhiều vấn đề mà các khối cử tri phương Tây đang đ̣i hỏi chính phủ của ḿnh giải quyết cần đến một mức độ hợp tác quốc tế nào đó, nhưng đây là điều không thể thực hiện. Sự tản mác quyền lực từ phương Tây sang phần c̣n lại của thế giới có nghĩa là ngày nay có nhiều đầu bếp mới trong nhà bếp; một hành động có hiệu quả không c̣n chủ yếu tùy thuộc vào sự cộng tác giữa các quốc gia dân chủ có cùng một ư thức hệ. Thay vào đó, nó tùy thuộc vào sự hợp tác giữa một số quốc gia đông đảo hơn và đa dạng hơn. Hiện nay, Mỹ đang hướng về nhóm G-20 để tái quân b́nh nền kinh tế thế giới. Nhưng rất khó đạt được một sự đồng thuận giữa các quốc gia đang ở vào những giai đoạn phát triển khác nhau và đi theo những đường hướng điều hành kinh tế khác nhau. Những thách đố như nỗ lực chặn đứng t́nh trạng hâm nóng địa cầu hay cô lập Iran một cách có hiệu quả trong một cách thế tương tự sẽ tùy thuộc vào nỗ lực tập thể, nhưng khả năng này hoàn toàn nằm ngoài tầm vói.
Ba là, các nước dân chủ có thể hành động gọn nhẹ và đáp ứng nhu cầu của dân chúng khi các khối cử tri tại đó cảm thấy thỏa măn và đạt được một sự đồng thuận phát sinh từ những kỳ vọng lớn lao, nhưng các nước này sẽ trở nên lúng túng và chậm trệ khi người dân của họ đâm ra bi quan và chia rẽ. Các chính thể trong đó sự điều hành quốc gia tùy thuộc vào sự tham gia của dân chúng, sự kiểm soát và quân b́nh lẫn nhau giữa các định chế, và sự tranh đua giữa các nhóm lợi ích tỏ ra khôn khéo trong việc phân phối các quyền lợi hơn là việc chia đều sự hi sinh. Nhưng hi sinh chính là điều cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán kinh tế (economic solvency) – nhằm thoát ra mạng lưới nợ nần hiện nay. Sự kiện này buộc các chính phủ phương Tây phải đối diện với một viễn tượng khó nuốt là theo đuổi những chính sách có nguy cơ làm suy yếu khả năng thu hút cử tri.
MỘT VẤN ĐỀ, BA SẮC THÁI
Tại Mỹ, sự đối đầu giữa hai đảng đang làm tê liệt hệ thống chính trị. Nguyên nhân cơ bản là t́nh trạng thảm hại của nền kinh tế Mỹ. Từ năm 2008, nhiều người Mỹ đă mất nhà, mất công ăn việc làm, và tiền tiết kiệm hưu trí. Tất cả những thất bại này diễn ra tiếp theo sau nhiều thập niên liên tiếp đồng lương của giới trung lưu đứng yên một chỗ. Trong 10 năm qua, mức thu nhập b́nh quân hộ gia đ́nh tại Mỹ đă sút giảm trên 10%. Trong khi đó, t́nh trạng bất b́nh đẳng lợi tức đang tăng lên nhanh chóng, biến Hoa Kỳ thành nước có mức chênh lệch giàu nghèo gay gắt nhất trong thế giới công nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu tạo ra t́nh cảnh sa sút của người công nhân Mỹ là sự cạnh tranh toàn cầu; công ăn việc làm của họ nối đuôi nhau đi ra nước ngoài. Thêm vào đó, nhiều công ty có sức cạnh tranh nhất trong nền kinh tế thông tin điện tử (digital economy) không có cánh dù đủ rộng để bao che một số lượng công nhân to lớn. Công ty Facebook được định giá khoảng 70 tỉ USD, nhưng nó chỉ mướn khoảng 2.000 nhân viên; trong khi đó, công ty General Motors, được định giá khoảng 35 tỉ USD nhưng có đến 77.000 nhân viên tại Mỹ và 208.000 trên thế giới. Sự giàu có của các công ty có sức cạnh tranh hàng đầu của Mỹ hiện nay không nhỏ giọt xuống cho giới trung lưu nước này.
