jojolotus
01-18-2012, 03:22
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân Hòn Đất đã đi vào lịch sử, nhưng những mẩu chuyện oai hùng về các chiến công, chiến sĩ chiến đấu quên mình để đổi lấy độc lập, tự do cho Hòn Đất được lưu truyền mãi. Trong đó, nữ liệt sĩ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phan Thị Ràng được xem là một biểu tượng về sự hy sinh, gan dạ, thủy chung, kiên cường của người chiến sĩ Cách mạng gây xúc động lòng người.
Đúng 50 năm trước, tại xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất – Kiên Giang, người con gái mang tên Phan Thị Ràng (Tư Phùng, nguyên mẫu chị Sứ trong tiểu thuyết “Hòn đất”) đã anh dũng hy sinh, thể hiện khí phách ngoan cường của người Cách mạng “…thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Thế nhưng, có khá nhiều chuyện về chị Sứ – Phan Thị Ràng chưa được nhiều người biết
Như bao người con gái Nam Bộ, chị Phan Thị Ràng khi lớn lên cũng dịu dàng, thật thà, chịu thương chịu khó.
Thế nhưng, lớn lên trong cảnh đất nước, quê hương bị quân thù giày xéo, lại mang trong mình dòng máu bất khuất của cha ông, chị Ràng đã cùng bao người yêu nước khác đi vào cuộc chiến đấu gian khổ và đã hi sinh một cách anh hùng.
http://phunutoday.vn/dataimages/201201/original/images618661_chi_su_ va_tieu_thuyet_hon_d at_phunutoday.vn_443 .jpg
Mộ chị Phan Thị Ràng
Sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước
Theo các nhà nghiên cứu, ông cố của cô Phan Thị Ràng là người “văn võ song toàn”, cho nên, ngoài việc truyền “bí kíp” cho con cháu mình ông còn được những người theo đạo Hiếu Nghĩa (họ đạo lớn tại Lương Phi, huyện Tri Tốn – An Giang bấy giờ) trọng dụng mời vào dạy võ cho bổn đạo.
Sau này, nhờ chuyên tâm tập luyện và hưởng được “gen” trội đặc biệt của cha, nên ông nội cô Ràng (tức ông Phan Ngọc Ký) tinh thông võ nghệ hơn người, ghét điều trái khoáy, khát khao diệt ác, trừ tà, thích giúp đỡ dân lành và mang lại sự bình yên cho quê hương, làng mạc.
Chính vì thế, năm 1945 khi làn sóng Cách mạng ào ạt đến Lương Phi, ông Ký gấp rút thành lập đội cảm tử qui tụ khoảng 30 thanh niên khỏe mạnh trong làng trang bị các vũ khí thô sơ như giáo, mác, gậy tầm vông để tham gia cướp chính quyền tại Xà Tón (Tri Tôn, An Giang) và dự lễ độc lập tại huyện.
Đội cảm tử chẳng ngại gian khó, luôn túc trực ngày đêm để mắt đến bọn trộm cướp, cờ bạc giữ gìn an ninh thôn xóm, làm cho dân tin dân quý; uy tín ông Ký từ đó được nâng lên. Vài tháng sau, ông được bí thư Huyện ủy chỉ định làm chủ tịch Mặt trận Việt Minh xã và tiếp tục phụ trách đội cảm tử.
Ông Ký có 6 người con, tất cả đều tiếp nối sự nghiệp của cha, đi làm Cách mạng. Cha cô Ràng là ông Phan Văn Ngọc, con trai trưởng của ông Ký. Do giặc biết ông Ngọc một lòng theo Cách mạng nên trong một trận ruồng bố Lương Phi, chúng quyết đuổi bắt, tra tấn dã man đến khi trả về, ông bệnh hậu, hai tháng sau qua đời.
