PDA

View Full Version : Tín dụng đen: Người cho vay làm sao đ̣i tiền?


johnnydan9
01-22-2012, 14:52
Muốn thắng kiện trong vụ án đ̣i nợ, người cho vay có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh giao dịch vay.

Gần đây, dư luận cả nước xôn xao về hàng loạt vụ vỡ nợ “tín dụng đen” ở các tỉnh phía Bắc. Vậy, việc thu hồi nợ của người cho vay là vấn đề quan tâm bậc nhất. Nguoiduatin.vn xin đăng tải bài viết của tác giả Đăng Hà (Ṭa án nhân dân TP.HCM) từ Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM.


“Tín dụng đen” mà các phương tiện truyền thông đề cập hiểu nôm na là việc cho vay tiền giữa các cá nhân, tổ chức (không phải là tổ chức tín dụng) với mức lăi suất cao. Đây là một quan hệ pháp luật dân sự được các nhà lập pháp dự liệu và điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2005, “hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lăi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định”.



Về mức lăi suất, pháp luật cho phép các bên tự do thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lăi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố (Điều 476). Trong các vụ “tín dụng đen”, lăi suất các bên thỏa thuận rất cao, có thể lên đến 30-40%/tháng. Đây chính là động cơ thúc đẩy các chủ nợ cho vay.
Xuất phát từ kiến thức pháp luật hạn chế, không phải tất cả người cho vay đều biết rằng việc cho vay với lăi suất cao như vậy là vi phạm pháp luật. Hoặc nếu biết, họ vẫn cố t́nh vi phạm do hám lời. Cũng v́ tâm lư này, việc cho vay thường thực hiện dễ dàng bằng lời nói, giao nhận tiền không lập biên nhận. Sự lơi lỏng trong giao dịch một phần cũng do quá tin tưởng vào mối quan hệ thân thiết giữa người cho vay và người vay.
http://media.nguoiduatin.vn/public/data/images/canhkien/nam2012/t1/t105/nguoiduatin-vonotindungden.jpg
Một cảnh người cho vay vây nhà đ̣i nợ
Về mặt pháp lư, h́nh thức hợp đồng cho vay không phải là điều kiện có hiệu lực nên việc cho vay được thể hiện dưới nhiều h́nh thức như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể đều hợp pháp. Pháp luật cũng không yêu cầu hợp đồng này phải được bất kỳ cơ quan tổ chức nào chứng nhận.



Tuy nhiên, xét về mặt chứng cứ, h́nh thức văn bản được xem là thuyết phục hơn cả. Bên cạnh lăi suất cao trong “tín dụng đen”, khả năng thu hồi nợ của các chủ nợ là vấn đề quan tâm bậc nhất. Người vay không có khả năng thanh toán, khất nợ lần lữa, thậm chí là bỏ trốn. Dù người vay có bị xử lư về mặt h́nh sự hay không, quyền lợi của người cho vay chỉ được giải quyết trong quan hệ pháp luật dân sự.



Trong đó, nghĩa vụ chứng minh hoàn toàn thuộc về người cho vay. Khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 quy định rơ: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Ṭa án và chứng minh cho yêu cầu của ḿnh là có căn cứ và hợp pháp”.
V́ vậy, khi tham gia vào quan hệ cho vay, người cho vay cần lưu ư những điểm sau đây để bảo vệ quyền lợi của ḿnh một cách tốt nhất có thể:
- Lập hợp đồng vay với nội dung cụ thể rơ ràng bằng văn bản. Nên áp dụng biện pháp bảo đảm nợ vay như cầm cố, thế chấp, kư quỹ...
- Giao nhận tiền vay phải có biên nhận.
- Theo dơi và lập bảng danh sách từng kỳ thanh toán nợ. - Đến hạn trả nợ, yêu cầu bên vay cam kết thời hạn, phương thức trả nợ bằng văn bản.



- Khi tiến hành thủ tục khởi kiện tại ṭa án, cần t́m hiểu chính xác địa chỉ cư trú của người vay, nơi làm việc, nơi người vay có tài sản, đặc biệt là bất động sản để xác định thẩm quyền ṭa án và thi hành án thuận lợi. Trường hợp cần thiết có thể nhờ chính quyền địa phương hỗ trợ.
- Trường hợp người vay bị yêu cầu mở thủ tục phá sản tại ṭa án, cần thông báo cho ṭa án về khoản nợ vay của ḿnh kèm theo giấy đ̣i nợ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm cơ bản rút ra từ thực tiễn xét xử mà chúng tôi mong muốn chia sẻ cùng bạn đọc. Hăy suy nghĩ thấu đáo trước khi quyết định tham gia giao dịch cho vay. Và một khi đă tham gia giao dịch, cần thận trọng thu thập và lưu giữ những chứng cứ quan trọng để bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho ḿnh.
BTV