vuitoichat
02-09-2012, 16:51
Lời người dịch: Từ 2-5. 2. 2012 Hội nghị về An ninh lần thứ 48 vừa diễn ra ở München, Đức. Đây là một diễn đàn thường niên về an ninh và đối ngoại quan trọng, tập hợp sự tham dự của các đại diện cấp cao của chính quyền nhiều nước, các chuyên gia quốc tế hàng đầu và tổ chức quốc tế. Lần này ngoài các bộ trưởng ngoại giao, quốc pḥng của nước chủ nhà c̣n có sự tham dự của nguyên thủ một số nước và bộ trưởng ngoại giao, quốc pḥng của Mĩ, Nga, Pháp, Úc, Tổng thư kí NATO… Riêng Trung quốc cử Thứ trưởng Ngoại giao Trương Chí Quân.Không thấy đại diện của Hà nội.Một trọng tâm trong ḱ Hội thảo này là biến động ở Trung đông nên nhiều bộ trưởng các nước Ả rập cũng đă tham dự. Ngoài những cuộc hội thảo khoa học, các hoạt động hành lang đa chiều trong Hội nghị được lưu ư đặc biệt, trong đó có những cuộc trao đổi không chính thức về các vấn đề các bên quan tâm.
Điều cần để ư là, mặc dầu vấn đề tranh chấp biển Đông không là đề tài thảo luận chính thức, nhưng bên trong và ngoài hội nghị vấn đề này trở thành một điểm nóng tranh căi, đặc biệt từ khi TT Mĩ Obama đưa ra Chủ thuyết châu Á-Thái b́nh dương trong thời gần đây, theo đó Mĩ sẽ đặt ưu tiên cho chính sách đối ngoại an ninh ở châu Á.
Cũng đúng vào dịp Hội nghị về An ninh này tờ Süddeutsche Zeitung, một nhật báo lớn và có uy tín hàng đầu ở Đức, đă phổ biến hai bài của hai chuyên gia hàng đầu về đối ngoại và an ninh của Mĩ và Trung quốc (xem phần sau). Một sự t́nh cờ mang nhiều ư nghĩa nhưng không ngạc nhiên là, cả hai chuyên gia này đi từ quyền lợi quốc gia của mỗi nước, nhưng đều đi tới một nhận định chung là, vấn đề tranh chấp biển Đông đang trở thành điểm cực nóng trong bang giao Trung-Mĩ và châu Á-Thái b́nh dương và nó c̣n có thể kéo dài trong vài thập kỉ.
VN đang nằm lọt vào trung tâm tranh giành của Trung-Mĩ. Làm sao bảo vệ hữu hiệu quyền lợichính đáng của VN?VN đứng ở đâu?Chọn lập trường nào?Đứng về phía nào? Đứng chung với ai? Những câu hỏi nóng bỏng và rất bức xúc này về phía đại đa số nhân dân đă có thái độ rất dứt khoát, nhưng trong khi ấy vẫn chưa thấy câu trả lời rơ ràng và dứt khoát từ phía đảng cầm quyền.
Để trả lời các câu hỏi trên th́ phải biết rơ: Giữa Trung quốc và Hoa ḱ nước nào đang chiếm đóng nhiều đảo trên biển Đông của VN, ngăn cản VN thăm ḍ đầu khí và cấm đoán cũng như đối xử tàn ác với hàng ngàn ngư dân VN trong các năm qua?
Trong các cuộc thăm viếng của lănh đạo hai nước, phía Trung quốc thường khuyên VN phải nghĩ đến “đại cục”,tức quyền lợi chung, để từ đó đánh lạc hướng đấu tranh và ngăn cản những đ̣i hỏi chính đáng của VN, đồng thời đe doạ VN không được chọn đồng minh thích hợp để có thể bảo vệ hữu hiệu quyền lợi đất nước. Nội hàm “đại cục” mà Bắc kinh muốn nói tới chính là hai nước cùng theo chế độ Cộng sản.Bắc kinh t́m cách thuyết phục và răn đe Hà nội là, hăy để họ “mượn” biển Đông để mở đường tiến xuống phía Nam và Hà nội sẽ được “trả lăi”! Nhưng thực ra đây chỉ là bề ngoài, v́ từ lâu các chủ trương và chính sách của Bắc kinh chỉ nhắm mục đích duy nhất là quyền lợi quốc gia ích kỉ và cực đoan để thực hiện giấc mộng sớm trở thành siêu cường tân đế quốc trong Thế kỉ 21.