Những thực tế kinh tế khắc nghiệt đang làm sống lại những phân hóa mang tính đảng phái và ư thức hệ từ lâu đă im ắng nhờ những vận hội kinh tế phồn vinh của quốc gia trước đây. Trong những thập niên sau Thế chiến II, một sự phồn vinh được chia sẻ rộng răi đă thu hút các chính trị gia Dân chủ lẫn Cộng ḥa vào vị trí trung tâm của sinh hoạt chính trị. Nhưng ngày nay, Quốc hội Mỹ gần như thiếu hẳn những người chủ trương ôn ḥa ở trung tâm sân khấu chính trị và thiếu hẳn tinh thần cộng tác giữa hai chính đảng; phía Dân chủ vận động đ̣i hỏi thêm tiền để kích thích kinh tế, cứu trợ người thất nghiệp và tăng thuế người giàu, trong khi đó phía Cộng ḥa đ̣i hỏi triệt để cắt giảm kích cỡ và sự chi tiêu của chính phủ. Việc khoét rỗng trung tâm chính trị Mỹ đang diễn ra nhanh chóng là do việc phân chia lại các đơn vị bầu cử theo tinh thần đảng phái, do một môi trường truyền thông kích động nhiều hơn thông tin, và do một hệ thống vận động tài chính tranh cử băng hoại đang bị các nhóm lợi ích nắm giữ.
T́nh trạng phân cực chính trị do những nguyên nhân trên đang trói chặt nước Mỹ. Tổng thống Barack Obama đă nhận thức được tệ trạng này, đó là lư do tại sao ngay từ khi nhậm chức ông đă hứa sẽ trở thành một vị tổng thống “hậu-đảng phái” (a “postpartisan” president). Nhưng sự thất bại trong những nỗ lực tốt đẹp nhất của Obama nhằm hồi sinh nền kinh tế và phục hồi sự hợp tác lưỡng đảng đă phơi bày tính cách hệ thống của sự rối loạn kinh tế và chính trị tại quốc gia này. Gói kích thích kinh tế 787 tỉ USD của Obama, được thông qua không có sự hậu thuẫn của một dân biểu Cộng ḥa nào tại Hạ viện, đă không hà hơi tiếp sức được cho một nền kinh tế vốn bị băng hoại v́ nợ nần, v́ thiếu công ăn việc làm cho giai cấp trung lưu, và v́ cuộc suy thoái toàn cầu. Từ khi đảng Cộng ḥa giành được đa số tại Hạ viện vào năm 2010, sự đối đầu của hai đảng đă cản trở sự tiến bộ gần như trên mọi vấn đề. Các dự luật nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hoặc là không được thông qua hoặc là bị sửa đổi đến mức không gây được tác dụng đáng kể. Các dự luật để cải tổ vấn đề nhập cư và để hạn chế t́nh trạng hâm nóng địa cầu thậm chí không được đưa lên chương tŕnh nghị sự.
Charles A. Kupchan, Foreign Affairs, January/February 2012
Trần Ngọc Cư dịch
Trong bài phát biểu đọc tại Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 17-11-2000, Tổng thống Bill Clinton đă ví xu thế toàn cầu hóa với các lực thiên nhiên như gió và nước trong cách lư giải sau đây:
"Chúng ta có thể dồn gió cho căng buồm. Chúng ta có thể dùng nước để tạo ra năng lượng. Chúng ta có thể cố gắng chống lại băo và lũ lụt để bảo vệ nhân dân và tài sản. Nhưng chúng ta chẳng thể nào phủ nhận sự hiện hữu của gió và nước, hoặc t́m cách loại chúng. Xu hướng toàn cầu hoá cũng thế. Chúng ta có thể nỗ lực để tối đa hoá cái lợi của nó và giảm thiểu những rủi ro, nhưng chúng ta không thể làm ngơ trước xu hướng này và nó cũng sẽ không tự biến mất". (trích bản dịch của TTXVN).
