PDA

View Full Version : Mối t́nh đặc biệt nhất trong lịch sử trại giam (1&2)


vuitoichat
01-10-2012, 11:11
(Phunutoday) - Anh, một gă giang hồ cộm cán, từng là cựu tù trốn trại, đại ca của băi đào vàng và là tướng cướp trấn biên ải một thời dọc ngang. C̣n chị là cô giáo dạy giỏi của trường chuyên tỉnh Bắc Giang, chỉ v́ không giữ ḿnh được trước cám dỗ của đồng tiền mà sa chân vào chốn tù đày, tan nhà nát cửa. Họ gặp nhau trong trại giam, t́nh yêu nảy nở và từ những cánh thư đi thư lại, họ đă yêu nhau.

Đó là một mối t́nh kỳ lạ và đặc biệt nhất trong lịch sử trại giam. Đặc biệt hơn, cả hai anh chị cùng được đặc xá một ngày, trở về đời thường nên nghĩa phu thê, không chỉ hoàn lương mà gia đ́nh ấm áp của hai cựu phạm nhân này c̣n làm được nhiều hơn thế nữa chỉ với hai bàn tay trắng.

Về Thái Nguyên, nhắc đến Lê Văn Dũng, c̣n gọi là Dũng “K cơ” hay Dũng “đá quư”, từ giới thương buôn đến những đối tượng cộm cán ngoài xă hội không ai là không biết đến.

http://phunutoday.vn/dataimages/201201/original/images612393_a_1_443 .jpg
Vợ chồng anh Dũng, chị Oanh.

Vào tù ra trại, hết đại ca đến nghèo kiết xác và bây giờ là đại gia, dù bất cứ trong hoàn cảnh nào, Lê Văn Dũng vẫn luôn giữ được cái “chất” ngang tàng, phóng khoáng nhưng trọng chữ tín của ḿnh. Cuộc đời của Dũng “K cơ” ch́m nổi lênh đênh phận người, nhưng ít ai biết rằng trong những thăng trầm ấy, luôn có một người phụ nữ thầm lặng bên anh, cùng chia ngọt sẻ bùi.

Cũng không ai ngờ rằng, tổ ấm mà anh chị đang có, với 4 đứa con ruột là con anh con tôi và 2 đứa con nuôi lại được xây dựng trên nền tảng của hai người từng lầm lỡ. Gặp nhau và yêu nhau trong những ngày c̣n chung cơm tù áo số, chuyện t́nh của phạm nhân Lê Văn Dũng và phạm nhân Nguyễn Thị Kim Oanh có lẽ là mối t́nh kỳ lạ, độc đáo và đặc biệt nhất trong lịch sử nhà tù.

Quá khứ bất hảo của hai phạm nhân

Lê Văn Dũng sinh năm 1960 ở xă Lạc Sơn, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên trong một gia đ́nh gia giáo. Thế nhưng, với bản tính phóng khoáng, năm đang theo học lớp 8 trường làng, Dũng đă bỏ ngang chuyện học hành để theo chúng bạn vào đội thủy lợi xă.

Năm 18 tuổi, trong một lần mải chơi bị bố mắng, Dũng âm thầm viết đơn xin đi bộ đội và được chấp thuận, bố trí về Trung đoàn 338 chiến đấu. Vào chiến trường chưa được bao lâu, anh đã được cả trung đoàn biết đến và cảm phục bởi sự nhanh nhẹn, dũng cảm và sống hết mình vì đồng đội.

Thấy Dũng thông minh, lănh đạo đơn vị cho đi học lớp tiểu đội trưởng ở cấp sư đoàn và chưa đầy hai năm sau, năm 1980, anh được kết nạp Đảng, trở thành Đảng viên trẻ tuổi nhất trung đoàn khi đó. Tuy nhiên, cũng giai đoạn này, do suy nghĩ nông cạn, tuổi trẻ bồng bột đã dẫn anh đến hành động sai lầm và đây cũng chính là bước ngoặt cuộc đời của Lê Văn Dũng.

Được giao phụ trách nổ ḿn các công tŕnh nên Dũng thường xuyên là người tiếp nhận ḿn, thuốc nổ, trông coi khối tài sản đó cho đơn vị. Một vài lần, Dũng lấy thuốc nổ ra suối đánh cá để cải thiện bữa ăn cho anh em trong đơn vị.