Cho nên ngôn ngữ đường mật của nhóm cầm đầu Bắc kinh hiện nay cũng giống như cách du thuyết của nhiều triều đại phong kiến Trung quốc trước đây.Dưới đời nhà Nguyên, chính Thoát Hoan năm 1283 đem 50 vạn quân sang đánh VN, nhưng lại giả vờ mượn đường qua VN để chiếm Chiêm thành. Nhưng khi ấy vua Trần Nhân Tông thông minh đă thấy ư đồ đen tối này nên dứt khoát từ chối và quyết dựa vào dân đánh thắng đoàn quân xâm lược.
Nhưng cho tới nay những người đứng đầu CSVN vẫn chưa dám có thái độ dứt khoát rơ ràng với Bắc kinh. Ngay cả chuyến thăm Trung quốccủa Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10 và chuyến đi Hà nội của Tập Cận B́nh tháng 12. 2011 ngôn ngữ “đại cục” vẫn được Bắc kinh thuyết giảng và đe doạ! Chính v́ thế, Bộ trưởng Quốc pḥng Phùng Quang Thanh đă ra tuyên bố bốn không, trong đó không muốn quốc tế hoá biển Đông mà chỉ giải quyết song phương với Trung quốc. C̣n Thứ trưởng Quốc pḥng Nguyễn Chí Vịnh đă cúi đầu tại Bắc kinh nhận chỉ thị cấm nhân dân VN, đi đầu là thanh niên và Trí thức, biểu t́nh chống các hành động xâm lấn ngang ngược của Trung quốc.
Trong khi ấy, những ngườicó quyền lực ở Hà nội lại không đứng về phía nhân dân, mà lại đang chống lại nhân dân. Nhiều phụ nữ, thanh niên, trí thức yêu nước và cả những đảng viên tiến bộ biết tự trọng đứng lên tố cáo các hành động xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh đều bị đàn áp, thậm chí c̣n bị giam cầm!
Dưới đây là bản lược dịch hai bài của hai chuyên gia Mĩ và Trung quốc liên quan tới viễn tượng cuộc tranh chấp biển Đông trên tờ Süddeutsche Zeitung ngày 5.2.2012.
Nguồn tiếng Đức
http://www.sueddeutsche.de/thema/M%C3%BCnchner_Sicher heitskonferenz
http://www.americanacademy. de/sites/default/files/upload/MSC%202012.pdf
Ghi chú: Các phần trong [….] là bổ túc của người dịch.
____________________ ____________
Trở về lại sân sau
Tác giả David Shambaugh
Mĩ có liên hệ lâu đời với châu Á. Nay Trung quốc (TQ) đang trỗi dậy, cho nên Mĩ tăng cường hoạt động ở đây và được nhiều nước trong khu vực hưởng ứng.
Nhiều bài b́nh luận trong thời gian gần đây đă chú tâm tới chiến lược của Mĩ ở Á châu, đặc biệt sau khi TT Obama đă thăm khu vực này vào tháng 11.2011 và công bố chiến lược quân sự mới và lâu dài [ở Á châu]. Đáng chú ư là,TQ đă không yên tâm và phản ứng lo ngại rằng,sự chiếu cố mới của Mĩ tới Á châu có thể nhằm mục tiêu ngăn cản sự trỗi dậy của TQ.
Cùng lúc đó có một số đồng minh ở Âu châu trong Nato [Khối pḥng thủ Bắc đại Tây dương] lo lắng cho rằng, sự chọn lựa ưu tiên mới của Mĩ là trên lưng của họ.
