Log in

View Full Version : T́nh báo Mỹ chưa quên ‘quả đắng’ trong sự kiện Tết Mậu thân (Kỳ 1+2)


vuitoichat
01-29-2012, 08:52
Cộng đồng t́nh báo Mỹ vốn nổi tiếng là “phủ sóng” sâu rộng khắp thế giới, song cũng có những vụ việc mà các điệp viên Mỹ bất đắc dĩ trở thành kẻ ngoài cuộc, gây ra những hậu quả khôn lường cho chính sách đối ngoại của Nhà Trắng, điển h́nh là sự kiện Tết Mậu thân năm 1968 ở Việt Nam.

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân

Đêm 30 rạng ngày 31/1/1968, vào thời điểm Tết nguyên đán, quân dân Việt Nam tạo một cú sốc lớn cho Mỹ khi nhất tề tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở 64 thành phố, thị xă và nhiều vùng nông thôn rộng lớn, tiến công hàng loạt căn cứ quân sự, các sân bay, kho tàng, bến cảng, hệ thống giao thông, đánh trúng vào các sào huyệt cơ quan đầu năo quan trọng của ngụy quyền.

Đây là một thất bại thảm hại của quân đội Mỹ sau ba năm t́m – diệt bởi công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công được tiến hành rất chu đáo, công phu, tỉ mỉ và hoàn toàn bí mật.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/bichdiep/20120105/tg_5.1_My1.jpg
Quan trọng hơn, sự kiện này đă giáng đ̣n sét đánh, làm cho hơn một triệu quân Mỹ trở tay không kịp, kinh hoàng và lúng túng. Nó c̣n là đ̣n quyết định giáng vào chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, mở ra một cục diện mới, buộc đế quốc Mỹ phải thương lượng với Việt Nam ở Paris.

Sự kiện này gây chấn động lớn trên thế giới và là chủ đề gây nhiều bàn căi nhất. Nó c̣n có một vai tṛ và hệ quả rất to lớn trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

Ngay sau thất bại này, Chính phủ Mỹ đă tiến hành một cuộc điều tra, theo đó, giới chức và các chuyên gia t́nh báo Mỹ đều thừa nhận rằng, dù trước đó nhận được nhiều cảnh báo nhưng v́ không có được đầy đủ thông tin t́nh báo nên họ hoàn toàn bất ngờ trước quy mô cũng như thời điểm tiến công của quân dân Việt Nam.

Glenn E. Helm, người thủ thư của hải quân Mỹ thời gian đó th́ cho rằng, nguyên nhân thất bại ngoài kỹ năng thu thập thông tin c̣n do những trở ngại về ngôn ngữ và sự đánh giá sai lầm về chiến lược của quân dân Việt Nam.

Trận Trân Châu Cảng

Ở Mỹ, riêng cái tên Trân Châu Cảng cũng có nghĩa là sự bất ngờ, sự thất bại và sự gượng dậy từ đống tro tàn. 70 năm trôi qua, cuộc tấn công bất ngờ của quân Nhật nhằm vào lực lượng Mỹ đóng ở Hawaii vẫn là một trong những kư ức lịch sử mạnh mẽ nhất của t́nh báo Mỹ.

Ngày 7/12/1941, khi b́nh minh vừa ló rạng, các máy bay Nhật bất ngờ đánh úp hạm đội Thái B́nh Dương của Mỹ tại Trân Châu Cảng. Trong ṿng vài giờ, quân Nhật cũng đánh Philippines, Wake Island, Guam cùng các mục tiêu khác ở Thái B́nh Dương. Các căn cứ của Mỹ ở nơi nào cũng bị bất ngờ bởi chúng hoàn toàn không ở trong t́nh trạng sẵn sàng chiến đấu.

“Sự trơ trụi của các căn cứ của Mỹ ở Thái B́nh Dương tiếp tục khiến thế hệ sau này không thể hiểu nổi”, nhà báo, nhà lịch sử người Anh Max Hastings viết trong cuốn sách mới về chiến tranh thế giới thứ 2 của ông.

Hastings phủ nhận thông tin cho rằng, Tổng thống Franklin Roosevelt khi đó cho phép Trân Châu Cảng bị tấn công để Mỹ có “cớ” tham gia vào chiến tranh thế giới thứ 2.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/bichdiep/20120105/tg_5.1_My2.jpg
Một ủy ban của Quốc hội Mỹ đă tiến hành điều trần sâu rộng về thảm họa Trân Châu Cảng sau khi chiến tranh kết thúc. Trong số những kết luận được đưa ra có kết luận lực lượng Mỹ tập trung quá nhiều vào huấn luyện đến nỗi họ bị “mù” trước một cuộc tấn công có thể xảy ra và các chỉ huy quân đội Mỹ đă quá lo lắng về sự phá hoại đến nỗi họ “khóa” hết các kho đạn dược chống máy bay, thay v́ phân phát nó cho các điểm bắn.