Khi kiểm kê, khối lượng thuốc nổ hao hụt mất khoảng 200kg nên anh đă bị khai trừ ra khỏi Đảng và ra khỏi đơn vị. Những ngày ở nhà không có việc làm, Lê Văn Dũng đă phạm tiếp sai lầm khi làm giả các loại giấy để ra vào Viện 91 gần nhà ḿnh, bán lại kiếm tiền bất chính.

Vụ việc bị vỡ lở, năm 1986, Dũng bị bắt giữ, sau đó bị Ṭa án Quân khu I xử 18 tháng tù giam về tội làm giả giấy tờ. Măn hạn tù, mặc cảm thân phận nên anh đă khoác balô lên thị trấn huyện Na Ŕ, tỉnh Bắc Kạn mưu sinh.

Tại đây, nghe dân t́nh bàn tán có một bưởng trưởng trong băi vàng quê ở Thái Nguyên, Dũng liền lên xin việc và được dung nạp. V́ là chỗ đồng hương, anh nhanh chóng được tin tưởng giao toàn quyền cai quản băi vàng và để lấy số má, Dũng nuôi râu, uốn vểnh ngược, trông chẳng khác nào mặt người trong con bài “K cơ” của bộ tú lơ khơ nên biệt danh Dũng “K cơ” xuất hiện từ đó.

Chỉ một thời gian rất ngắn ở Bắc Kạn, tiếng tăm của Dũng “K cơ” nổi danh như cồn, được đồn khắp băi vàng, dân tứ chiếng trong đó nhiều kẻ là tù tội, giang hồ nô nức kéo về làm thuê cho Dũng, tôn anh làm bưởng trưởng.

Để đánh dấu chủ quyền, Dũng khoanh một vùng rộng lớn, cắm biển cảnh báo những kẻ có ư định lấn chiếm, đồng thời cho dựng nhiều công tŕnh có quy mô lâu dài, từ nhà ăn, nhà chỉ huy đến khu vui chơi giải trí. Lê Văn Dũng thưởng cho các phu vàng bằng thuốc phiện và gái đẹp.

Đầu tháng 5/1990, Dũng “K cơ” chán đất khách quê người nên dẫn quân về vùng vàng ở Thần Sa, huyện Vơ Nhai, tỉnh Thái Nguyên lập nghiệp nhưng chưa về đến nơi th́ đội quân của Dũng đă gây ra vụ cướp xe khách trắng trợn với số tài sản lên đến 64 triệu đồng nên Dũng bị bắt giữ.

Tuy nhiên, quá tŕnh chờ xét xử, Dũng đă bỏ trốn vào đêm 23 tháng Chạp âm lịch. Vùng đất hứa lần này Dũng chọn là Quảng Ninh để buôn chuyến. Được một thời gian ngắn th́ anh nhảy về vùng đất Lục Yên, tỉnh Yên Bái đào đá đỏ bởi thời kỳ này, đào đá đỏ đang trở thành nghề kiếm ra bội tiền.

Tại đây, Dũng hết đào đá, sang hành nghề xe ôm rồi bảo kê các xe chở hoa quả, chi phối mọi hoạt động buôn bán. Một lần nữa, tiếng tăm nổi như cồn, nhưng lần này, Dũng “K cơ” mới thấy cuộc sống đơn thương độc mă thật vô vị liền tính chuyện đầu thú.

Ngày 22/5/1994 Dũng “K cơ” quyết định về đầu thú tại Công an tỉnh Thái Nguyên, sau đó bị kết án 11 năm tù, thụ án tại trại Phú Sơn 4, tỉnh Thái Nguyên.

Tại đây, Dũng “K cơ” được đưa vào đội gạch, chuyên sản xuất gạch xây dựng trong trại. Dũng được cử làm đội trưởng đội gạch v́ vốn đă có kỹ thuật đun gạch từ hồi c̣n ở Trại giam T4. Đội gạch của Dũng “K cơ” đă lập được nhiều thành tích nên anh bắt đầu gây được sự chú ư trong Ban giám thị trại Phú Sơn 4.

Trong quăng thời gian này, bằng "tai tiếng như cồn" của ḿnh, Dũng “K cơ” c̣n giúp Ban giám thị ổn định t́nh h́nh trại viên, khám phá và ngăn chặn nhiều âm mưu kéo bè kéo cánh để chống đối, để trốn trại của các trại viên khác và đề xuất nhiều biện pháp quản lư mới, hiệu quả hơn.