Đúng là Hoa ḱ đang tập trung ngoại giao, thương mại và an ninh ở Á châu và đang gia tăng phương tiện vào mục tiêu này. Chính phủ Obama là chính phủ đầu tiên đă xếp Á châu vào ưu tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao và an ninh toàn cầu[của Mĩ]. Đây là điều mới đối với Mĩ, v́ từ trước tới nay Mĩ chỉ đặt trọng tâm lớn nhất vào quan hệ liên Đại tây dương [ư nói giữa Mĩ và Tây Âu] và Trung đông. Cũng đúng nữa là, chiến lược mới [ở Á châu] là cách trả lời cho việc tối tân hoá quân sự của TQ cũng như cách“ngoại giaokẻ cả” của Bắc kinh. Nhiều đồng minh của Mĩ và nhiều nước khác đang lo ngại về những yêu sách lănh thổ rất vô lư của TQ ở biển phía Đông và biển Nam TQ cũng như việc tăng cường tuần tra trên biển của TQ.Cho nên các quốc gia này chào đón các cố gắng của Wahington và cũng đ̣i hỏi một chính sách như vậy đểquân b́nh chống lại thái độ tự cao của Bắc kinh.
Nhưng một sự thực là, chúng ta [Mĩ] đangchỉ chuyển dịch một phần chứ không toàn diện. Mĩ đă can dự sâu vào Á châu từ lâu –từ nhiều thập kỉ qua, hay đúng ra là từ nhiều thế kỉ. Ít nhất là từ thế kỉ 19 Mĩ đă là một cường quốc Thái b́nh dương và do yếu tố địa lí, chủng tộc và thương mại nên Hoa ḱ vẫn là quốc gia châu Á-Thái b́nh dương. Điều này được minh chứng qua ba lănh vực chính về vai tṛ của Mĩ trong khu vực là kinh tế, ngoại giao và an ninh.
Từ lâu Á châu đă trở thành đối tác kinh tế quan trọng nhất của Mĩ. Từ 1977 Á châu đă vượt qua Âu châu để trở thành bạn hàng thương mại quan trọng nhất của Mĩ. Hiện nay Mĩ đang giao thương với Á châu nhiều hơn gấp hai lần với Âu châu. TQ và Nhật là đối tác thương mại thứ hai và ba của Mĩ. Á châu cũng là thị trường xuất cảng lớn nhất của Mĩ, 10 trong số 20 nước tiêu thụ hàng Mĩ lớn nhất cũng nằm ở đây. Khoảng 1/3 ngoại thương của Mĩ là với Á châu.Năm 2010 tổng số xuất cảng của Mĩ trong khu vực Thái b́nh dương lên tới 320 tỉ USD. Riêng mức xuất cảng của TQ vào Mĩ trong 10 năm qua đă gia tăng 468%.
Mặt trái của việc này dĩ nhiên là việc thâm thủng mậu dịch rất lớn của Mĩ với khu vực –nhất là với TQ (273 tỉ USD trong năm 2010).Nhưng các quan hệ kinh tế và thương mại của Mĩ trong khu vực châu Á –Thái b́nh dương vẫn tiếp diễn sâu hơn. Các hiệp định tự do thương mại song phương và viễn tượng của Hiệp định đối tác xuyên Thái b́nh dương (TPP) sẽ ràng buộc Mĩ chặt chẽ hơn với các đối tác kinh tế trong khu vực.
Về vấn đề ngoại giao, như đă nói, chính phủ Obama đă đặt Á châu là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại.Từ khi cầm quyền chính phủ này đă t́m cách cải thiện liên hệ song phương với hầu hết các nước trong khu vực. Đại diện cấp cao của chính phủ Mĩ đă đi thăm nhiều nước mà từ lâu Mĩ đă sao nhăng, như Tân tây lan, Nam dương và Phi luật tân, trong đó kể cả Myanmar (Birma). Tại đây chính phủ Obama đă chuyển từ chính sách cô lập sang tiếp cận. Các cường quốc khu vực như Ấn độ và TQ cũng được chú ư ngoại giao nhiều hơn của Mĩ. Không có nước nào được chính phủ và xă hội Mĩ quan tâm như Cộng hoà Nhân dân TQ.Điều này phản ảnh là Mĩ và TQ mỗi năm có trên 60 cuộc đối thoại chính thức.Quan hệ toàn diện và sâu sắc cũng diễn ra ưu tiên với Ấn độ.