Đúng vậy. Trong hai thập kỷ qua, tiến tŕnh toàn cầu hóa đă tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các nước đang phát triển vươn lên, v́ tiến tŕnh này đă trải rộng tổng số của cải trên thế giới và "hội nhập hàng tỉ công nhân lương thấp vào hệ thống kinh tế toàn cầu" (Kupchan). Cùng với xu thế toàn cầu hoá, sự ra đời của công nghệ thông tin đă trang bị một số nước đang phát triển "đôi hài vạn dặm" để vươn lên nhanh chóng, nổi bật nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Brazil, Hồi Quốc, Nam Phi... Tiến tŕnh toàn cầu hoá đă chuyển sức mạnh kinh tế từ trung tâm quyền lực truyền thống là các cường quốc phương Tây sang các vùng phụ biên của thế giới.
Trong bài tiểu luận sau đây, Giáo sư Charles A. Kupchan đă kết luận rằng tiến tŕnh toàn cầu hóa đă từng bước lấy mất quyền kiểm soát của các cường quốc phương Tây trên các vấn đề quốc tế, đồng thời gây ra t́nh trạng bất ổn và bất b́nh đẳng nghiêm trọng trong các xă hội dân chủ. Các chính phủ dân chủ hàng đầu phương Tây đang lâm vào một cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia.
Như vậy, làn sóng toàn cầu hóa đă tạo ra t́nh trạng bên lở - bên bồi. Có lẽ đă đến lúc chúng ta phải nh́n lại và đánh giá t́nh h́nh là người Việt Nam chúng ta đă thu hoạch những ǵ, và thu hoạch bao nhiêu trong vận hội mới do tiến tŕnh toàn cầu hóa mang lại, trước khả năng lịch sử có thể sang trang trong tương lai. V́ tiến tŕnh nào cũng có giai đoạn thoái trào của nó: có bắt đầu th́ phải có kết thúc. Điều đáng báo động là, đối diện với khủng hoảng kinh tế và chính trị trong nước, thậm chí các chính phủ dân chủ tự do tiên tiến nhất cũng phải tính đến các đường lối dân túy chủ nghĩa (populist approaches): nhúng tay vào việc hoạch định kinh tế và bảo hộ mậu dịch để phục vụ quyền lợi bức thiết của các khối cử tri rộng lớn, nếu các chính phủ này không muốn thấy sự lan rộng của các phong trào quần chúng nổi dậy, mà màn giáo đầu có thể là Phong trào Chiếm Phố Wall. Đây cũng là cảnh báo quan trọng mà học giả Kupchan đă đưa ra trong bài viết của ḿnh, và chúng ta như một quốc gia đang thụ hưởng thành quả của kinh tế toàn cầu thiết tưởng cũng nên suy nghĩ về viễn cảnh đó.
Bauxite Việt Nam
Một cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia đang trùm phủ lên các chế độ dân chủ tiên tiến nhất thế giới. Chẳng phải t́nh cờ mà Mỹ, châu Âu, và Nhật Bản đang đồng thời trải qua một t́nh trạng suy sụp chính trị; tiến tŕnh toàn cầu hóa đang mở ra một khoảng cách ngày càng lớn giữa những ǵ mà các khối cử tri đang đ̣i hỏi từ chính phủ của họ và những ǵ mà các chính phủ ấy có thể đáp ứng được. Sự so le giữa việc người dân ngày càng đ̣i hỏi một khả năng điều hành quốc gia tốt đẹp và việc chính phủ ngày càng bất lực trong việc cung ứng khả năng ấy là một trong những thử thách nghiêm trọng nhất của thế giới phương Tây hiện nay.
