vuitoichat
02-16-2012, 09:38
Với hàng loạt dự đoán, phân tích hay b́nh luận đôi khi phiến diện, giới truyền thông phương Tây đang đưa khả năng xung đột vũ trang của Mỹ và Israel với Iran từ không thể thành có thể.
Kinh nghiệm xương máu
Các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây từng có một bài học nhớ đời, khi Judith Miller, phóng viên báo New York Times đưa ra những câu chuyện, tuyên bố sai lầm rằng Iraq phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chính những thông tin cáo buộc đối với chính quyền Saddam Hussein chưa được kiểm chứng này lại được sử dụng như một cái cớ để giới chức trong chính quyền Bush đẩy nước Mỹ lún sâu vào một cuộc chiến tranh không chính đáng, dẫn đến cái chết của hàng trăm ngh́n lính Mỹ cũng như thường dân Iraq và trở thành cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ hơn 60 năm qua. Ngay cả khi chưa tính đến yếu tố lạm phát, cuộc chiến này cũng “đắt đỏ” hơn cả cuộc chiến tranh thế giới thứ 2.
Thêm vào đó, giới phóng viên quốc tế đúng ra là những người quan sát trung lập trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Tuy nhiên, bằng cách thường xuyên lặp đi lặp lại những lập luận của Chính phủ và khẳng định chúng như những sự thật, những nhà báo như Judith Miller đă biến những thông tin đó trở thành cơ sở chứng minh cho dự đoán về một cuộc xung đột vũ trang của ḿnh.
Tuy nhiên, những sai lầm của giới truyền thông không chỉ dừng lại ở những tuyên bố của Judith Miller. Một nhà phân tích chính trị khác của tạp chí Times là Thomas Fridedman trong thời kỳ đó cũng nhiều lần nhận định rằng, can thiệp quân sự vào Iraq sẽ giúp Mỹ tăng cường ảnh hưởng trong khu vực và giúp “mang lại nền dân chủ cho Trung Đông”. Vậy là chính quyền Bush đă có một tiếng nói ủng hộ và đầy ảnh hưởng từ truyền thông để tiến hành một cuộc phiêu lưu quân sự.
Trong khi đó, không đồng thanh với New York Times và Times trong chiến dịch “vận động chiến tranh” này của Chính phủ, show truyền h́nh ăn khách của Phil Donahue trên kênh MSNBC đă bị hủy bỏ v́ quan điểm chống chiến tranh.
Tiết lộ mới đây cho thấy, Phil Donahue, người từng đạt giải thưởng truyền h́nh danh giá Emmy đă suưt bị sa thải bởi quan điểm của ông “gây bất lợi” cho NBC, tập đoàn truyền thông sở hữu kênh MSNBC, trong thời gian chiến tranh. Và như vậy, dường như “hiếu chiến” đă trở thành tinh thần chủ đạo của giới truyền thống Mỹ.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/xuanhong/20120215/tg_15.2_chien.jpg
Báo chí phương Tây "đổ dầu" vào ngọn lửa chiến tranh Iran. Ảnh: New York Times.
Hệ quả của sự vô trách nhiệm này của báo chí chính là một Iraq ch́m trong khủng hoảng sắc tộc và bạo lực lan rộng và ngọn hải đăng dân chủ người Mỹ mang đến cho Iraq giờ chỉ phát ra thứ ánh sáng leo lắt.
Có lẽ những phóng viên như Judith Miller hay Thomas Fridedman đă thực sự không thể tưởng tượng ra cái viễn cảnh ảm đạm này. Không biết những nhà báo này nghĩ sao nhưng riêng cựu Tổng thống Bush th́ tâm sự trong cuốn hồi kư xuất bản năm 2010 của ḿnh rằng, ông vẫn cảm thấy “day dứt” v́ không t́m thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq, nguyên nhân chính khiến ông phát động chiến dịch can thiệp quân sự lật đổ chính quyền Saddam Hussein.
Chứng nào tật nấy
Có lẽ, bài học đó dường như chưa đủ để thức tỉnh những người định hướng dư luận Mỹ cũng như thế giới. Gần đây, những tờ báo chính thống của Mỹ như tờ New York Times liên tục đưa ra những khẳng định “chắc như đinh đóng cột” rằng Iran đang phát triển vũ khí hạt nhân, bất chấp những tuyên bố phủ nhận không biết mệt mỏi của Tehran.
Thậm chí, tờ báo này c̣n “xem như không biết” những đánh giá của Giám đốc Cơ quan T́nh báo quốc gia Mỹ James Clapper tại phiên điều trần trước Ủy ban Quân sự Thượng viện hồi tháng 3 năm ngoái rằng, theo những nguồn tin t́nh báo đáng tin cậy, Iran chưa có quyết định tái khởi động chương tŕnh hạt nhân vào lúc này.
Điều mà giới truyền thông Mỹ đến giờ vẫn chưa nhận ra là, kết luận về mục đích hạt nhân của Iran không phải trách nhiệm của họ. Điều họ cần đặc biệt lưu ư lúc này là tránh đưa ra những thông tin thiếu chuẩn xác có thể kích động một cuộc chiến tranh.