Ngoài ra, hai nhà sử học Jonathan Parshall và J. Michael Wenger cho rằng, lư do Mỹ bị bất ngờ là các chỉ huy không hiểu được một cuộc chiến với sự tham gia của tàu sân bay phát triển nhanh tới mức nào.

Kế hoạch tấn công vào Trân Châu Cảng gồm sự tham gia của hàng trăm máy bay xuất phát từ nhiều tàu sân bay, rồi hợp thành một đàn ong tấn công. Đó là kỹ năng mà Mỹ không hề biết quân đội Nhật sở hữu. “Dường như t́nh báo Mỹ đă bỏ sót thông tin quan trọng này”, Messrs. Parshall và Wenger nhấn mạnh.

Trong khi đó, ông Roberta Wholstetter, tác giả của cuốn “Trân Châu Cảng: Cảnh báo và quyết định” cho rằng, một tuần trước khi xảy ra sự kiện này, một tùy viên quân sự ở Java đă cảnh báo Mỹ về cuộc tấn công của Nhật tại Hawaii, Philippines và Thái Lan.

“Chưa bao giờ chúng ta lại có một bức tranh thông tin t́nh báo tổng thể về kẻ thù như vậy”, ông Roberta Wholstetter cho hay.

Tuy nhiên, chuyên gia này khẳng định, bức tranh này đă không được đánh giá một cách đầy đủ và chính xác bởi không có sự phối hợp, chia sẻ thông tin t́nh báo một cách bài bản giữa các cơ quan trong Chính phủ.

Cuộc xâm nhập vịnh con lợn

Tháng 4/1961, những người Cuba lưu vong do CIA huấn luyện thực hiện cuộc xâm chiếm Cuba với sự hỗ trợ của quân đội Mỹ nhằm kích động một cuộc nổi dậy, theo đó, lật đổ Chính phủ Fidel Castro.

Tuy nhiên, Chính phủ Cuba đă biết trước về cuộc xâm lược này, thông qua mạng lưới gián điệp xâm nhập vào hàng ngũ huấn luyện quân đào ngũ ở Guatemala cũng như nguồn tin từ Liên Xô.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/bichdiep/20120105/tg_5.1_My3.jpg
Vào ngày 13/4/1961, đài phát thành Moscow phát đi một bản tin tiếng Anh tiên đoán một cuộc xâm lược "theo một kịch bản do CIA dàn dựng" sử dụng những "tên tội phạm" do CIA trả lương trong tuần tới. Quả thực, cuộc xâm lược diễn ra bốn ngày sau đó.

Tuy nhiên, kết quả của cuộc xâm chiếm không ǵ tệ hơn. Toàn bộ 1.500 quân Cuba lưu vong do Mỹ huấn luyện bài bản bị quân cách mạng Cuba tiêu diệt gọn. Phía Mỹ, ngoài những thiệt hại về vật chất, khí tài quân sự c̣n có bốn phi công bỏ mạng sáng ngày 19/4.

Không chỉ vậy, theo những tài liệu công bố sau đó, dù biết chắc là Liên Xô đă nhận có được thông tin chính xác về vụ xâm lược nhưng CIA vẫn không thông báo cho Tổng thống Kenedy để thay đổi kế hoạch.

Ngoài ra, chính CIA đă bắn nhầm vào các phi công phe ḿnh trong cuộc xâm nhập bất thành. Đặc vụ CIA bắn súng trường và súng máy vào máy bay B-26 do CIA cấp cho lực lượng xâm nhập người Cuba lưu vong, chúng được ngụy trang giống như máy bay quân sự của Cuba.

Sau khi vụ việc kết thúc, Giám đốc CIA Allen Dulles và các Phó giám đốc Charles P. Cabell và Richard Bissell đều bị cách chức. Nội bộ CIA trở nên xáo trộn nghiêm trọng do những báo cáo sai phạm từ vụ vịnh con lợn này.

Như vậy, một chiến dịch xâm lược của Mỹ nhằm mục đích duy nhất là lật đổ chính quyền của nhà cách mạng Cuba Fidel Castro cuối cùng biến thành thảm họa đối với chính những kẻ đă tạo ra nó bởi thất bại thảm hại trong việc giữ kín thông tin.