Chúng ta cũng c̣n thấy, Mĩ tăng cường liên hệ ngoại giao đa phương trong khu vực. Qua việc kí kết và tham gia các hiệp định thân hữu và hợp tác với Asean, nên nay Mĩ trở thành thành viên toàn vẹn trong các Hội nghị Thượng đỉnhĐông Á của Asean.Các liên hệ cấp chính phủ và các cấp không chính thức của Washington với khu vực cũng gia tăng.Từ khi cầm quyền, TT Obama tới thăm khu vực này ít nhất mỗi năm một lần. Trong đó bao gồm chuyến tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần đầu tiên của một TT Mĩ, cũng như cuôc gặp các thủ lănh Asean, việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Apec lần thứ 17 và các cuộc thăm cấp nhà nước tại Nhật, Nam Hàn, TQ, Úc, Nam dương, Singapor và Ấn độ. Bà ngoại trưởng H. Clinton đă chọn Á châu là nơi đi thăm nước ngoài đầu tiêncũng có nhiều ư nghĩa.Và từ 3 năm qua bà đă đi thăm cả chục lần các nước trong khu vực.Bà cũng tham dự hàng năm các Hội nghị Diễn đàn Khu vực-Asean. Các toà đại sứ Mĩ và các hoạt động ngoại giao trong khu vực cũng được tăng cường. Liên hệ tới việc đưa quân đội tới những nơi gần trung tâm nóng,Ngoại trưởng Clinton đă nói,sự gia tăng ngoại giao mới này bao gồm 6 yếu tố:
. Mở rộng bang giao song phương
. Đi sâu hơn trong hoạt động với các nước đang trội lên, kể cả TQ
. Gia tăng hợp tác trong các tổ chức khu vực và đa phương
. Tăng cường thương mại và đầu tư
. Xây dựng sự hiện diện quân sự rộng răi
. Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền
Lănh vực an ninh là yếu tố then chốt thứ ba của việc Mĩ tham gia. Ǵn giữ an ninh và ổn định ở khu vực là cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ quyền lợi toàn diện của Mĩ tại khu vực trong kinh tế, văn hoá và chính trị.Đúng như Joseph Nye đă nhận xét thông minh: Sự đóng góp của Mĩ cho lợi ích chung về an ninh khu vực là “không khí”, nó giúp khu vực thở và phồn vinh.
Để thích ứng với những thách đố của khu vực và nắm bắt được một chuỗi các nhiệm vụ an ninh phức tạp cả quân sự lẫn phi quân sự đ̣i hỏi phải có phương tiện và cố gắng lớn. Mặc dầu ngân sách quốc pḥng của Mĩ sẽ giảm đi trong các năm tới, nhưng chính phủ Washington đă cho biết,ngân sách dành cho khu vực châu Á-Thái b́nh dương sẽ không bị cắt giảm.Chính TT Obama đă nói rơ việc này trước Quốc hộiÚc tháng 11 vừa qua.
Giữa khi đa số các nước trong khu vực chào đón việcmới h́nh thành một chính sách đối ngoại và chiến lượcan ninh của Mĩ ở Á châu th́ TQ tỏ vẻ nghi ngại và Bắc Hàn lẽ dĩ nhiên chống đối. Lào, Kampuchia, Myanmar và Bagladesch tỏ vẻ không quan tâm.Các nước khác ở Á châu bằng những cách diễn tả khác nhau đều tỏ vẻ đồng ư. Các nước nhỏ hơn cũng có thể hưởng lợi trong quyết định ưu tiên mới của Mĩ.