Chúng tôi trở về An Giang với mong muốn tìm hiểu thân thế, gia quyến của cô Tư Ràng bởi lâu nay ít người có được thông tin trọn vẹn về cuộc đời thực của cô. Đa phần mọi người biết về cô thông qua hình tượng chị Sứ trong tiểu thuyết “Hòn Đất” của nhà văn Anh Đức hay một ít chi tiết về sự hy sinh anh dũng của cô được ghi lại trong lịch sử về các trận đánh ở Ba Hòn (Thổ Sơn, Hòn Đất).
Tại TP Long Xuyên, chúng tôi tìm đến nhà chú Phan Văn Mỳ (tức sáu Mỳ), em ruột và cũng là người thân sống gần gũi cô Phan Thị Ràng trong thời gian lâu nhất. Cô Ràng lớn hơn Sáu Mỳ 10 tuổi, đến năm chú Sáu Mỳ 15 tuổi, cô Ràng hy sinh nên chú vẫn nhớ nhiều kỷ niệm trong thời gian chung sống, trôi dạt tứ xứ với người chị thân yêu của mình.
“Nếu tính hết thì má tôi có đến 9 người con, nhưng do mất 3 người nên dồn thứ các con lại theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: Hai Tỏ, Ba Rõ, Tư Ràng, Năm Du, Sáu Mỳ và Út Bình Sơn. Má kể khi mang thai tôi được 7 tháng, ba tôi qua đời, chị Tư Ràng lúc đó mới 10 tuổi phải gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong gia đình và chăm sóc mẹ những ngày sanh nở”, chú Sáu Mỳ thuật lại lời của mẹ.
Khi ba mất, anh Hai Tỏ đã đi bộ đội, chị Ba Rõ lập gia đình, cô Tư Ràng mới 10 tuổi vừa phải trông em Du vừa chăm sóc mẹ vì bé Mỳ đang tuổi sơ sinh. Có lẽ hoàn cảnh éo le đã khiến cô Tư Ràng sớm giỏi giang, thông minh và lanh lợi hơn các bạn cùng trang lứa trong thôn xóm.
Cô Ong Thị Hưng (Chín Hưng, 76 tuổi), chị em bạn dì ruột, người thân thiết thơ ấu với cô Tư Ràng nhớ lại: “Lúc đó, tôi lớn hơn Ràng một tuổi nhưng nó khôn ngoan, nhanh nhẹn, ăn nói ngọt ngào có duyên, bất kể công việc gì nó làm cũng giỏi hơn hẳn tôi. Câu cá, bơi lội, kiếm củi, học may, học chữ… Ràng đều học rất nhanh và làm rất giỏi.
Đặc biệt, ở tuổi đó, con nít xóm tôi còn ăn chưa no lo chưa tới thì Ràng đã biết căm thù giặc”. Cô Chín Hưng bảo, lần nọ do mải mê hái rau, hai chị em lên tận núi Dài không hay, khi phát hiện ra quay về mặt trời sắp lặn; đến nhà hai chị em sững sờ khi thấy mấy căn nhà trong xóm bị giặt đốt cháy tàn rụi.
Cô Chín Hưng khóc mướt gọi mẹ, còn Tư Ràng nhảy xuống mương mò các vật dụng bọn giặc ném mà miệng luôn lẩm bẩm lớn lên nhất định sẽ tham gia đánh giặc để trả thù.
Người có 2 quê hương
Chị Phan Thị Ràng sinh tại Lương Phi (Tri Tôn, An Giang) nhưng lớn lên, tham gia Cách mạng, trưởng thành và hy sinh tại Hòn Đất nên gia quyến họ Phan xem nơi này là quê hương thứ hai của chị; ngược lại, người dân Hòn Đất luôn coi chị Ràng là người con gái thân yêu của Hòn Đất. Khi lớn lên, chú Sáu Mỳ có nghe mẹ kể lại:
Năm 1949, khi Mỳ mới 2 tuổi, tại quê nhà các phần tử quá kích trong đạo Hòa Hảo ráo riết tìm Việt Minh tiêu diệt, làm cho tình cảnh người dân Lương Phi ngày càng khốn đốn. Thấy vậy, cô Sáu Giúp (em ruột ông Phan Văn Ngọc) trở về Lương Phi dẫn Tư Ràng và Năm Du sang Campuchia để nuôi dạy, tiếp tục học chữ. Riêng Tư Ràng, cô Sáu khuyên học thêm nghề may để sau này kiếm tiền lo gia đình.