Quá tŕnh phấn đấu đó được ghi nhận và sau hơn 1 năm cải tạo ở đội gạch, Dũng “K cơ” được chuyển lên làm thi đua. Từ đó, hằng ngày, Dũng “K cơ” được giao quản lư toàn bộ anh em trong phân trại của ḿnh, kiểm tra tất cả các pḥng giam khi can phạm đă đi lao động để xem xét các t́nh huống mất an toàn, nắm t́nh h́nh tâm lư trại viên cũng như quá tŕnh cải tạo của họ.

Nhờ có Dũng “K cơ” mà t́nh h́nh an ninh trật tự trong các buồng giam "gấu" luôn ổn định. Thế nhưng, như chia sẻ thật của anh Lê Văn Dũng bây giờ th́ ngày đó, có nằm mơ anh cũng không nghĩ rằng ḿnh sẽ t́m được người con gái của cuộc đời trong bốn bức tường uy nghi, lạnh lẽo ấy.

Ấy vậy mà, thật bất ngờ là chính tại đây, Dũng “K cơ” đă t́m được một nửa của ḿnh khi có mối t́nh kéo dài 2.000 ngày câm lặng với nữ phạm nhân xinh đẹp nguyên là một cô giáo trường chuyên triển vọng.

Cô giáo đó không ai khác chính là Nguyễn Thị Kim Oanh, vợ của anh Lê Văn Dũng hiện tại. Sinh ra trong một gia đ́nh giáo chức có 4 chị em, Kim Oanh được xem là người chị thông minh và cá tính nhất. Năm lớp 7, Kim Oanh đă đạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn miền Bắc.

Đến năm lớp 12, Kim Oanh lập lại thành tích khi đạt giải nh́ kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn quốc. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội II với tấm bằng loại giỏi, Kim Oanh được phân về dạy ở Trường Năng khiếu Bắc Giang.

Là một cô gái xinh đẹp có việc làm ổn định nên chị luôn là đối tượng của nhiều chàng trai săn đuổi nhưng chị lại yên phận làm vợ của một anh giáo nghèo, đàn hay hát giỏi. Năm thứ hai công tác, chi đă đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh, trong số 10 học sinh giỏi cấp tỉnh và giữ vững trong suốt 5 năm tiếp theo và chị được tin tưởng giao thêm nhiệm vụ làm thủ quỹ của trường.

Với bản chất tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người Kim Oanh đă mang số tiền 600 triệu của trường cho bạn vay đi buôn hàng Trung Quốc, người bạn buôn bán thua lỗ không trả được, chị vay mượn người thân và bạn bè trả lại được 400 triệu c̣n lại 200 triệu không có khả năng khắc phục hậu quả.

Vào những năm 1995 th́ đó là một món tiền khổng lồ. 8 năm tù giam là cái giá mà chị phải trả. Ngày chiếc xe bít bùng chở vào Trại giam Phú Sơn 4, cô giáo Nguyễn Thị Kim Oanh dựa người vào thành xe, xót xa khi nghĩ về những tháng ngày đứng trên bục giảng.

H́nh ảnh lũ học tṛ nghịch ngợm giờ chỉ c̣n trong kư ức của chị mà thôi. Ở một góc riêng, chị Oanh miên man nghĩ lại những ǵ đă xảy ra. Giờ có hối hận th́ cũng đă muộn.

(Kỳ 2: Chuyện t́nh yêu đẹp trong trại giam )
* Thúy Nhi – Thiên Thảo

vuitoichat
01-11-2012, 11:10
(Phunutoday) - Cuộc gặp định mệnh và những lá thư đặc biệt sau song sắt: Bước chân vô định về buồng giam nữ khu K2, Kim Oanh đờ đẫn như một cái bóng. Có mơ thấy ác mộng chị cũng không bao giờ nghĩ đến cảnh này.

http://phunutoday.vn/dataimages/201201/original/images612404_a4_443. jpg
Gia đ́nh nhỏ của vợ chồng anh Dũng, chị Oanh.

Bố mẹ Oanh vốn là cán bộ ngành giáo dục ở Phú Thọ. Suốt nhiều năm giảng dạy ở trường chuyên Bắc Giang, chị luôn là giáo viên dạy giỏi được nhiều học sinh yêu quư. Khi nhận án, biết tương lai ngày về quá mịt mờ, Oanh đă chủ động viết đơn xin ly hôn để giải phóng cho chồng.