Cử tri tại các nước dân chủ công nghiệp hóa đang kỳ vọng chính phủ của họ giải quyết các vấn đề liên quan đến sự sa sút trong mức sống và t́nh trạng bất b́nh đẳng kinh tế ngày một gia tăng do sự luân lưu hàng hóa, dịch vụ, và vốn diễn ra ở mức độ chưa từng thấy trên toàn cầu. Họ cũng trông chờ các vị đại biểu của ḿnh giải quyết các vấn đề nổi cộm như việc nhập cư của người nước ngoài, t́nh trạng hâm nóng địa cầu, và các hệ quả thứ yếu khác của một thế giới toàn cầu hoá. Nhưng các chính phủ phương Tây không đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ ấy. Tiến tŕnh toàn cầu hóa đang lấy mất những lợi thế chính sách của những chính phủ này, đồng thời làm suy giảm sự thống trị truyền thống của phương Tây trên các vấn đề quốc tế, v́ tiến tŕnh này đă tạo điều kiện cho “phần c̣n lại của thế giới vươn lên”. Sự bất lực của các chính phủ dân chủ trong việc đáp ứng các nhu cầu của đại chúng do đó đă gia tăng sự bất măn của người dân, làm suy yếu thêm tính chính danh và hiệu năng của các định chế đại nghị.
Cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia trong phạm vi thế giới phương Tây đă diễn ra đặc biệt không đúng thời điểm. Toàn bộ hệ thống quốc tế đang kinh qua một biến chuyển tái tạo (tectonic change) do sự phân tán của cải và quyền lực đến những khu vực mới. Tiến tŕnh toàn cầu hóa lẽ ra phải làm lợi cho các xă hội tự do, những xă hội được cho là phù hợp nhất trong việc vận dụng tính nhanh nhạy và linh động của thị trường toàn cầu. Nhưng thay v́ vậy, nhiều khối quần chúng ở những nước dân chủ tiên tiến tại Bắc Mỹ, châu Âu, và Đông Á đang gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề – chính v́ các nền kinh tế của những nước này vừa hết hạn kỳ (không thể phát triển thêm được nữa) vừa mở ra với thế giới bên ngoài.
Trái lại, Brazil, Ấn độ, Hồi Quốc, và các nước dân chủ đang trỗi dậy khác hiện đang hưởng lợi nhờ sự chuyển dịch sinh lực kinh tế từ thế giới phát triển sang thế giới đang phát triển. Đặc biệt Trung Quốc (TQ) đang tỏ ra khôn khéo trong việc gặt hái những lợi ích của việc toàn cầu hóa trong khi hạn chế được những thiệt hại do nó mang lại – một phần không nhỏ là v́ TQ đă giữ quyền kiểm soát những công cụ chính sách mà các đối thủ tự do không chịu dùng đến. Chủ nghĩa tư bản nhà nước có những lợi thế rơ ràng, chí ít trong giai đoạn hiện nay. Do đó, không những chỉ có ưu thế vật chất của phương Tây đang bị đe dọa, mà sức hấp dẫn của phiên bản về tính hiện đại phương Tây cũng bị thử thách. Nếu các chế độ tự do dân chủ không thể phục hồi khả năng thanh toán các vấn đề chính trị và kinh tế hiện nay (political and economic solvency), th́ quyền lực chính trị và địa chính trị của Thế kỷ 21 rất có thể bị nhiều thế lực khác nhau giành giựt.
NHỮNG BẤT AN
Tiến tŕnh toàn cầu hóa đă trải rộng toàn bộ của cải của thế giới và giúp các nước đang phát triển đạt được sự phồn thịnh chưa từng có. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng đầu tư, mậu dịch, và các mạng lưới giao thông đă làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia (interdependence) và các hệ quả có tiềm năng ổn định t́nh h́nh. Xu thế toàn cầu hóa cũng buộc các quốc gia phi dân chủ phải mở cửa và v́ thế nó có thể thúc đẩy các cuộc nổi dậy của dân chúng. Nhưng đồng thời, việc toàn cầu hóa và nền kinh tế thông tin (digital economy) mà nó dựa vào là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng về khả năng điều hành quốc gia hiện nay tại phương Tây. Xu hướng giảm công nghiệp hóa (deindustrialization ) và đưa công việc ra nước ngoài (outsourcing), thương mại toàn cầu và bất quân b́nh ngân sách, vốn thặng dư và tín dụng và bong bóng đầu tư – những hậu quả này của xu thế toàn cầu hóa đang áp đặt lên xă hội phương Tây nhiều gian khổ và bất an mà nhiều thế hệ gần đây chưa từng trải qua. T́nh trạng khốn khổ phát xuất từ cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008 là đặc biệt gay gắt, nhưng những vấn đề cơ bản đă phát xuất sớm hơn nhiều. Trong phần lớn hai thập kỷ qua, đồng lương của giai cấp trung lưu tại các nước dân chủ hàng đầu trên thế giới đă bị giữ ở mức cố định, và t́nh trạng bất b́nh đẳng kinh tế đă và đang gia tăng gay gắt, đồng thời xu thế toàn cầu hóa đă tưởng thưởng hậu hĩ những người thành công và để lại đằng sau nhiều người thất bại.