Tư Ràng không những học hành chăm chỉ mà còn tranh thủ nghe nói, giao tiếp, tìm hiểu về văn hóa người bản địa, do vậy, sau khi trở về cô nói thạo tiếng Khmer và múa Lâm Thôn rất giỏi. Đó là tiền đề giúp cô Tư Ràng làm tốt công tác thanh vận sau này.
“Mẹ tôi bảo, năm 1950, khi chị Tư Ràng từ Campuchia trở về, cả nhà chèo chống xuống đường Củi Giữa (Bình Sơn) lánh nạn. Trong vòng 3 năm (1950-1953), ban ngày, chị Tư Ràng làm không trừ một việc nặng nhọc nào từ nhổ bàng, giăng câu, đốn củi cho đến đào đất… miễn có tiền nuôi gia đình. Có lúc chị đi làm về bộ quần áo rách tả tơi, chân tay rớm máu, mẹ tôi thương chị mà khóc rấm rức.
Gian khổ vậy nhưng tối nào cũng vậy, chị hăng say tập hợp các thiếu niên cứu quốc tập tành ca, vũ. Thỉnh thoảng, chị còn cùng các má đi úy lạo các anh thương, bệnh binh tại Quân y viện gần kênh Tám Ngàn”, chú Sáu Mỳ bày tỏ sự khâm phục với chị mình.
Cuối năm 1953, Đảng ta chủ trương huy động sức người, sức của mở cuộc tiến công chiến lược đánh địch trên khắp chiến trường. Quán triệt chủ trương của Đảng, chi bộ các xã trong huyện Hòn Đất lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, đóng góp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, khuyến khích phong trào vận động thanh niên ra tiền tuyến giết giặc, cứu nước.
Lúc này, tại xã Bình Sơn, có một Công binh xưởng 18 của tỉnh Long Châu Hà chuyên nhận nguyên vật liệu súng đạn, vũ khí hư và giao dịch phân phối vũ khí đạn dược cho bộ đội các nơi. Bên cạnh đó, nơi đây trở thành hậu cần xay xát gạo và địa chỉ liên lạc tin cậy của Cách mạng.
Công binh xưởng này đặt cạnh nhà cô Tư Ràng nên hàng ngày ông Nguyễn Văn Hổ - Giám đốc xưởng tới lui, có cảm tình với mẹ cô Tư và chẳng lâu sau hai người được gia đình tác hợp.
Một năm sống cùng trong Công binh xưởng 18, cô Tư Ràng được cha dượng dạy làm sổ sách, giao dịch khách hàng, chuyên chở vũ khí và liên lạc với các xã khác. Mặt khác, cô còn được cha tác hợp, tổ chức đính hôn với anh Lê Vinh Quang, một thợ đúc kiêm phụ trách văn phòng quản trị của xưởng.
Ngày 20/7/1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Mặc dù Hiệp định đã được ký kết, nhưng cuộc đấu tranh gìn giữ thành quả Cách mạng và thống nhất nước nhà của nhân dân Miền nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Theo Hiệp định này, khu vực Hòn Đất, Hòn Me và Hòn Sóc là vùng tập kết 15 ngày của tỉnh Long Châu Hà, sau đó chuyển quân xuống Cà Mau, lên tàu tập kết ra Bắc.
Gia đình cô Tư Ràng cũng nằm trong diện tập kết, nhưng hai ngày trước khi lên đường, mẹ cô đổi ý ở lại vì bà đang bụng mang dạ chửa, sợ liên lụy đến anh em Cách mạng. Ong Hổ mang theo Hai Tỏ, Năm Du và để Sáu Mỳ cùng cô Tư Ràng ở lại cùng mẹ. Cảnh tiễn đưa của kẻ ở người đi đong đầy nước mắt, với lời hẹn, hai năm sau sẽ sum họp.
