vuitoichat
01-10-2012, 20:36
Về h́nh thức “công hàm Phạm Văn Đồng” chẳng khác ǵ một công án thiền, chỉ 121 chữ với nội dung đơn giản nhưng làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực, phân tích, bàn thảo và làm ngưng chảy ḍng nhận thức của mọi người mỗi khi nhắc đến.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2012/01/phamvandong.jpg
Huyền bí hơn nữa, “công hàm” là một tài liệu có thật và là cây gai trong mắt của những người quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhưng trong bao nhiêu lần “xác định chủ quyền Việt Nam trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa” giới lănh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không hề nhắc đến, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ. Sự im lặng phải có lư do, bởi v́ nếu chỉ là vấn đề biển đảo, lănh đạo đảng đă giải thích từ lâu rồi đâu cần đợi ai nhắc nhở.
Trước khi bàn đến “công hàm” mới, phải nhắc lại vài chuyện về “công hàm” cũ.
Ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, Quốc hội Trung Quốc ra tuyên bố hai điểm, điểm thứ nhất có liên hệ trực tiếp đến lănh thổ Việt Nam gồm Tây Sa tức Hoàng Sa và Nam Sa tức Trường Sa. Đáp lại lời tuyên bố này, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng CSVN đă gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai một công hàm “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc”.
Ngày 22 tháng Chín năm 1958, công hàm đă được đăng trên báo Nhân dân để toàn Đảng, toàn dân và toàn thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Những ai trước nay nghĩ rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam v́ đọc Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quư Đôn hay Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn v.v… không những là một sai lầm lịch sử mà c̣n đi được lại quyết định của Đảng. Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, hải quân Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa. Sau những trận hải chiến không cân sức, hải quân Việt Nam Cộng Ḥa triệt thoái khỏi Hoàng Sa. Từ đó, quần đảo thân yêu này nằm trong tay giặc.
Khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên tồi tệ sau năm 1975 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa được đưa ra. Đặc biệt sau chiến tranh biên giới lần thứ nhất năm 1979, Việt Nam ra bạch thư về chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo này với nhiều bằng chứng và tài liệu lịch sử Việt Nam cũng như quốc tế. Phản ứng về phía Trung Quốc, ngoài việc dẫn chứng các “tài liệu lịch sử” riêng của ḿnh, họ c̣n dựa vào công hàm Phạm Văn Đồng để cho rằng Việt Nam chính thức thừa nhận hai quần đảo là của Trung Quốc từ năm 1958. Trung Quốc c̣n cho biết ngay trong các sách giáo khoa địa lư bậc trung học trước năm 1975 tại miền bắc Việt Nam cũng đă xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, và ngoài ra, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm cũng lập lại điều này khi tiếp tham vụ ṭa đại sứ Trung Quốc Li Zhimin.
Một làn sóng công phẫn trong các tầng lớn nhân dân, trước năm 1975 chỉ phát xuất từ miền nam, đă bắt đầu dấy lên trong vài ngoài nước. Nhưng cùng lúc với những chê trách, giận dữ, kết án, nhiều quan điểm cũng được đưa ra như một cách mách nước cho đảng để tháo gỡ chiếc ṿng kim cô đảng tự đặt lên đầu từ năm 1958.
Cách gỡ rối thứ nhất cho rằng công hàm không có giá trị pháp lư v́ một quyết định vô cùng quan trọng như thế phải được quốc hội thông qua.
Cách gỡ rối thứ hai cho rằng Trung Quốc đă xuyên tạc nội dung công hàm v́ công hàm của Phạm Văn Đồng không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Cách gỡ rối thứ ba cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng “chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan”.
Cách gỡ rối thứ tư cho rằng theo nội dung hội nghị Geneva, Hoàng Sa, Trường Sa đă thuộc về phía Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia có chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lănh thổ trong khuôn khổ của hiệp định Geneva.
Cả bốn cách gỡ rối đều không vững.
Vấn đề có thông qua hay không thông qua, vi phạm hay không vi phạm hiến pháp Việt Nam là vấn đề riêng của Việt Nam. Thực tế quốc hội chỉ là cơ quan đóng dấu tại các quốc gia Cộng Sản đă được quốc tế thừa nhận. Tổng thống Gerald Ford kư thông cáo chung về thỏa hiệp SALT với Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev tại Vladivostok năm 1974 mặc dù thời điểm đó Chủ tịch Sô Viết Tối Cao là Nikolai Podgorny. Ngày 29 tháng Giêng năm 1979 Tổng thống Jimmy Carter ky thỏa hiệp b́nh thường hóa các quan hệ kỹ thuật, kinh tế, thương mại với Đặng Tiểu B́nh mặc dù chức vụ của họ Đặng chỉ là một phó thủ tướng. Dưới chế độ Cộng Sản, mọi văn bản quan trọng đều phải thông qua bộ chính trị, cơ quan quyền lực tối cao. Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ chính tri, đóng vai thủ tướng chính phủ nên phải kư công hàm. Thời điểm tháng 9 năm 1958, danh sách bộ chính trị được bầu ra trong Đại hội lần II năm 1951 cũng như được bổ túc trong những năm sau đó gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan.