Sự quan ngại của Bắc Hàn phản ảnh sự bất an của chính nước này. B́nh nhưỡng vẫn được để ngỏ việc b́nh thường hoá quan hệ với Mĩ và các nước trong khu vực, khi nào nó từ bỏ kế hoạch vơ khí nguyên tử.Bắc Kinh không nên lo sợ sự điều chỉnh mới của Washington.Bắc Kinh nên chấp nhận sự mong muốn rộng răi của khu vực muốn có sự hiện diện mạnh mẽ của Mĩ. V́ điều này xuất phát một phần chính từ sự quan ngại đối với TQ.TQ –chứ không phải Mĩ- phải thay đổi thái độ đối với khu vực bằng cách hướng tới hợp tác nhiều hơn.
[B]David Shambaugh là Giáo sư về Bang giao Quốc tế và Giám đốc Chương tŕnh chính trị của TQ tại Đại hoc George Washington
Điều cần để ư là, mặc dầu vấn đề tranh chấp biển Đông không là đề tài thảo luận chính thức, nhưng bên trong và ngoài hội nghị vấn đề này trở thành một điểm nóng tranh căi, đặc biệt từ khi TT Mĩ Obama đưa ra Chủ thuyết châu Á-Thái b́nh dương trong thời gần đây, theo đó Mĩ sẽ đặt ưu tiên cho chính sách đối ngoại an ninh ở châu Á.
Cũng đúng vào dịp Hội nghị về An ninh này tờ Süddeutsche Zeitung, một nhật báo lớn và có uy tín hàng đầu ở Đức, đă phổ biến hai bài của hai chuyên gia hàng đầu về đối ngoại và an ninh của Mĩ và Trung quốc (xem phần sau). Một sự t́nh cờ mang nhiều ư nghĩa nhưng không ngạc nhiên là, cả hai chuyên gia này đi từ quyền lợi quốc gia của mỗi nước, nhưng đều đi tới một nhận định chung là, vấn đề tranh chấp biển Đông đang trở thành điểm cực nóng trong bang giao Trung-Mĩ và châu Á-Thái b́nh dương và nó c̣n có thể kéo dài trong vài thập kỉ.
VN đang nằm lọt vào trung tâm tranh giành của Trung-Mĩ. Làm sao bảo vệ hữu hiệu quyền lợichính đáng của VN?VN đứng ở đâu?Chọn lập trường nào?Đứng về phía nào? Đứng chung với ai? Những câu hỏi nóng bỏng và rất bức xúc này về phía đại đa số nhân dân đă có thái độ rất dứt khoát, nhưng trong khi ấy vẫn chưa thấy câu trả lời rơ ràng và dứt khoát từ phía đảng cầm quyền.
Để trả lời các câu hỏi trên th́ phải biết rơ: Giữa Trung quốc và Hoa ḱ nước nào đang chiếm đóng nhiều đảo trên biển Đông của VN, ngăn cản VN thăm ḍ đầu khí và cấm đoán cũng như đối xử tàn ác với hàng ngàn ngư dân VN trong các năm qua?
Trong các cuộc thăm viếng của lănh đạo hai nước, phía Trung quốc thường khuyên VN phải nghĩ đến “đại cục”,tức quyền lợi chung, để từ đó đánh lạc hướng đấu tranh và ngăn cản những đ̣i hỏi chính đáng của VN, đồng thời đe doạ VN không được chọn đồng minh thích hợp để có thể bảo vệ hữu hiệu quyền lợi đất nước. Nội hàm “đại cục” mà Bắc kinh muốn nói tới chính là hai nước cùng theo chế độ Cộng sản.Bắc kinh t́m cách thuyết phục và răn đe Hà nội là, hăy để họ “mượn” biển Đông để mở đường tiến xuống phía Nam và Hà nội sẽ được “trả lăi”! Nhưng thực ra đây chỉ là bề ngoài, v́ từ lâu các chủ trương và chính sách của Bắc kinh chỉ nhắm mục đích duy nhất là quyền lợi quốc gia ích kỉ và cực đoan để thực hiện giấc mộng sớm trở thành siêu cường tân đế quốc trong Thế kỉ 21.