“Khi đặt bút kư, tôi vô cùng đau khổ nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ rằng 8 năm là cả một thời gian quá dài để níu kéo hạnh phúc”. Chị Oanh chia sẻ. Và đó thực sự là bản án cay nghiệt nhất mà số phận đẩy đưa đến với chị.

Đêm đầu tiên ở Phú Sơn, nước mắt lưng tṛng, Oanh tỉ tê tṛ chuyện với người bạn tù bên cạnh để tạm quên những đắng cay của số phận: “8 năm ra th́ chẳng c̣n ǵ nữa, mọi thứ mất hết rồi”. Chị khóc nức nở. Người bạn tù lắc đầu:

“Chị đừng buồn. Nếu cần, tôi giới thiệu ông anh kết nghĩa cho. Anh ấy là một tay giang hồ khét tiếng, cũng đang có mặt ở đây”. Vốn con nhà lành, từ nhỏ đến lớn chỉ biết học hành nên nghe từ “giang hồ”, Oanh đă thấy khiếp vía.

Nhưng rồi, chẳng biết cô bạn “hót” thế nào mà đêm ấy, hai người “lập mưu” viết thư cho anh. Người đàn ông giang hồ đó chính là Lê Văn Dũng. Lúc bấy giờ, tổ 11 ở K4 của trại giam Phú Sơn 4 vô cùng hỗn loạn. Ban giám thị đă giao cho Lê Văn Dũng làm đội trưởng với hy vọng danh tiếng của anh có thể dẹp yên mọi chuyện.

Hôm đó, khi chiếc xe chở nhóm tù nhân có chị Oanh nhập trại, Dũng được phân công kiểm tra hành lư cá nhân. Thấy trong túi người nào cũng có thức ăn dở dang, anh ngạc nhiên hỏi nhóm phạm nhân mới th́ được biết đó là “quà” của cô giáo Oanh cho trong lúc giải lao. Cái tên “cô giáo Oanh” tốt tính nào đấy cũng đi vào cuộc đời Dũng “K cơ” một cách t́nh cờ nhưng đầy định mệnh như thế.

Một ngày sau khi đi làm về, Lê Văn Dũng nhận được lá thư với nội dung “Anh c̣n nhớ một em nào ở cạnh buồng anh không?”. Dũng lẩm nhẩm: “Ở chốn tù tội này sao mà nhớ hết được”.

Nhưng lá thư đă làm anh ṭ ṃ, cả đời ngang dọc chưa từng nhận được bất cứ sự quan tâm của cô gái lạ nào nên với bản tính thông minh, anh đă tham mưu với ban giám thị để lên kế hoạch sang khu nữ lấy cây về nhân giống nhưng kỳ thực, chuyến đi đấy anh muốn biết cô em ở cạnh buồng đă biên thư cho ḿnh là người như thế nào.

Bận ấy, vừa nh́n thấy Kim Oanh, Dũng bất chợt sững người. Linh tính mách bảo, cái cô giáo tốt tính hôm đám phạm nhân nhập trại nhắc đến với cô gái này là một. “Sao có người đàn bà xinh và tốt bụng vậy nhỉ”, anh tự hỏi mà cảm thấy như có một luồng điện chạy dọc sống lưng.

C̣n chị Oanh th́ chia sẻ: “Lúc đó, trông anh ấy đă lùn lại c̣n đen, được mỗi nụ cười khoe hàm răng trắng đều đặn. Vậy mà chẳng hiểu sao khi về buồng giam, nụ cười ấy lại ám ảnh tôi măi”.

Thế là từ đó, hai người thư đi thư lại cho nhau. Mỗi lá thư anh gửi đều thấm đẫm những kư ức về năm tháng tuổi thơ nơi vùng quê nghèo Phổ Yên, những ân hận về quá khứ oai hùng để gia đ́nh phải mang tiếng có con tù tội.

C̣n trong những lá thư của Oanh, chị cũng kể về con đường phạm tội của ḿnh, về cậu con trai với một t́nh thương vô bờ bến, những ân hận muộn màng và cả tủi phận khi nghĩ đến “ngày về xa lắc”. Mỗi lần nhận thư là một lần chị khóc.

Khát khao được tự do cứ lớn dần lên trong trái tim hai con người. Những sai lầm nông nổi dần ch́m vào quá khứ. Lá thư nào họ cũng dành một đoạn nói về tương lai với những dự định sau khi ra khỏi nhà tù.