Lư luận cho rằng Trung Quốc đă xuyên tạc nội dung công hàm Phạm Văn Đồng v́ công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa lại càng yếu hơn. Báo Đại Đoàn Kết phát hành 20/07/2011 viết: “Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lănh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đă nêu”. Căi như báo Đại Đoàn Kết là một cách tự kết án ḿnh v́ lời tuyên bố của phía Trung Quốc ghi rơ: “Điều lệ này áp dụng cho toàn lănh thổ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc” và Việt Nam phấn khởi đáp ứng bằng cách “ghi nhận và tán thành” toàn văn bản.
Lư luận cho rằng Việt Nam chỉ bày tỏ “thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đă phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của ḿnh ở Hoàng Sa và Trường Sa” do một nhóm 14 tác giả kư trong kiến nghị gởi đảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thuyết phục. Việt Nam tự đưa cổ vào tṛng chứ không phải Trung Quốc đặt tṛng vào cổ Việt Nam. Bản tuyên bố của phía Trung Quốc không chỉ nhằm xác định chủ quyền trên các đảo Đài Loan mà cả các nhóm đảo khác trong đó có Hoàng Sa (tên tiếng Tàu là Tây Sa) và Trường Sa (tên tiếng Tàu là Nam Sa), và công hàm của Phạm Văn Đồng cũng không chỉ nhắm vào Đài Loan mà ủng hộ toàn bộ lời quyết định về hải phận của Trung Quốc. Không một quan ṭa quốc tế nào tŕnh độ sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn bản một cách độc lập với nhau.
Lư luận khác nữa dựa vào hiệp định Geneva, tuyên cáo của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Ḥa đầu năm 1975 để bác bỏ giá trị pháp lư của công hàm Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những ǵ không thuộc lănh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Đây là lư luận có cở sở pháp lư nhất và có thể dùng để biện luận trong các hội nghị quốc tế, rất tiếc Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n hiện diện, về mặt công pháp quốc tế Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được xem như giữ quyền tài phán.
Một người Việt Nam nào có chút quan tâm về đất nước cũng có lần tự hỏi tại sao lănh đạo đảng ngày đó sơ sót đến mức như vậy?
Phải chăng v́ thời điểm đó “t́nh hữu nghị Việt – Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau” như ông Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu?
Phải chăng v́ thời điểm đó, đảng phải tập trung vào chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” như chính tác giả Phạm Văn Đồng phân trần?
Không, họ chẳng những không sơ sót, không chọn lựa khó khăn nhưng hành động bằng cả nhiệt t́nh. Trong quan điểm của đảng, công hàm Phạm Văn Đồng phản ảnh mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đảng CSVN. Việc chọn lựa đảng trên đảo, đặt lư tưởng Cộng Sản trên quyền lợi dân tộc là một chọn lựa tự nhiên, khách quan, hoàn toàn phù hợp với hướng phát triển cách mạng xă hội chủ nghĩa. Sự nô lệ vào tư tưởng Cộng Sản bao trùm lên mọi lănh vực đời sống của xă hội miền bắc.
Tưởng cũng cần nhắc lại, thời điểm năm 1958 c̣n là thời điểm nóng bỏng giữa Trung Quốc và Mỹ về vấn đề Đài Loan. Mỗi ngày, pháo binh Trung Quốc bắn hàng trăm viên đại bác vào hai đảo Kim Môn và Mă Tổ. Như Mao tiết lộ với Khrushchev sau này, y không có ư định “giải phóng” Đài Loan. Việc bắn phá Đài Loan chỉ là thái độ của kẻ “ăn không được phá cho hôi” để thỏa ḷng căm hận. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Quốc, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung Quốc đă biết pḥng xa. Việt Nam th́ không. Việt Nam cũng có nhiều cách để làm hả dạ đàn anh Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước và cách dễ nhất là viết, gạch đít, đóng khung, tô màu hai chữ Đài Loan trong văn bản. Giới lănh đạo đảng đă không làm điều đó.