Cho nên ngôn ngữ đường mật của nhóm cầm đầu Bắc kinh hiện nay cũng giống như cách du thuyết của nhiều triều đại phong kiến Trung quốc trước đây.Dưới đời nhà Nguyên, chính Thoát Hoan năm 1283 đem 50 vạn quân sang đánh VN, nhưng lại giả vờ mượn đường qua VN để chiếm Chiêm thành. Nhưng khi ấy vua Trần Nhân Tông thông minh đă thấy ư đồ đen tối này nên dứt khoát từ chối và quyết dựa vào dân đánh thắng đoàn quân xâm lược.
Nhưng cho tới nay những người đứng đầu CSVN vẫn chưa dám có thái độ dứt khoát rơ ràng với Bắc kinh. Ngay cả chuyến thăm Trung quốccủa Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10 và chuyến đi Hà nội của Tập Cận B́nh tháng 12. 2011 ngôn ngữ “đại cục” vẫn được Bắc kinh thuyết giảng và đe doạ! Chính v́ thế, Bộ trưởng Quốc pḥng Phùng Quang Thanh đă ra tuyên bố bốn không, trong đó không muốn quốc tế hoá biển Đông mà chỉ giải quyết song phương với Trung quốc. C̣n Thứ trưởng Quốc pḥng Nguyễn Chí Vịnh đă cúi đầu tại Bắc kinh nhận chỉ thị cấm nhân dân VN, đi đầu là thanh niên và Trí thức, biểu t́nh chống các hành động xâm lấn ngang ngược của Trung quốc.
Trong khi ấy, những ngườicó quyền lực ở Hà nội lại không đứng về phía nhân dân, mà lại đang chống lại nhân dân. Nhiều phụ nữ, thanh niên, trí thức yêu nước và cả những đảng viên tiến bộ biết tự trọng đứng lên tố cáo các hành động xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh đều bị đàn áp, thậm chí c̣n bị giam cầm!
Dưới đây là bản lược dịch hai bài của hai chuyên gia Mĩ và Trung quốc liên quan tới viễn tượng cuộc tranh chấp biển Đông trên tờ Süddeutsche Zeitung ngày 5.2.2012.
Nguồn tiếng Đức
http://www.sueddeutsche.de/thema/M%C3%BCnchner_Sicher heitskonferenz
http://www.americanacademy. de/sites/default/files/upload/MSC%202012.pdf
Ghi chú: Các phần trong [….] là bổ túc của người dịch.
____________________ ____________
Trở về lại sân sau
Tác giả David Shambaugh
Mĩ có liên hệ lâu đời với châu Á. Nay Trung quốc (TQ) đang trỗi dậy, cho nên Mĩ tăng cường hoạt động ở đây và được nhiều nước trong khu vực hưởng ứng.
Nhiều bài b́nh luận trong thời gian gần đây đă chú tâm tới chiến lược của Mĩ ở Á châu, đặc biệt sau khi TT Obama đă thăm khu vực này vào tháng 11.2011 và công bố chiến lược quân sự mới và lâu dài [ở Á châu]. Đáng chú ư là,TQ đă không yên tâm và phản ứng lo ngại rằng,sự chiếu cố mới của Mĩ tới Á châu có thể nhằm mục tiêu ngăn cản sự trỗi dậy của TQ.
Cùng lúc đó có một số đồng minh ở Âu châu trong Nato [Khối pḥng thủ Bắc đại Tây dương] lo lắng cho rằng, sự chọn lựa ưu tiên mới của Mĩ là trên lưng của họ.
Đúng là Hoa ḱ đang tập trung ngoại giao, thương mại và an ninh ở Á châu và đang gia tăng phương tiện vào mục tiêu này. Chính phủ Obama là chính phủ đầu tiên đă xếp Á châu vào ưu tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao và an ninh toàn cầu[của Mĩ]. Đây là điều mới đối với Mĩ, v́ từ trước tới nay Mĩ chỉ đặt trọng tâm lớn nhất vào quan hệ liên Đại tây dương [ư nói giữa Mĩ và Tây Âu] và Trung đông. Cũng đúng nữa là, chiến lược mới [ở Á châu] là cách trả lời cho việc tối tân hoá quân sự của TQ cũng như cách“ngoại giaokẻ cả” của Bắc kinh. Nhiều đồng minh của Mĩ và nhiều nước khác đang lo ngại về những yêu sách lănh thổ rất vô lư của TQ ở biển phía Đông và biển Nam TQ cũng như việc tăng cường tuần tra trên biển của TQ.Cho nên các quốc gia này chào đón các cố gắng của Wahington và cũng đ̣i hỏi một chính sách như vậy đểquân b́nh chống lại thái độ tự cao của Bắc kinh.