Trà My (tổng hợp)

vuitoichat
01-29-2012, 08:54
Cộng đồng t́nh báo Mỹ vốn nổi tiếng là “phủ sóng” sâu rộng khắp thế giới, song cũng có những vụ việc mà các điệp viên Mỹ bất đắc dĩ trở thành kẻ ngoài cuộc, gây ra những hậu quả khôn lường cho chính sách đối ngoại của Nhà Trắng, điển h́nh là sự kiện Tết Mậu thân năm 1968 ở Việt Nam.

Chiến tranh Yom Kippur

Chiều 6/10/1973, những tiếng cầu nguyện trong ngày lễ Sám hối Yom Kippur lặng lẽ và thiêng liêng nhất của năm tại Israel đột ngột bị ngắt quăng bởi tiếng c̣i hú dồn dập. Trên đường, xe tải, xe buưt và xe jeep quân sự phóng như điên. Toàn thể Israel bàng hoàng trước tin quân Ai Cập và Syria đă vượt biên giới.

T́nh thế quả thực vô cùng nguy ngập. Liên quân Arab tấn công đúng vào ngày lễ trọng khi mà toàn dân Do Thái hầu như ngừng làm việc. Tất cả các viên chức đều nghỉ và đến giáo đường cầu nguyện. Đài phát thanh im tiếng. Hệ thống giao thông liên lạc giảm hoạt động đến mức tối thiểu. An ninh quốc pḥng hết sức lơi lỏng.

Chiến sự nổ ra ở biên giới, Bộ Quốc pḥng Israel đột ngột sôi lên như đàn ong vỡ tổ. Tin từ mặt trận báo về tới tấp. Vào đúng 1h55' (giờ địa phương), Syria điều 1.400 xe tăng và hơn 1.000 khẩu pháo tấn công lên cao nguyên Golan. Trong khi đó ở đây, Israel chỉ để gần 180 xe tăng và 50 pháo. Chênh lệch lực lượng quá lớn (tỷ lệ 12:1, lợi thế nghiêng về Syria), cộng với sự bất ngờ khiến quân Do Thái phải lùi liên tục.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/bichdiep/20120105/tg_5.1_My4.jpg
Với người Do Thái, tháng 10/1973 thực sự là những ngày đen tối. Chiến tranh Yom Kippur xảy ra bất ngờ và khủng khiếp, đột ngột đe dọa an ninh, thậm chí cả sự sống c̣n của Israel. Mặc dù vào cuối cuộc xung đột, Tel Aviv lật ngược t́nh thế, kề dao vào cổ cả Cairo lẫn Damascus, nhưng điều này chẳng thể loại bỏ được nỗi choáng váng khiến cả đất nước Do Thái chao đảo rất lâu sau đó.

Người ta đặt câu hỏi: Làm thế nào mà một thảm họa như vậy lại xảy ra? Tại sao t́nh báo Israel - được đánh giá là mạnh nhất vùng - lại không “đánh hơi” được việc hai nước láng giềng chuẩn bị chiến tranh?

Theo tài liệu mà Trung tâm an ninh quốc gia của ĐH George Washington thu thập được, t́nh báo Israel bối rối vô cùng. Những thông tin họ thu được cực kỳ mâu thuẫn.

Ngay từ cuối tháng 4, mật vụ Do Thái có trong tay kế hoạch hành quân chi tiết của Cairo và Damascus. Israel biết rằng đội quân thứ 2 và thứ 3 của Ai Cập sẽ vượt kênh và thọc sâu 10 km vào bán đảo Sinai. Sau đó, bộ binh và thiết giáp sẽ đổ quân đánh úp đèo Mitla và Gidi - điểm giao chiến lược. Trong lúc đó, hải quân và lính dù tấn công Sharm el-Sheikh ở cực Nam Sinai..

Tuy nhiên, các chính trị gia Israel, sau nhiều lần bị báo động giả, không tin rằng người Arab có ư định gây chiến nghiêm túc. Cách suy đoán này của họ được củng cố hơn nữa nhờ những bản phân tích thông tin t́nh báo của Mỹ, trong đó khẳng định, cuộc tấn công sẽ không thể xảy ra.

Đến ngày 4/10, Israel bắt đầu chột dạ khi toàn bộ cố vấn Xô Viết và gia đ́nh của họ đột ngột rời Ai Cập và Syria mà không đưa ra lời giải thích chính thức nào, đồng thời máy bay vận tải chở nhiều vũ khí và quân trang lại nối đuôi nhau bay từ Moscow tới Damacus.