Nửa thế kỷ trước, cả bộ chính trị lẫn trung ương đảng CSVN viễn du trong giấc mộng về một thiên đường quốc tế vô sản, trong đó con người mang quốc tịch Trung Hoa hay Việt Nam cũng không mấy khác nhau. Trung Quốc có chiếm Hoàng Sa cũng chẳng qua là giữ giùm cho Việt Nam, tốt hơn là để cho Mỹ chiếm. Nói ra như một chuyện cười nhưng đó là sự thật. Đảng Cộng Sản Việt Nam mang ơn đảng Cộng Sản Trung Quốc sâu đậm. Như hầu hết tài liệu quốc tế và cả tài liệu chinh thức của đảng, trong thập niên năm 1950, Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc không những súng đạn, lương thực, chỉ huy, hậu cần, lănh đạo mà cả tư tưởng và tinh thần. Điện văn của đảng Lao động Việt Nam gởi đảng Cộng Sản Trung Quốc sau hội nghị đảng lần thứ hai tháng 3 năm 1951 như Hoàng Văn Hoan nhắc lại trong hồi kư Giọt nước và biển cả: “Đảng Lao động Việt Nam nguyện noi gương anh dũng Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lănh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ”.
Lịch sử chống ngoại xâm đầy hy sinh xương máu của tổ tiên ta để có một nắm đất xây lên đó một mái nhà tranh che nắng che mưa gọi là Việt Nam đối với lănh đạo đảng là sản phẩm của tư duy phong kiến. Theo lư luận duy vật lịch sử, mỗi h́nh thái sản xuất có một thượng tầng kiến trúc chính trị, văn hóa, xă hội, nhân văn thích hợp, những ǵ của quá khứ đă thuộc về quá khứ. Trong quan điểm của đảng, các nỗ lực của tổ tiên ta nhằm ngăn chặn âm mưu đồng hóa của các triều đại Hán, Tấn, Tề, Lương, Tùy, Đường, Tống, Minh v.v. đều mang tính lịch sử, tính giai cấp chứ không phải tính văn hóa, tính truyền thống, xă hội xă hội chủ nghĩa sẽ tươi đẹp hơn, con người xă hội chủ nghĩa văn minh hơn và Trung Quốc sẽ đối xử với các nước nhỏ láng giềng b́nh đẳng trong tinh thần quốc tế vô sản chứ không phải bằng tinh thần đại Hán.
Mục đích căn bản của Ban nghiên cứu Lịch sử và địa lư Việt Nam được thành lập ngày 2 tháng 12 năm 1953 không phải nhằm tổng hợp các tài liệu lịch sử, địa lư Việt Nam mà để “Góp phần vào việc bồi dưỡng lư luận về chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng của Đảng. Góp phần nâng cao tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân ta. Phê phán những quan điểm, tư tưởng phản động sai lầm. Phát triển giao lưu văn hóa, khoa học với các nước.” Với các mục đích phản ảnh tinh thần vong thân nô lệ như thế, không lạ ǵ từ trung ương đảng cho đến các chi bộ hạ tầng, từ các đại học cho đến các trường trung học phổ thông, từ các nhà văn cho đến nhà thơ, không một tài liệu nào cho thấy có một tiếng nói khác gióng lên hay một nhà nghiên cứu nào nêu lên thắc mắc. Việc Trung Quốc quả quyết sách giáo khoa địa lư tại miền bắc cũng đă xác định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc không phải là không có căn cứ.
Trong Tuyển tập Mao Trạch Đông, họ Mao từng nhấn mạnh một cách hănh diện chín chục phần trăm người Trung Hoa là gốc Hán, tuy nhiên, trong mắt lănh đạo đảng CSVN, đám Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai không liên hệ huyết thống ǵ với đám Tô Định, Mă Viện, Lưu Long thời Tây Hán, một triều đại đă thực hiện các chính sách đồng hóa tổ tiên Việt Nam một cách tàn bạo đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu phải thốt lên trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, bản gỗ khắc năm Chính Ḥa 1697: “Xin trời v́ nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà.”
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” không phải là đề xác nhận giá trị pháp lư của mảnh giấy lộn đó. Không một người, tổ chức, đảng phái nào có quyền sang nhượng lănh thổ Việt Nam, nơi máu xương của bao nhiêu thế hệ đă thắm lên từng nắm đất. Quyết tâm bảo vệ đất nước qua lời thề Lũng Nhai, lời nguyền sông Hóa vẫn c̣n vang vọng. Thậm chí cho dù cái gọi là quốc hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ngày đó có thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Quốc đi nữa cũng chỉ là sự thừa nhận của một nhóm người, của một đảng độc tài cai trị dân tộc bằng nhà tù sân bắn chứ không phải đại diện cho tiếng nói của nhân dân Việt Nam.