Nhưng một sự thực là, chúng ta [Mĩ] đangchỉ chuyển dịch một phần chứ không toàn diện. Mĩ đă can dự sâu vào Á châu từ lâu –từ nhiều thập kỉ qua, hay đúng ra là từ nhiều thế kỉ. Ít nhất là từ thế kỉ 19 Mĩ đă là một cường quốc Thái b́nh dương và do yếu tố địa lí, chủng tộc và thương mại nên Hoa ḱ vẫn là quốc gia châu Á-Thái b́nh dương. Điều này được minh chứng qua ba lănh vực chính về vai tṛ của Mĩ trong khu vực là kinh tế, ngoại giao và an ninh.
Từ lâu Á châu đă trở thành đối tác kinh tế quan trọng nhất của Mĩ. Từ 1977 Á châu đă vượt qua Âu châu để trở thành bạn hàng thương mại quan trọng nhất của Mĩ. Hiện nay Mĩ đang giao thương với Á châu nhiều hơn gấp hai lần với Âu châu. TQ và Nhật là đối tác thương mại thứ hai và ba của Mĩ. Á châu cũng là thị trường xuất cảng lớn nhất của Mĩ, 10 trong số 20 nước tiêu thụ hàng Mĩ lớn nhất cũng nằm ở đây. Khoảng 1/3 ngoại thương của Mĩ là với Á châu.Năm 2010 tổng số xuất cảng của Mĩ trong khu vực Thái b́nh dương lên tới 320 tỉ USD. Riêng mức xuất cảng của TQ vào Mĩ trong 10 năm qua đă gia tăng 468%.
Mặt trái của việc này dĩ nhiên là việc thâm thủng mậu dịch rất lớn của Mĩ với khu vực –nhất là với TQ (273 tỉ USD trong năm 2010).Nhưng các quan hệ kinh tế và thương mại của Mĩ trong khu vực châu Á –Thái b́nh dương vẫn tiếp diễn sâu hơn. Các hiệp định tự do thương mại song phương và viễn tượng của Hiệp định đối tác xuyên Thái b́nh dương (TPP) sẽ ràng buộc Mĩ chặt chẽ hơn với các đối tác kinh tế trong khu vực.
Về vấn đề ngoại giao, như đă nói, chính phủ Obama đă đặt Á châu là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại.Từ khi cầm quyền chính phủ này đă t́m cách cải thiện liên hệ song phương với hầu hết các nước trong khu vực. Đại diện cấp cao của chính phủ Mĩ đă đi thăm nhiều nước mà từ lâu Mĩ đă sao nhăng, như Tân tây lan, Nam dương và Phi luật tân, trong đó kể cả Myanmar (Birma). Tại đây chính phủ Obama đă chuyển từ chính sách cô lập sang tiếp cận. Các cường quốc khu vực như Ấn độ và TQ cũng được chú ư ngoại giao nhiều hơn của Mĩ. Không có nước nào được chính phủ và xă hội Mĩ quan tâm như Cộng hoà Nhân dân TQ.Điều này phản ảnh là Mĩ và TQ mỗi năm có trên 60 cuộc đối thoại chính thức.Quan hệ toàn diện và sâu sắc cũng diễn ra ưu tiên với Ấn độ.