Những xu thế này không phải là phó sản tạm thời của một chu kỳ thương nghiệp (the business cycle), chúng cũng không chủ yếu do việc chính phủ thiếu điều tiết trong khu vực tài chính, hay do việc giảm thuế giữa hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, hay do những chính sách sai lầm khác. Như các nhà phân tích kinh tế Daniel Alpert, Robert Kockett, và Nouriel Roubini đă tranh luận gần đây trong tác phẩm nghiên cứu của họ The Way Forward (Con đường phía trước), th́ đồng lương tŕ trệ và t́nh trạng bất b́nh đẳng ngày càng gia tăng là hậu quả của việc hội nhập hằng tỉ công nhân lương thấp (low-wage workers) vào nền kinh tế toàn cầu và việc gia tăng năng suất nhờ áp dụng công nghệ thông tin vào khu vực sản xuất. Những phát triển này đă đẩy năng suất toàn cầu cao hơn mức đ̣i hỏi quá xa, gây tổn thất nặng nề cho công nhân tại các nền kinh tế trả lương cao (high-wage economies) của thế giới công nghiệp. T́nh trạng xáo trộn và bất măn của nhiều khối cử tri phương Tây do việc toàn cầu hóa đă được khuếch đại bởi cường độ gia tăng của những mối đe doạ xuyên quốc gia, nạn khủng bố, việc nhập cư bất hợp pháp, và nạn xuống cấp môi trường – vốn là hệ quả của quá tŕnh toàn cầu hóa. Cộng thêm vào mối phức tạp xấu xa này là cuộc cách mạng thông tin; Internet và sự tràn ngập các phương tiện thông tin đại chúng h́nh như đang làm gia tăng t́nh trạng phân cực ư thức hệ hơn là bồi dưỡng các cuộc thảo luận có ư nghĩa.
Các cử tri đứng trước sức ép kinh tế, xáo trộn xă hội, và chia rẽ chính trị đang hướng về các vị đại diện dân cử để t́m sự giúp đỡ. Nhưng, xu thế toàn cầu hóa càng thúc đẩy đ̣i hỏi bức thiết là chính phủ phải đáp ứng nguyện vọng người dân bao nhiêu, th́ chính xu thế này cũng đảm bảo rằng sự đáp ứng đó là bất cập bấy nhiêu. Các chính phủ tại các nước công nghiệp phương Tây đă đi vào một giai đoạn thiếu hiệu quả rơ rệt, v́ ba lư do chủ yếu sau đây:
Một là, xu thế toàn cầu hóa đă biến những công cụ chính sách truyền thống từng được sử dụng bởi những nước tự do dân chủ thành những công cụ cùn cụt hơn trước nhiều. Washington thường xuyên vận dụng chính sách ngân sách và tiền tệ để điều chỉnh hoạt động kinh tế. Nhưng trước cuộc cạnh tranh toàn cầu và một núi nợ chưa từng thấy, nền kinh tế Mỹ có vẻ gần như trở thành miễn dịch đối với các lượng tiền chi tiêu để kích thích kinh tế hay đối với những động thái mới nhất của Quĩ Dự trữ Liên bang [Ngân hàng Trung ương] về lăi suất. Phạm vi rộng lớn và tốc độ nhanh chóng của các lưu lượng thương mại và tài chính toàn cầu có ư nghĩa rằng các quyết định và các biến chuyển ở những nơi khác là quan trọng hơn những quyết định của Washington – như thái độ ngoan cố của Bắc Kinh về đồng Nhân dân tệ, phản ứng chậm chạp của châu Âu đối với cuộc khủng hoảng tài chính tại đó, hành vi của giới đầu tư và các cơ quan thẩm định giá trị, hoặc sự gia tăng phẩm chất các kiểu xe mới nhất của hăng Hyundai. Các nước dân chủ châu Âu qua một thởi gian lâu dài từng dựa vào chính sách tiền tệ để thích nghi với các thay đổi bất thường trong hoạt động kinh tế. Nhưng họ đă từ bỏ lựa chọn ấy khi họ gia nhập khu vực đồng euro. Nhật Bản trong hai thập kỷ vừa qua đă thử nghiệm chiến lược này đến chiến lược khác để kích thích kinh tế, nhưng vô hiệu. Trong một thế giới toàn cầu hóa, giản dị là, các quốc gia dân chủ không c̣n khả năng kiểm soát các hậu quả như trước.