Yêu nhau qua những cánh thư, qua những lời động viên vội vàng của thời gian gặp mặt hiếm hoi trong những buổi trại tổ chức các chương tŕnh giao lưu hay những hội nghị biểu dương những gương mặt phạm nhân điển h́nh, cả Dũng và Kim Oanh đều xác định t́nh yêu họ dành cho nhau là chân t́nh.

Dũng thổ lộ với người yêu rằng: “Nếu hôm nào không nhận được thư của Oanh là anh bồn chồn không thể làm ǵ được. Anh yêu Kim Oanh không chỉ ở nét chữ, lời văn mà qua những cánh thư, sự từng trải đă cho anh thấy được bóng dáng của người vợ hiền đảm đang sẽ cùng anh đi hết cuộc đời sau này”.

Trong trại, tất nhiên là không thể công khai yêu đương. Cả hai đă âm thầm không vượt quá giới hạn, mặc dù họ đều là phạm nhân tự giác, có thừa điều kiện để gần nhau. Nghĩ đến một sự gắn bó trọn đời sau khi ra trại, cả Oanh và Dũng đều quyết tâm chờ đợi. Họ viết cho nhau nhiều đến độ, khi ra tù phải nhờ gia đ́nh chuyển về một thùng lớn.

Lên núi xây “lâu đài t́nh ái”

Nhờ t́nh yêu, cả hai cùng có động lực để cải tạo tốt. Kết quả thật bất ngờ, họ được đặc xá cùng một ngày. Lúc nghe tin ấy, anh chị bàn nhau “không báo người nhà để được đi chơi thỏa thích”. Thế nhưng vừa bước ra cổng, Nguyễn Thị Kim Oanh đă “bị” chị gái chờ sẵn kéo lên xe đi luôn. Lê Văn Dũng đứng như trời trồng trước sân trại.

Sau mấy ngày bị gia đ́nh “lôi” về quê, chị thấy nhớ da diết người đàn ông đă cùng ḿnh đồng cam cộng khổ giữa chốn lao tù. Oanh bắt xe về nhà anh ở Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Khi thấy chị đứng trước cửa nhà, anh ngỡ ngàng hạnh phúc nhưng vẫn tỏ ra giận dỗi.

Chị ngậm ngùi: “Chúng ta đă hứa sẽ sống bên nhau cả đời mà”, nghe chị nói, anh bỗng thấy xót xa. Hồi lâu anh lên tiếng: “Bây giờ anh tính lên núi, nếu em muốn đi theo anh th́ chỉ có hai bàn tay trắng”, chị gật đầu.

Nhưng chị Oanh vốn là con nhà gia giáo, bố mẹ có chức sắc ở Sở Giáo dục nên khi biết con muốn gắn cuộc đời với một tên tướng cướp đă kịch liệt phản đối. Không nhận được sự ủng hộ, Oanh trốn nhà lên với Dũng, trong tay chỉ có ba triệu đồng do một người bạn tốt cho mượn, hai người đưa nhau lên Lục Yên làm lại cuộc đời.

Số tiền mang theo chỉ vừa đủ thuê căn nhà nhỏ, sắm một cái giường và xe đạp mini để đi lại. Tài sản gom góp lúc này c̣n lại là 15.000 đồng, chị Oanh bắt đầu những tháng ngày buôn bán nhỏ lẻ dưới chân núi đá để chồng yên tâm “lên núi t́m vận may”.

Lúc đầu công việc thuận lợi, bao nhiêu đá khai thác đều được đối tác Thái Lan mua hết. Nhưng được một thời gian th́ họ không nhập nữa, hàng chục bao đá nằm chỏng chơ nơi góc nhà, anh Dũng đă mua lại toàn bộ số đá ấy.

“Lúc đó tôi chỉ nghĩ cứu giúp mọi người chứ lời lăi ǵ cái đống đá vụn ấy”, anh kể lại. Dắt vợ về quê, Dũng lại xoay đủ nghề kiếm sống. Anh đi nhiều nơi, gặp nhiều người phụ nữ ăn vận trẻ trung, sang trọng mà thấy thương vợ quá.

“Một lần lôi mấy bao tải đá ra ngắm, anh bỗng hỏi vợ: “Ḿnh có sẵn đá, nếu anh mở xưởng làm tranh đá quư th́ sao nhỉ?”, chị Oanh gật đầu. Đến giờ chính bản thân anh chị cũng không tin rằng từ những viên đá ế ẩm ở Lục Yên năm xưa đă làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời họ.