Chúng ta cũng c̣n thấy, Mĩ tăng cường liên hệ ngoại giao đa phương trong khu vực. Qua việc kí kết và tham gia các hiệp định thân hữu và hợp tác với Asean, nên nay Mĩ trở thành thành viên toàn vẹn trong các Hội nghị Thượng đỉnhĐông Á của Asean.Các liên hệ cấp chính phủ và các cấp không chính thức của Washington với khu vực cũng gia tăng.Từ khi cầm quyền, TT Obama tới thăm khu vực này ít nhất mỗi năm một lần. Trong đó bao gồm chuyến tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần đầu tiên của một TT Mĩ, cũng như cuôc gặp các thủ lănh Asean, việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Apec lần thứ 17 và các cuộc thăm cấp nhà nước tại Nhật, Nam Hàn, TQ, Úc, Nam dương, Singapor và Ấn độ. Bà ngoại trưởng H. Clinton đă chọn Á châu là nơi đi thăm nước ngoài đầu tiêncũng có nhiều ư nghĩa.Và từ 3 năm qua bà đă đi thăm cả chục lần các nước trong khu vực.Bà cũng tham dự hàng năm các Hội nghị Diễn đàn Khu vực-Asean. Các toà đại sứ Mĩ và các hoạt động ngoại giao trong khu vực cũng được tăng cường. Liên hệ tới việc đưa quân đội tới những nơi gần trung tâm nóng,Ngoại trưởng Clinton đă nói,sự gia tăng ngoại giao mới này bao gồm 6 yếu tố:
. Mở rộng bang giao song phương
. Đi sâu hơn trong hoạt động với các nước đang trội lên, kể cả TQ
. Gia tăng hợp tác trong các tổ chức khu vực và đa phương
. Tăng cường thương mại và đầu tư
. Xây dựng sự hiện diện quân sự rộng răi
. Thúc đẩy dân chủ và nhân quyền
Lănh vực an ninh là yếu tố then chốt thứ ba của việc Mĩ tham gia. Ǵn giữ an ninh và ổn định ở khu vực là cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ quyền lợi toàn diện của Mĩ tại khu vực trong kinh tế, văn hoá và chính trị.Đúng như Joseph Nye đă nhận xét thông minh: Sự đóng góp của Mĩ cho lợi ích chung về an ninh khu vực là “không khí”, nó giúp khu vực thở và phồn vinh.
Để thích ứng với những thách đố của khu vực và nắm bắt được một chuỗi các nhiệm vụ an ninh phức tạp cả quân sự lẫn phi quân sự đ̣i hỏi phải có phương tiện và cố gắng lớn. Mặc dầu ngân sách quốc pḥng của Mĩ sẽ giảm đi trong các năm tới, nhưng chính phủ Washington đă cho biết,ngân sách dành cho khu vực châu Á-Thái b́nh dương sẽ không bị cắt giảm.Chính TT Obama đă nói rơ việc này trước Quốc hộiÚc tháng 11 vừa qua.
Giữa khi đa số các nước trong khu vực chào đón việcmới h́nh thành một chính sách đối ngoại và chiến lượcan ninh của Mĩ ở Á châu th́ TQ tỏ vẻ nghi ngại và Bắc Hàn lẽ dĩ nhiên chống đối. Lào, Kampuchia, Myanmar và Bagladesch tỏ vẻ không quan tâm.Các nước khác ở Á châu bằng những cách diễn tả khác nhau đều tỏ vẻ đồng ư. Các nước nhỏ hơn cũng có thể hưởng lợi trong quyết định ưu tiên mới của Mĩ.
Sự quan ngại của Bắc Hàn phản ảnh sự bất an của chính nước này. B́nh nhưỡng vẫn được để ngỏ việc b́nh thường hoá quan hệ với Mĩ và các nước trong khu vực, khi nào nó từ bỏ kế hoạch vơ khí nguyên tử.Bắc Kinh không nên lo sợ sự điều chỉnh mới của Washington.Bắc Kinh nên chấp nhận sự mong muốn rộng răi của khu vực muốn có sự hiện diện mạnh mẽ của Mĩ. V́ điều này xuất phát một phần chính từ sự quan ngại đối với TQ.TQ –chứ không phải Mĩ- phải thay đổi thái độ đối với khu vực bằng cách hướng tới hợp tác nhiều hơn.
[B]David Shambaugh là Giáo sư về Bang giao Quốc tế và Giám đốc Chương tŕnh chính trị của TQ tại Đại hoc George Washington