Tuy nhiên, các cơ quan t́nh báo Mỹ vẫn kiên quyết coi nhẹ khả năng xảy ra cuộc tấn công từ phía Arab. Thậm chí giới chức t́nh báo Washington khẳng định, những động thái này có thể là biểu hiện của một khủng hoảng trong quan hệ giữa các nước Arab và Liên Xô.

Hệ quả là Israel phải chịu nhiều thua thiệt sau cuộc xung đột. Lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh lập quốc, đất nước Do Thái thấy sự sống của ḿnh mong manh đến thế. Sự tự tin của Tel Aviv không c̣n mạnh mẽ như trước. Người dân đổ lỗi cho ngành t́nh báo không kịp thời nh́n ra kế hoạch tấn công của Ai Cập và Syria và dường như t́nh báo Mỹ cũng có nhiều trách nhiệm trong sai lầm đó.

Cách mạng Hồi giáo Iran

Theo Gary Sick, một thành viên của Hội đồng an ninh quốc gia dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, ngay trước thời điểm diễn ra cuộc cách mạng Hồi giáo Iran, t́nh báo Mỹ đă tiến hành thu thập thông tin trên khắp đất nước Hồi giáo, theo đó, nhận thấy quan điểm chống lại Vua Mohammed Reza Pahlavi cũng như Mỹ. Tuy nhiên, các báo cáo tin tức thu về lại đánh giá thấp khả năng lật đổ đức vua của phe đối lập Iran.

Tháng 8/1978, 6 tháng trước khi Vua Mohammed Reza Pahlavi do Mỹ hậu thuẫn buộc phải rời khỏi Iran, CIA vẫn quả quyết rằng “Iran không phải đang trong bối cảnh cách mạng hay thậm chí là tiền cách mạng”.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/bichdiep/20120105/tg_5.1_My5.jpg
Tuy nhiên, giờ th́ ai cũng hiểu rơ rằng, cuộc cách mạng Hồi giáo đă bùng nổ tại Iran ngay đầu năm 1979 và giáo chủ Iran Ayatollah Ruhollah Khomeini lên nắm quyền chính nhờ cuộc cách mạng này, khai sinh ra nước Cộng ḥa Hồi giáo Iran, đồng thời mở ra thời kỳ căng thẳng trong quan hệ giữa Tehran và Washington kéo dài đến ngày nay.

Theo giới phân tích, cuộc cách mạng tại Iran độc đáo ở sự ngạc nhiên mà nó tạo ra trên toàn thế giới. Nó thiếu rất nhiều động cơ thông thường của một cuộc cách mạng như thất bại trong một cuộc chiến tranh, một cuộc khủng hoảng kinh tế, cuộc nổi dậy của nông dân, hoặc sự bất măn của giới quân sự song lại tạo ra một sự thay đổi sâu sắc với tốc độ thần kỳ.

Cuộc tấn công Afghanistan của Liên Xô

Tháng 12/1979, cuộc tấn công của quân đội Liên Xô vào lănh thổ Afghanistan bắt đầu nổ ra gây cú sốc lớn đối với chính quyền của Tổng thống Mỹ Carter bởi trước đó, các cơ quan t́nh báo Mỹ quả quyết rằng, nỗi ám ảnh về một vũng lầy chiến tranh hao người tốn của sẽ ngăn cản Liên Xô chiếm đóng Afghanistan.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy những phân tích của t́nh báo Mỹ hoàn toàn không chính xác. Theo cựu quan chức CIA Douglas MacEachin, vài ngày sau khi quân đội Liên Xô bắt đầu tiến vào Afghanistan, trong nội bộ CIA lan truyền một câu nói đầy mỉa mai rằng “những phân tích của chúng ta là đúng nhưng Liên Xô vẫn ngoan cố hành động”.

Trong cuốn “CIA và những lần thất bại”, tác giả John Diamond cũng cho rằng, cơ quan này hoàn toàn không đoán trước được thời điểm diễn ra cuộc xâm chiếm của Liên Xô.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/bichdiep/20120105/tg_5.1_My6.jpg
Tuy nhiên, ông John cũng nhấn mạnh rằng, CIA đă cảnh báo chính quyền Carter về một số động thái quân sự của Liên Xô trong suốt năm 1979 nhưng chính giới lănh đạo đă coi nhẹ cảnh báo này.

Trà My (tổng hợp) (1300)