Hai là, nhiều vấn đề mà các khối cử tri phương Tây đang đ̣i hỏi chính phủ của ḿnh giải quyết cần đến một mức độ hợp tác quốc tế nào đó, nhưng đây là điều không thể thực hiện. Sự tản mác quyền lực từ phương Tây sang phần c̣n lại của thế giới có nghĩa là ngày nay có nhiều đầu bếp mới trong nhà bếp; một hành động có hiệu quả không c̣n chủ yếu tùy thuộc vào sự cộng tác giữa các quốc gia dân chủ có cùng một ư thức hệ. Thay vào đó, nó tùy thuộc vào sự hợp tác giữa một số quốc gia đông đảo hơn và đa dạng hơn. Hiện nay, Mỹ đang hướng về nhóm G-20 để tái quân b́nh nền kinh tế thế giới. Nhưng rất khó đạt được một sự đồng thuận giữa các quốc gia đang ở vào những giai đoạn phát triển khác nhau và đi theo những đường hướng điều hành kinh tế khác nhau. Những thách đố như nỗ lực chặn đứng t́nh trạng hâm nóng địa cầu hay cô lập Iran một cách có hiệu quả trong một cách thế tương tự sẽ tùy thuộc vào nỗ lực tập thể, nhưng khả năng này hoàn toàn nằm ngoài tầm vói.
Ba là, các nước dân chủ có thể hành động gọn nhẹ và đáp ứng nhu cầu của dân chúng khi các khối cử tri tại đó cảm thấy thỏa măn và đạt được một sự đồng thuận phát sinh từ những kỳ vọng lớn lao, nhưng các nước này sẽ trở nên lúng túng và chậm trệ khi người dân của họ đâm ra bi quan và chia rẽ. Các chính thể trong đó sự điều hành quốc gia tùy thuộc vào sự tham gia của dân chúng, sự kiểm soát và quân b́nh lẫn nhau giữa các định chế, và sự tranh đua giữa các nhóm lợi ích tỏ ra khôn khéo trong việc phân phối các quyền lợi hơn là việc chia đều sự hi sinh. Nhưng hi sinh chính là điều cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán kinh tế (economic solvency) – nhằm thoát ra mạng lưới nợ nần hiện nay. Sự kiện này buộc các chính phủ phương Tây phải đối diện với một viễn tượng khó nuốt là theo đuổi những chính sách có nguy cơ làm suy yếu khả năng thu hút cử tri.