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” để thế hệ trẻ Việt Nam thấy bộ mặt thật phía sau chiêu bài “giải phóng dân tộc” của các tầng lớp lănh đạo Cộng Sản Việt Nam. Đảng im lặng không phải v́ đảng chưa nghĩ đến bốn cách gỡ rối nêu trên mà chỉ v́ công hàm Phạm Văn Đồng là biểu tượng cho ư thức vong bản của một thế hệ lănh đạo Cộng Sản đang được thần tượng hóa tại Việt Nam. Đám mây đen Cộng Sản đă che khuất lương tri và nhân tính Việt Nam trong con người họ. Giới lănh đạo đảng không dám công khai tuyên bố hủy bỏ công hàm bởi v́ làm như thế là thừa nhận sự u mê, bản chất phản quốc, phản dân tộc của đảng. Họ không đủ can đảm để nguyền rùa chính ḿnh và ly khai với quá khứ của ḿnh.
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” để những ai nghĩ rằng giới lănh đạo CSVN đă nhận thấy hiểm họa Trung Quốc và chọn lựa đứng về phía Liên Xô để đưa đất nước tiến nhanh hơn trên đường công nghiệp hóa chưa hẳn là đúng. Theo Giáo Sư đại học Harvard Ezra F. Vogel trong tác phẩm Đặng Tiểu B́nh và sự biến đổi Trung Hoa (Deng Xiaoping and the Transformation of China), việc Đặng Tiểu B́nh đánh Việt Nam chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Sự xáo trộn chính trị nội bộ của Trung Quốc trong thời gian ngắn trước và sau khi Mao chết với các thành phần cực tả khuynh loát quyền hành và bản thân y bị thanh trừng, đă đẩy Việt Nam về phía Liên Xô. Họ Đặng tin rằng nếu y lănh đạo, với việc nắm vững chính trị Việt Nam và là người đă làm việc với hầu hết cấp lănh đạo đảng CSVN từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Việt Nam có thể vẫn c̣n trong ṿng kiểm soát của Trung Quốc mà không cần súng đạn. Nếu quả đúng và đă diễn ra như Đặng Tiểu B́nh phát biểu, Việt Nam hôm nay dù chưa thành một khu tự trị, cũng có thể đă là một nước nhỏ trong ṿng một nước lớn Trung Hoa.
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” để thấy cuộc chiến Việt Nam đă chấm dứt, đế quốc Mỹ ra đi, đế quốc Liên Xô sụp đổ nhưng nợ máu xương giữa hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam phải trả bằng thân xác của những người dân vô tội vẫn c̣n kéo dài cho đến ngày nay. Cuộc chiến biên giới năm 1979 là một thất bại quân sự nhục nhă cho Đặng Tiểu B́nh. Trung Quốc che giấu thất bại quân sự chua cay này bằng cách im lặng và ngăn chặn việc phổ biến dưới mọi h́nh thức các tài liệu có liên quan đến cuộc chiến. Zhou Xu Ke, một cựu chiến binh biên giới và tác giả của cuốc sách do ông tự in lấy Cuộc chiến cuối cùng trả lời hăng tin AFP: “Tại Trung Quốc, chính phủ tôn trọng lịch sử chẳng khác ǵ tôn trọng chó.” Về phía Việt Nam cũng chẳng tốt lành hơn. Máu của thanh niên Việt Nam đổ xuống để bảo vệ Lạng Sơn, Cao Bằng v.v… phát xuất từ ḷng yêu nước trong sáng và xứng đáng được kính trọng nhưng khi cuộc cờ tàn, chẳng c̣n ai nhắc nhở đến máu xương đó nữa. Sau cuộc chiến tranh biên giới, Đặng Tiểu B́nh đă thay đổi cấp lănh đạo, phương hướng phát triển kinh tế và mở rộng ảnh hưởng đến các nước tư bản tự do; trong lúc đó giới lănh đạo Cộng Sản Việt Nam tự cô lập trong chuyên chính vô sản, lạc hậu trong thời bao cấp, tem phiếu, thu mua để rồi đưa đất nước đến thảm trạng nghèo đói tận cùng suốt thập niên năm 1980.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, không c̣n ai che chỡ, giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lại lần nữa t́m về nương náu dưới chiếc bóng của đàn anh Trung Quốc. Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lư Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm Phạm Văn Đồng” khác. Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ phân tích một cách chi tiết các diễn tiến dẫn tới sự kiện Thành Đô trong hồi kư của ông ta. Không ai, ngoài Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh, biết chính xác nội dung hội nghị bí mật Thành Đô nhưng qua thái độ nhu nhược và phản ứng yếu hèn của giới lănh đạo CSVN trước các hành động chiếm đảo, bắn tàu, cắt dây cáp, giết người tàn nhẫn của hải quân Trung Quốc và mới đây bắt bớ hàng loạt người Việt gióng lên tiếng nói bất b́nh, cho thấy nội dung bán nước trong “công hàm Thành Đô” hẳn c̣n trầm trọng và chi tiết hơn cả “công hàm Phạm Văn Đồng”.