Anh Dũng lao đi t́m thầy để học nghề làm tranh đá. Cuối năm 2006, công ty TNHH Dũng Tân ra đời, đánh dấu một hướng đi mới cho ḍng tranh đá quư của Việt Nam. Sau hơn 5 năm gây dựng, đến nay, Cty TNHH Dũng Tân của vợ chồng Dũng đă có hàng trăm lao động.

Tranh đá quư của Dũng Tân được đánh giá đạt được độ tinh xảo, có tính mỹ thuật cao, độc đáo. Đặc biệt, tranh được làm bằng đá tự nhiên 100%, c̣n khung tranh được làm bằng nhựa và gỗ Đồng Kỵ để tránh hư hỏng do sự thay đổi của thời tiết.

Tướng cướp khét tiếng năm xưa đă trở thành ông chủ doanh nghiệp. Nh́n cơ ngơi của anh chị hiện nay, người ta dường như quên hẳn một đại ca giang hồ để nhường chỗ cho một người đàn ông thành đạt với một gia đ́nh hạnh phúc.

Gia đ́nh hạnh phúc và thương hiệu “Dũng Tân”

Anh bảo: “Tôi có ba con riêng, Oanh có một đứa, chúng tôi nhận thêm 2 đứa con nuôi nữa, như thế là một gia đ́nh trọn vẹn rồi”. Anh chị cũng từng mong có con chung, nhưng hồi trẻ th́ phải bươn chải kiếm sống, măi sau này muốn sinh thêm lại quá tuổi.

Chị bảo rằng, điều đó chẳng quan trọng v́ với gia đ́nh anh chị bây giờ, 6 đứa con là một tài sản vô giá. Nỗ lực của Dũng đă được ghi nhận bằng nhiều danh hiệu bằng khen, giấy khen dành cho cá nhân cũng như thương hiệu tranh đá quí Dũng Tân.

Năm 2010, anh đă được vinh danh là Doanh nhân xuất sắc đất Việt. Không chỉ làm giàu cho bản thân, vợ chồng Dũng Oanh c̣n thường xuyên tham gia các hoạt động từ thiện, cho những gia đ́nh khó khăn trong vùng vay vốn làm ăn.

Tin vui mới nhất mà vợ chồng anh Dũng có được là họ đă chính thức lên chức ông bà nội được mấy tháng. Hiện nay, gia đ́nh anh chị đang sống ở thị xă Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Công việc chính là kinh doanh tranh đá quư với 7 cơ sở trong cả nước.

Ngoài làm tranh đá, anh c̣n kinh doanh cây cảnh. Tháng 8/2011, anh chị cũng đă khánh thành Trung tâm thương mại đá quư Dũng Tân với diện tích 11.000 m2 tại thị xă Sông Công.

Lư giải cho việc tại sao lại là Dũng Tân, anh Lê Văn Dũng tủm tỉm: “Tân là mới, là tân thời. Tôi muốn tất cả mọi người nh́n Dũng “K cơ” ngày nào bằng một con mắt khác bởi đơn giản tôi là một con người khác”. Bao nhiêu năm qua, anh chị đă đoạn tuyệt với lầm lỡ của quá khứ để vươn lên, trở thành điển h́nh không chỉ của tỉnh Thái Nguyên mà c̣n cả giới danh nhân trong cả nước.

Được biết, hôm khánh thành “Quỹ hoàn lương”, vợ chồng anh Lê Văn Dũng và chị Nguyễn Thị Kim Oanh cũng có mặt, họ chỉ muốn góp một chút sức lực bé mọn để giúp những người đă từng sa ngă, lầm lỡ có định hướng đúng đắn hơn vào tương lai.

C̣n câu chuyện t́nh yêu kỳ lạ của họ, đến nay không chỉ cán bộ và phạm nhân tại trại giam Phú Sơn 4 vẫn kể cho nhau nghe mà dường như thiên t́nh sử ấy đă được bam giám thị các trại giam trong cả nước kể lại để làm gương cho các phạm nhân khác cải tạo tốt để sớm về với xă hội.

(Thêm một thông tin khá thú vị là chuyện về phạm nhân Lê Văn Dũng mới đây đă được nhà văn Chu Lai chọn làm nguyên mẫu trong cuốn tiểu thuyết mới của ḿnh).

* Thúy Nhi – Thiên Thảo