(Kỳ II: Chuyện ít biết về chị Sứ của tiểu thuyết “Hòn Đất” )
Lam Sơn
theo PNTD
Đúng 50 năm trước, tại xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất – Kiên Giang, người con gái mang tên Phan Thị Ràng (Tư Phùng, nguyên mẫu chị Sứ trong tiểu thuyết “Hòn đất”) đã anh dũng hy sinh, thể hiện khí phách ngoan cường của người Cách mạng “…thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Thế nhưng, có khá nhiều chuyện về chị Sứ – Phan Thị Ràng chưa được nhiều người biết
Như bao người con gái Nam Bộ, chị Phan Thị Ràng khi lớn lên cũng dịu dàng, thật thà, chịu thương chịu khó.
Thế nhưng, lớn lên trong cảnh đất nước, quê hương bị quân thù giày xéo, lại mang trong mình dòng máu bất khuất của cha ông, chị Ràng đã cùng bao người yêu nước khác đi vào cuộc chiến đấu gian khổ và đã hi sinh một cách anh hùng.
http://phunutoday.vn/dataimages/201201/original/images618661_chi_su_ va_tieu_thuyet_hon_d at_phunutoday.vn_443 .jpg
Mộ chị Phan Thị Ràng
Sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước
Theo các nhà nghiên cứu, ông cố của cô Phan Thị Ràng là người “văn võ song toàn”, cho nên, ngoài việc truyền “bí kíp” cho con cháu mình ông còn được những người theo đạo Hiếu Nghĩa (họ đạo lớn tại Lương Phi, huyện Tri Tốn – An Giang bấy giờ) trọng dụng mời vào dạy võ cho bổn đạo.
Sau này, nhờ chuyên tâm tập luyện và hưởng được “gen” trội đặc biệt của cha, nên ông nội cô Ràng (tức ông Phan Ngọc Ký) tinh thông võ nghệ hơn người, ghét điều trái khoáy, khát khao diệt ác, trừ tà, thích giúp đỡ dân lành và mang lại sự bình yên cho quê hương, làng mạc.
Chính vì thế, năm 1945 khi làn sóng Cách mạng ào ạt đến Lương Phi, ông Ký gấp rút thành lập đội cảm tử qui tụ khoảng 30 thanh niên khỏe mạnh trong làng trang bị các vũ khí thô sơ như giáo, mác, gậy tầm vông để tham gia cướp chính quyền tại Xà Tón (Tri Tôn, An Giang) và dự lễ độc lập tại huyện.
Đội cảm tử chẳng ngại gian khó, luôn túc trực ngày đêm để mắt đến bọn trộm cướp, cờ bạc giữ gìn an ninh thôn xóm, làm cho dân tin dân quý; uy tín ông Ký từ đó được nâng lên. Vài tháng sau, ông được bí thư Huyện ủy chỉ định làm chủ tịch Mặt trận Việt Minh xã và tiếp tục phụ trách đội cảm tử.
Ông Ký có 6 người con, tất cả đều tiếp nối sự nghiệp của cha, đi làm Cách mạng. Cha cô Ràng là ông Phan Văn Ngọc, con trai trưởng của ông Ký. Do giặc biết ông Ngọc một lòng theo Cách mạng nên trong một trận ruồng bố Lương Phi, chúng quyết đuổi bắt, tra tấn dã man đến khi trả về, ông bệnh hậu, hai tháng sau qua đời.
Chúng tôi trở về An Giang với mong muốn tìm hiểu thân thế, gia quyến của cô Tư Ràng bởi lâu nay ít người có được thông tin trọn vẹn về cuộc đời thực của cô. Đa phần mọi người biết về cô thông qua hình tượng chị Sứ trong tiểu thuyết “Hòn Đất” của nhà văn Anh Đức hay một ít chi tiết về sự hy sinh anh dũng của cô được ghi lại trong lịch sử về các trận đánh ở Ba Hòn (Thổ Sơn, Hòn Đất).