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2012/01/phamvandong.jpg
Huyền bí hơn nữa, “công hàm” là một tài liệu có thật và là cây gai trong mắt của những người quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhưng trong bao nhiêu lần “xác định chủ quyền Việt Nam trên các đảo Hoàng Sa, Trường Sa” giới lănh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam không hề nhắc đến, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ. Sự im lặng phải có lư do, bởi v́ nếu chỉ là vấn đề biển đảo, lănh đạo đảng đă giải thích từ lâu rồi đâu cần đợi ai nhắc nhở.
Trước khi bàn đến “công hàm” mới, phải nhắc lại vài chuyện về “công hàm” cũ.
Ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, Quốc hội Trung Quốc ra tuyên bố hai điểm, điểm thứ nhất có liên hệ trực tiếp đến lănh thổ Việt Nam gồm Tây Sa tức Hoàng Sa và Nam Sa tức Trường Sa. Đáp lại lời tuyên bố này, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Đồng, Thủ tướng CSVN đă gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai một công hàm “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc”.
Ngày 22 tháng Chín năm 1958, công hàm đă được đăng trên báo Nhân dân để toàn Đảng, toàn dân và toàn thế giới biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Những ai trước nay nghĩ rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam v́ đọc Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quư Đôn hay Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn v.v… không những là một sai lầm lịch sử mà c̣n đi được lại quyết định của Đảng. Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, hải quân Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa. Sau những trận hải chiến không cân sức, hải quân Việt Nam Cộng Ḥa triệt thoái khỏi Hoàng Sa. Từ đó, quần đảo thân yêu này nằm trong tay giặc.
Khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên tồi tệ sau năm 1975 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa được đưa ra. Đặc biệt sau chiến tranh biên giới lần thứ nhất năm 1979, Việt Nam ra bạch thư về chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo này với nhiều bằng chứng và tài liệu lịch sử Việt Nam cũng như quốc tế. Phản ứng về phía Trung Quốc, ngoài việc dẫn chứng các “tài liệu lịch sử” riêng của ḿnh, họ c̣n dựa vào công hàm Phạm Văn Đồng để cho rằng Việt Nam chính thức thừa nhận hai quần đảo là của Trung Quốc từ năm 1958. Trung Quốc c̣n cho biết ngay trong các sách giáo khoa địa lư bậc trung học trước năm 1975 tại miền bắc Việt Nam cũng đă xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, và ngoài ra, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung Văn Khiêm cũng lập lại điều này khi tiếp tham vụ ṭa đại sứ Trung Quốc Li Zhimin.
Một làn sóng công phẫn trong các tầng lớn nhân dân, trước năm 1975 chỉ phát xuất từ miền nam, đă bắt đầu dấy lên trong vài ngoài nước. Nhưng cùng lúc với những chê trách, giận dữ, kết án, nhiều quan điểm cũng được đưa ra như một cách mách nước cho đảng để tháo gỡ chiếc ṿng kim cô đảng tự đặt lên đầu từ năm 1958.
Cách gỡ rối thứ nhất cho rằng công hàm không có giá trị pháp lư v́ một quyết định vô cùng quan trọng như thế phải được quốc hội thông qua.
Cách gỡ rối thứ hai cho rằng Trung Quốc đă xuyên tạc nội dung công hàm v́ công hàm của Phạm Văn Đồng không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Cách gỡ rối thứ ba cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng “chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan”.
Cách gỡ rối thứ tư cho rằng theo nội dung hội nghị Geneva, Hoàng Sa, Trường Sa đă thuộc về phía Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia có chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lănh thổ trong khuôn khổ của hiệp định Geneva.
Cả bốn cách gỡ rối đều không vững.
Vấn đề có thông qua hay không thông qua, vi phạm hay không vi phạm hiến pháp Việt Nam là vấn đề riêng của Việt Nam. Thực tế quốc hội chỉ là cơ quan đóng dấu tại các quốc gia Cộng Sản đă được quốc tế thừa nhận. Tổng thống Gerald Ford kư thông cáo chung về thỏa hiệp SALT với Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev tại Vladivostok năm 1974 mặc dù thời điểm đó Chủ tịch Sô Viết Tối Cao là Nikolai Podgorny. Ngày 29 tháng Giêng năm 1979 Tổng thống Jimmy Carter ky thỏa hiệp b́nh thường hóa các quan hệ kỹ thuật, kinh tế, thương mại với Đặng Tiểu B́nh mặc dù chức vụ của họ Đặng chỉ là một phó thủ tướng. Dưới chế độ Cộng Sản, mọi văn bản quan trọng đều phải thông qua bộ chính trị, cơ quan quyền lực tối cao. Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ chính tri, đóng vai thủ tướng chính phủ nên phải kư công hàm. Thời điểm tháng 9 năm 1958, danh sách bộ chính trị được bầu ra trong Đại hội lần II năm 1951 cũng như được bổ túc trong những năm sau đó gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan.