MỘT VẤN ĐỀ, BA SẮC THÁI
Tại Mỹ, sự đối đầu giữa hai đảng đang làm tê liệt hệ thống chính trị. Nguyên nhân cơ bản là t́nh trạng thảm hại của nền kinh tế Mỹ. Từ năm 2008, nhiều người Mỹ đă mất nhà, mất công ăn việc làm, và tiền tiết kiệm hưu trí. Tất cả những thất bại này diễn ra tiếp theo sau nhiều thập niên liên tiếp đồng lương của giới trung lưu đứng yên một chỗ. Trong 10 năm qua, mức thu nhập b́nh quân hộ gia đ́nh tại Mỹ đă sút giảm trên 10%. Trong khi đó, t́nh trạng bất b́nh đẳng lợi tức đang tăng lên nhanh chóng, biến Hoa Kỳ thành nước có mức chênh lệch giàu nghèo gay gắt nhất trong thế giới công nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu tạo ra t́nh cảnh sa sút của người công nhân Mỹ là sự cạnh tranh toàn cầu; công ăn việc làm của họ nối đuôi nhau đi ra nước ngoài. Thêm vào đó, nhiều công ty có sức cạnh tranh nhất trong nền kinh tế thông tin điện tử (digital economy) không có cánh dù đủ rộng để bao che một số lượng công nhân to lớn. Công ty Facebook được định giá khoảng 70 tỉ USD, nhưng nó chỉ mướn khoảng 2.000 nhân viên; trong khi đó, công ty General Motors, được định giá khoảng 35 tỉ USD nhưng có đến 77.000 nhân viên tại Mỹ và 208.000 trên thế giới. Sự giàu có của các công ty có sức cạnh tranh hàng đầu của Mỹ hiện nay không nhỏ giọt xuống cho giới trung lưu nước này.
Những thực tế kinh tế khắc nghiệt đang làm sống lại những phân hóa mang tính đảng phái và ư thức hệ từ lâu đă im ắng nhờ những vận hội kinh tế phồn vinh của quốc gia trước đây. Trong những thập niên sau Thế chiến II, một sự phồn vinh được chia sẻ rộng răi đă thu hút các chính trị gia Dân chủ lẫn Cộng ḥa vào vị trí trung tâm của sinh hoạt chính trị. Nhưng ngày nay, Quốc hội Mỹ gần như thiếu hẳn những người chủ trương ôn ḥa ở trung tâm sân khấu chính trị và thiếu hẳn tinh thần cộng tác giữa hai chính đảng; phía Dân chủ vận động đ̣i hỏi thêm tiền để kích thích kinh tế, cứu trợ người thất nghiệp và tăng thuế người giàu, trong khi đó phía Cộng ḥa đ̣i hỏi triệt để cắt giảm kích cỡ và sự chi tiêu của chính phủ. Việc khoét rỗng trung tâm chính trị Mỹ đang diễn ra nhanh chóng là do việc phân chia lại các đơn vị bầu cử theo tinh thần đảng phái, do một môi trường truyền thông kích động nhiều hơn thông tin, và do một hệ thống vận động tài chính tranh cử băng hoại đang bị các nhóm lợi ích nắm giữ.
T́nh trạng phân cực chính trị do những nguyên nhân trên đang trói chặt nước Mỹ. Tổng thống Barack Obama đă nhận thức được tệ trạng này, đó là lư do tại sao ngay từ khi nhậm chức ông đă hứa sẽ trở thành một vị tổng thống “hậu-đảng phái” (a “postpartisan” president). Nhưng sự thất bại trong những nỗ lực tốt đẹp nhất của Obama nhằm hồi sinh nền kinh tế và phục hồi sự hợp tác lưỡng đảng đă phơi bày tính cách hệ thống của sự rối loạn kinh tế và chính trị tại quốc gia này. Gói kích thích kinh tế 787 tỉ USD của Obama, được thông qua không có sự hậu thuẫn của một dân biểu Cộng ḥa nào tại Hạ viện, đă không hà hơi tiếp sức được cho một nền kinh tế vốn bị băng hoại v́ nợ nần, v́ thiếu công ăn việc làm cho giai cấp trung lưu, và v́ cuộc suy thoái toàn cầu. Từ khi đảng Cộng ḥa giành được đa số tại Hạ viện vào năm 2010, sự đối đầu của hai đảng đă cản trở sự tiến bộ gần như trên mọi vấn đề. Các dự luật nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hoặc là không được thông qua hoặc là bị sửa đổi đến mức không gây được tác dụng đáng kể. Các dự luật để cải tổ vấn đề nhập cư và để hạn chế t́nh trạng hâm nóng địa cầu thậm chí không được đưa lên chương tŕnh nghị sự.