Tại TP Long Xuyên, chúng tôi tìm đến nhà chú Phan Văn Mỳ (tức sáu Mỳ), em ruột và cũng là người thân sống gần gũi cô Phan Thị Ràng trong thời gian lâu nhất. Cô Ràng lớn hơn Sáu Mỳ 10 tuổi, đến năm chú Sáu Mỳ 15 tuổi, cô Ràng hy sinh nên chú vẫn nhớ nhiều kỷ niệm trong thời gian chung sống, trôi dạt tứ xứ với người chị thân yêu của mình.
“Nếu tính hết thì má tôi có đến 9 người con, nhưng do mất 3 người nên dồn thứ các con lại theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: Hai Tỏ, Ba Rõ, Tư Ràng, Năm Du, Sáu Mỳ và Út Bình Sơn. Má kể khi mang thai tôi được 7 tháng, ba tôi qua đời, chị Tư Ràng lúc đó mới 10 tuổi phải gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong gia đình và chăm sóc mẹ những ngày sanh nở”, chú Sáu Mỳ thuật lại lời của mẹ.
Khi ba mất, anh Hai Tỏ đã đi bộ đội, chị Ba Rõ lập gia đình, cô Tư Ràng mới 10 tuổi vừa phải trông em Du vừa chăm sóc mẹ vì bé Mỳ đang tuổi sơ sinh. Có lẽ hoàn cảnh éo le đã khiến cô Tư Ràng sớm giỏi giang, thông minh và lanh lợi hơn các bạn cùng trang lứa trong thôn xóm.
Cô Ong Thị Hưng (Chín Hưng, 76 tuổi), chị em bạn dì ruột, người thân thiết thơ ấu với cô Tư Ràng nhớ lại: “Lúc đó, tôi lớn hơn Ràng một tuổi nhưng nó khôn ngoan, nhanh nhẹn, ăn nói ngọt ngào có duyên, bất kể công việc gì nó làm cũng giỏi hơn hẳn tôi. Câu cá, bơi lội, kiếm củi, học may, học chữ… Ràng đều học rất nhanh và làm rất giỏi.
Đặc biệt, ở tuổi đó, con nít xóm tôi còn ăn chưa no lo chưa tới thì Ràng đã biết căm thù giặc”. Cô Chín Hưng bảo, lần nọ do mải mê hái rau, hai chị em lên tận núi Dài không hay, khi phát hiện ra quay về mặt trời sắp lặn; đến nhà hai chị em sững sờ khi thấy mấy căn nhà trong xóm bị giặt đốt cháy tàn rụi.
Cô Chín Hưng khóc mướt gọi mẹ, còn Tư Ràng nhảy xuống mương mò các vật dụng bọn giặc ném mà miệng luôn lẩm bẩm lớn lên nhất định sẽ tham gia đánh giặc để trả thù.
Người có 2 quê hương
Chị Phan Thị Ràng sinh tại Lương Phi (Tri Tôn, An Giang) nhưng lớn lên, tham gia Cách mạng, trưởng thành và hy sinh tại Hòn Đất nên gia quyến họ Phan xem nơi này là quê hương thứ hai của chị; ngược lại, người dân Hòn Đất luôn coi chị Ràng là người con gái thân yêu của Hòn Đất. Khi lớn lên, chú Sáu Mỳ có nghe mẹ kể lại:
Năm 1949, khi Mỳ mới 2 tuổi, tại quê nhà các phần tử quá kích trong đạo Hòa Hảo ráo riết tìm Việt Minh tiêu diệt, làm cho tình cảnh người dân Lương Phi ngày càng khốn đốn. Thấy vậy, cô Sáu Giúp (em ruột ông Phan Văn Ngọc) trở về Lương Phi dẫn Tư Ràng và Năm Du sang Campuchia để nuôi dạy, tiếp tục học chữ. Riêng Tư Ràng, cô Sáu khuyên học thêm nghề may để sau này kiếm tiền lo gia đình.