Lư luận cho rằng Trung Quốc đă xuyên tạc nội dung công hàm Phạm Văn Đồng v́ công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa lại càng yếu hơn. Báo Đại Đoàn Kết phát hành 20/07/2011 viết: “Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lănh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đă nêu”. Căi như báo Đại Đoàn Kết là một cách tự kết án ḿnh v́ lời tuyên bố của phía Trung Quốc ghi rơ: “Điều lệ này áp dụng cho toàn lănh thổ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ (Penghu), quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc” và Việt Nam phấn khởi đáp ứng bằng cách “ghi nhận và tán thành” toàn văn bản.
Lư luận cho rằng Việt Nam chỉ bày tỏ “thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đă phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của ḿnh ở Hoàng Sa và Trường Sa” do một nhóm 14 tác giả kư trong kiến nghị gởi đảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thuyết phục. Việt Nam tự đưa cổ vào tṛng chứ không phải Trung Quốc đặt tṛng vào cổ Việt Nam. Bản tuyên bố của phía Trung Quốc không chỉ nhằm xác định chủ quyền trên các đảo Đài Loan mà cả các nhóm đảo khác trong đó có Hoàng Sa (tên tiếng Tàu là Tây Sa) và Trường Sa (tên tiếng Tàu là Nam Sa), và công hàm của Phạm Văn Đồng cũng không chỉ nhắm vào Đài Loan mà ủng hộ toàn bộ lời quyết định về hải phận của Trung Quốc. Không một quan ṭa quốc tế nào tŕnh độ sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn bản một cách độc lập với nhau.
Lư luận khác nữa dựa vào hiệp định Geneva, tuyên cáo của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Ḥa đầu năm 1975 để bác bỏ giá trị pháp lư của công hàm Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những ǵ không thuộc lănh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Đây là lư luận có cở sở pháp lư nhất và có thể dùng để biện luận trong các hội nghị quốc tế, rất tiếc Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n hiện diện, về mặt công pháp quốc tế Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được xem như giữ quyền tài phán.
Một người Việt Nam nào có chút quan tâm về đất nước cũng có lần tự hỏi tại sao lănh đạo đảng ngày đó sơ sót đến mức như vậy?
Phải chăng v́ thời điểm đó “t́nh hữu nghị Việt – Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau” như ông Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu?
Phải chăng v́ thời điểm đó, đảng phải tập trung vào chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” như chính tác giả Phạm Văn Đồng phân trần?
Không, họ chẳng những không sơ sót, không chọn lựa khó khăn nhưng hành động bằng cả nhiệt t́nh. Trong quan điểm của đảng, công hàm Phạm Văn Đồng phản ảnh mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của đảng CSVN. Việc chọn lựa đảng trên đảo, đặt lư tưởng Cộng Sản trên quyền lợi dân tộc là một chọn lựa tự nhiên, khách quan, hoàn toàn phù hợp với hướng phát triển cách mạng xă hội chủ nghĩa. Sự nô lệ vào tư tưởng Cộng Sản bao trùm lên mọi lănh vực đời sống của xă hội miền bắc.
Tưởng cũng cần nhắc lại, thời điểm năm 1958 c̣n là thời điểm nóng bỏng giữa Trung Quốc và Mỹ về vấn đề Đài Loan. Mỗi ngày, pháo binh Trung Quốc bắn hàng trăm viên đại bác vào hai đảo Kim Môn và Mă Tổ. Như Mao tiết lộ với Khrushchev sau này, y không có ư định “giải phóng” Đài Loan. Việc bắn phá Đài Loan chỉ là thái độ của kẻ “ăn không được phá cho hôi” để thỏa ḷng căm hận. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Quốc, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung Quốc đă biết pḥng xa. Việt Nam th́ không. Việt Nam cũng có nhiều cách để làm hả dạ đàn anh Trung Quốc mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước và cách dễ nhất là viết, gạch đít, đóng khung, tô màu hai chữ Đài Loan trong văn bản. Giới lănh đạo đảng đă không làm điều đó.
Nửa thế kỷ trước, cả bộ chính trị lẫn trung ương đảng CSVN viễn du trong giấc mộng về một thiên đường quốc tế vô sản, trong đó con người mang quốc tịch Trung Hoa hay Việt Nam cũng không mấy khác nhau. Trung Quốc có chiếm Hoàng Sa cũng chẳng qua là giữ giùm cho Việt Nam, tốt hơn là để cho Mỹ chiếm. Nói ra như một chuyện cười nhưng đó là sự thật. Đảng Cộng Sản Việt Nam mang ơn đảng Cộng Sản Trung Quốc sâu đậm. Như hầu hết tài liệu quốc tế và cả tài liệu chinh thức của đảng, trong thập niên năm 1950, Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc không những súng đạn, lương thực, chỉ huy, hậu cần, lănh đạo mà cả tư tưởng và tinh thần. Điện văn của đảng Lao động Việt Nam gởi đảng Cộng Sản Trung Quốc sau hội nghị đảng lần thứ hai tháng 3 năm 1951 như Hoàng Văn Hoan nhắc lại trong hồi kư Giọt nước và biển cả: “Đảng Lao động Việt Nam nguyện noi gương anh dũng Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lănh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ”.
Lịch sử chống ngoại xâm đầy hy sinh xương máu của tổ tiên ta để có một nắm đất xây lên đó một mái nhà tranh che nắng che mưa gọi là Việt Nam đối với lănh đạo đảng là sản phẩm của tư duy phong kiến. Theo lư luận duy vật lịch sử, mỗi h́nh thái sản xuất có một thượng tầng kiến trúc chính trị, văn hóa, xă hội, nhân văn thích hợp, những ǵ của quá khứ đă thuộc về quá khứ. Trong quan điểm của đảng, các nỗ lực của tổ tiên ta nhằm ngăn chặn âm mưu đồng hóa của các triều đại Hán, Tấn, Tề, Lương, Tùy, Đường, Tống, Minh v.v. đều mang tính lịch sử, tính giai cấp chứ không phải tính văn hóa, tính truyền thống, xă hội xă hội chủ nghĩa sẽ tươi đẹp hơn, con người xă hội chủ nghĩa văn minh hơn và Trung Quốc sẽ đối xử với các nước nhỏ láng giềng b́nh đẳng trong tinh thần quốc tế vô sản chứ không phải bằng tinh thần đại Hán.
Mục đích căn bản của Ban nghiên cứu Lịch sử và địa lư Việt Nam được thành lập ngày 2 tháng 12 năm 1953 không phải nhằm tổng hợp các tài liệu lịch sử, địa lư Việt Nam mà để “Góp phần vào việc bồi dưỡng lư luận về chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng của Đảng. Góp phần nâng cao tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân ta. Phê phán những quan điểm, tư tưởng phản động sai lầm. Phát triển giao lưu văn hóa, khoa học với các nước.” Với các mục đích phản ảnh tinh thần vong thân nô lệ như thế, không lạ ǵ từ trung ương đảng cho đến các chi bộ hạ tầng, từ các đại học cho đến các trường trung học phổ thông, từ các nhà văn cho đến nhà thơ, không một tài liệu nào cho thấy có một tiếng nói khác gióng lên hay một nhà nghiên cứu nào nêu lên thắc mắc. Việc Trung Quốc quả quyết sách giáo khoa địa lư tại miền bắc cũng đă xác định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc không phải là không có căn cứ.
Trong Tuyển tập Mao Trạch Đông, họ Mao từng nhấn mạnh một cách hănh diện chín chục phần trăm người Trung Hoa là gốc Hán, tuy nhiên, trong mắt lănh đạo đảng CSVN, đám Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai không liên hệ huyết thống ǵ với đám Tô Định, Mă Viện, Lưu Long thời Tây Hán, một triều đại đă thực hiện các chính sách đồng hóa tổ tiên Việt Nam một cách tàn bạo đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu phải thốt lên trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, bản gỗ khắc năm Chính Ḥa 1697: “Xin trời v́ nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà.”
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” không phải là đề xác nhận giá trị pháp lư của mảnh giấy lộn đó. Không một người, tổ chức, đảng phái nào có quyền sang nhượng lănh thổ Việt Nam, nơi máu xương của bao nhiêu thế hệ đă thắm lên từng nắm đất. Quyết tâm bảo vệ đất nước qua lời thề Lũng Nhai, lời nguyền sông Hóa vẫn c̣n vang vọng. Thậm chí cho dù cái gọi là quốc hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ngày đó có thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Quốc đi nữa cũng chỉ là sự thừa nhận của một nhóm người, của một đảng độc tài cai trị dân tộc bằng nhà tù sân bắn chứ không phải đại diện cho tiếng nói của nhân dân Việt Nam.