Tư Ràng không những học hành chăm chỉ mà còn tranh thủ nghe nói, giao tiếp, tìm hiểu về văn hóa người bản địa, do vậy, sau khi trở về cô nói thạo tiếng Khmer và múa Lâm Thôn rất giỏi. Đó là tiền đề giúp cô Tư Ràng làm tốt công tác thanh vận sau này.
“Mẹ tôi bảo, năm 1950, khi chị Tư Ràng từ Campuchia trở về, cả nhà chèo chống xuống đường Củi Giữa (Bình Sơn) lánh nạn. Trong vòng 3 năm (1950-1953), ban ngày, chị Tư Ràng làm không trừ một việc nặng nhọc nào từ nhổ bàng, giăng câu, đốn củi cho đến đào đất… miễn có tiền nuôi gia đình. Có lúc chị đi làm về bộ quần áo rách tả tơi, chân tay rớm máu, mẹ tôi thương chị mà khóc rấm rức.
Gian khổ vậy nhưng tối nào cũng vậy, chị hăng say tập hợp các thiếu niên cứu quốc tập tành ca, vũ. Thỉnh thoảng, chị còn cùng các má đi úy lạo các anh thương, bệnh binh tại Quân y viện gần kênh Tám Ngàn”, chú Sáu Mỳ bày tỏ sự khâm phục với chị mình.
Cuối năm 1953, Đảng ta chủ trương huy động sức người, sức của mở cuộc tiến công chiến lược đánh địch trên khắp chiến trường. Quán triệt chủ trương của Đảng, chi bộ các xã trong huyện Hòn Đất lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, đóng góp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, khuyến khích phong trào vận động thanh niên ra tiền tuyến giết giặc, cứu nước.
Lúc này, tại xã Bình Sơn, có một Công binh xưởng 18 của tỉnh Long Châu Hà chuyên nhận nguyên vật liệu súng đạn, vũ khí hư và giao dịch phân phối vũ khí đạn dược cho bộ đội các nơi. Bên cạnh đó, nơi đây trở thành hậu cần xay xát gạo và địa chỉ liên lạc tin cậy của Cách mạng.
Công binh xưởng này đặt cạnh nhà cô Tư Ràng nên hàng ngày ông Nguyễn Văn Hổ - Giám đốc xưởng tới lui, có cảm tình với mẹ cô Tư và chẳng lâu sau hai người được gia đình tác hợp.
Một năm sống cùng trong Công binh xưởng 18, cô Tư Ràng được cha dượng dạy làm sổ sách, giao dịch khách hàng, chuyên chở vũ khí và liên lạc với các xã khác. Mặt khác, cô còn được cha tác hợp, tổ chức đính hôn với anh Lê Vinh Quang, một thợ đúc kiêm phụ trách văn phòng quản trị của xưởng.
Ngày 20/7/1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Mặc dù Hiệp định đã được ký kết, nhưng cuộc đấu tranh gìn giữ thành quả Cách mạng và thống nhất nước nhà của nhân dân Miền nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
Theo Hiệp định này, khu vực Hòn Đất, Hòn Me và Hòn Sóc là vùng tập kết 15 ngày của tỉnh Long Châu Hà, sau đó chuyển quân xuống Cà Mau, lên tàu tập kết ra Bắc.
Gia đình cô Tư Ràng cũng nằm trong diện tập kết, nhưng hai ngày trước khi lên đường, mẹ cô đổi ý ở lại vì bà đang bụng mang dạ chửa, sợ liên lụy đến anh em Cách mạng. Ong Hổ mang theo Hai Tỏ, Năm Du và để Sáu Mỳ cùng cô Tư Ràng ở lại cùng mẹ. Cảnh tiễn đưa của kẻ ở người đi đong đầy nước mắt, với lời hẹn, hai năm sau sẽ sum họp.
(Kỳ II: Chuyện ít biết về chị Sứ của tiểu thuyết “Hòn Đất” )
Lam Sơn
theo PNTD