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” để thế hệ trẻ Việt Nam thấy bộ mặt thật phía sau chiêu bài “giải phóng dân tộc” của các tầng lớp lănh đạo Cộng Sản Việt Nam. Đảng im lặng không phải v́ đảng chưa nghĩ đến bốn cách gỡ rối nêu trên mà chỉ v́ công hàm Phạm Văn Đồng là biểu tượng cho ư thức vong bản của một thế hệ lănh đạo Cộng Sản đang được thần tượng hóa tại Việt Nam. Đám mây đen Cộng Sản đă che khuất lương tri và nhân tính Việt Nam trong con người họ. Giới lănh đạo đảng không dám công khai tuyên bố hủy bỏ công hàm bởi v́ làm như thế là thừa nhận sự u mê, bản chất phản quốc, phản dân tộc của đảng. Họ không đủ can đảm để nguyền rùa chính ḿnh và ly khai với quá khứ của ḿnh.
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” để những ai nghĩ rằng giới lănh đạo CSVN đă nhận thấy hiểm họa Trung Quốc và chọn lựa đứng về phía Liên Xô để đưa đất nước tiến nhanh hơn trên đường công nghiệp hóa chưa hẳn là đúng. Theo Giáo Sư đại học Harvard Ezra F. Vogel trong tác phẩm Đặng Tiểu B́nh và sự biến đổi Trung Hoa (Deng Xiaoping and the Transformation of China), việc Đặng Tiểu B́nh đánh Việt Nam chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Sự xáo trộn chính trị nội bộ của Trung Quốc trong thời gian ngắn trước và sau khi Mao chết với các thành phần cực tả khuynh loát quyền hành và bản thân y bị thanh trừng, đă đẩy Việt Nam về phía Liên Xô. Họ Đặng tin rằng nếu y lănh đạo, với việc nắm vững chính trị Việt Nam và là người đă làm việc với hầu hết cấp lănh đạo đảng CSVN từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Việt Nam có thể vẫn c̣n trong ṿng kiểm soát của Trung Quốc mà không cần súng đạn. Nếu quả đúng và đă diễn ra như Đặng Tiểu B́nh phát biểu, Việt Nam hôm nay dù chưa thành một khu tự trị, cũng có thể đă là một nước nhỏ trong ṿng một nước lớn Trung Hoa.
Khai quật “công hàm Phạm Văn Đồng” để thấy cuộc chiến Việt Nam đă chấm dứt, đế quốc Mỹ ra đi, đế quốc Liên Xô sụp đổ nhưng nợ máu xương giữa hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam phải trả bằng thân xác của những người dân vô tội vẫn c̣n kéo dài cho đến ngày nay. Cuộc chiến biên giới năm 1979 là một thất bại quân sự nhục nhă cho Đặng Tiểu B́nh. Trung Quốc che giấu thất bại quân sự chua cay này bằng cách im lặng và ngăn chặn việc phổ biến dưới mọi h́nh thức các tài liệu có liên quan đến cuộc chiến. Zhou Xu Ke, một cựu chiến binh biên giới và tác giả của cuốc sách do ông tự in lấy Cuộc chiến cuối cùng trả lời hăng tin AFP: “Tại Trung Quốc, chính phủ tôn trọng lịch sử chẳng khác ǵ tôn trọng chó.” Về phía Việt Nam cũng chẳng tốt lành hơn. Máu của thanh niên Việt Nam đổ xuống để bảo vệ Lạng Sơn, Cao Bằng v.v… phát xuất từ ḷng yêu nước trong sáng và xứng đáng được kính trọng nhưng khi cuộc cờ tàn, chẳng c̣n ai nhắc nhở đến máu xương đó nữa. Sau cuộc chiến tranh biên giới, Đặng Tiểu B́nh đă thay đổi cấp lănh đạo, phương hướng phát triển kinh tế và mở rộng ảnh hưởng đến các nước tư bản tự do; trong lúc đó giới lănh đạo Cộng Sản Việt Nam tự cô lập trong chuyên chính vô sản, lạc hậu trong thời bao cấp, tem phiếu, thu mua để rồi đưa đất nước đến thảm trạng nghèo đói tận cùng suốt thập niên năm 1980.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, không c̣n ai che chỡ, giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lại lần nữa t́m về nương náu dưới chiếc bóng của đàn anh Trung Quốc. Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lư Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm Phạm Văn Đồng” khác. Cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ phân tích một cách chi tiết các diễn tiến dẫn tới sự kiện Thành Đô trong hồi kư của ông ta. Không ai, ngoài Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh, biết chính xác nội dung hội nghị bí mật Thành Đô nhưng qua thái độ nhu nhược và phản ứng yếu hèn của giới lănh đạo CSVN trước các hành động chiếm đảo, bắn tàu, cắt dây cáp, giết người tàn nhẫn của hải quân Trung Quốc và mới đây bắt bớ hàng loạt người Việt gióng lên tiếng nói bất b́nh, cho thấy nội dung bán nước trong “công hàm Thành Đô” hẳn c̣n trầm trọng và chi tiết hơn cả “công hàm Phạm Văn Đồng”.