Tuy nhiên, chứng nào tật nấy, tạp chí New York Times mới đây giật tít “Israel đấu với Iran” ngay trên trang b́a của ḿnh. Trong phần nội dung, Ronen Bergen, một nhà phân tích quân sự cho tờ báo Yedioth Ahronoth của Israel cho rằng, một cuộc tấn công của Israel vào các cơ sở hạt nhân của Iran trong năm 2012 là không thể tránh khỏi.
Ông này cũng thừa nhận, nếu thành công th́ cuộc tấn công cũng chỉ có thể làm chương tŕnh sản xuất bom hạt nhân của Iran bị lùi lại một vài tháng trong khi Israel có thể phải chịu những trận đáp trả mạnh mẽ từ phía Cộng ḥa Hồi giáo.
Và nếu chiến tranh thực sự xảy ra theo kịch bản đó th́ hẳn giới truyền thông sẽ măn nguyện và “vênh mặt” với những “tiên tri chuẩn xác” của ḿnh.
Tuy nhiên, họ không hề hay biết rằng, chính họ đă khuấy động nỗi sợ hăi và kích động sự hiếu chiến cũng như chuẩn bị của công chúng với các cuộc chiến tranh.
Báo chí đă cổ vũ cho các giải pháp đơn giản để chữa trị những “căn bệnh” của xă hội thực tại và theo họ không có giải pháp nào đơn giản hơn là chiến tranh, sử dụng các chiến dịch quân sự gây thương vong.
Nếu bạn muốn khuyến khích dân chủ, đảm bảo nguồn cung cấp dầu cho Mỹ, ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, chống khủng bố, không cần phải vật lộn với thực tế xă hội và chính trị gai góc làm ǵ, chỉ cần hô lực lượng thủy quân lục chiến và tiến hành một cuộc chiến tranh. Đó chính là những ư niệm mà giới truyền thông đang “tiêm” vào đầu dân chúng Mỹ.
Thực ra, giải pháp chiến tranh như vậy chỉ càng cho thấy sự nghèo nàn trong trí tưởng tượng, không suy nghĩ sáng tạo về các lựa chọn thay thế cho cuộc xung đột vũ trang, ví dụ như sử dụng giải pháp ngoại giao ḥa b́nh.
Johan Galtung, nhà xă hội học và hoạt động ḥa b́nh người Na Uy cho rằng, việc truyền thông trở thành cái loa phát thanh cho Chính phủ và quân đội có nghĩa là dư luận chỉ được nghe những lập luận từ những người có quyền ra quyết định mà ít khi được nghe những lời bộc bạch từ những người phải trả giá cho quyết định chiến tranh đó.
Những lập luận bào chữa cho hành động quân sự được gói gọn trong những lư thuyết địa chính trị trừu tượng và những kêu gọi mơ hồ về “lợi ích quốc gia” hơn là tập trung cho các chi phí nhân lực, vật lực khủng khiếp mà Chính phủ tiêu tốn cho mỗi cuộc chiến tranh.
Theo ông Johan Galtung, Chính phủ và giới truyền thông cùng chia sẻ những lợi ích nhất định từ tinh thần hiếu chiến. Chính quyền có thể phô trương sức mạnh và gây sức ép, uy hiếp các quốc gia yếu hơn. Trong khi đó, báo chí th́ cũng tăng xếp hạng, theo đó, gia tăng lợi nhuận bởi c̣n cách ǵ thu hút độc giả tốt hơn là ăn theo những sự kiện nóng bỏng và làm cho độc giả luôn khát thèm những thông tin liên quan đến những sự kiện này?
Như vậy, dù không trực tiếp tạo ra chiến tranh nhưng với tư cách người quan sát trung lập, giới truyền thông lại có thể thổi bùng ngọn lửa chiến tranh, tuyên truyền cho những mục đích không minh bạch của Chính phủ với những b́nh luận bất cẩn của ḿnh.
Trà My (theo Counterpunch)
Kinh nghiệm xương máu
Các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây từng có một bài học nhớ đời, khi Judith Miller, phóng viên báo New York Times đưa ra những câu chuyện, tuyên bố sai lầm rằng Iraq phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chính những thông tin cáo buộc đối với chính quyền Saddam Hussein chưa được kiểm chứng này lại được sử dụng như một cái cớ để giới chức trong chính quyền Bush đẩy nước Mỹ lún sâu vào một cuộc chiến tranh không chính đáng, dẫn đến cái chết của hàng trăm ngh́n lính Mỹ cũng như thường dân Iraq và trở thành cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ hơn 60 năm qua. Ngay cả khi chưa tính đến yếu tố lạm phát, cuộc chiến này cũng “đắt đỏ” hơn cả cuộc chiến tranh thế giới thứ 2.
Thêm vào đó, giới phóng viên quốc tế đúng ra là những người quan sát trung lập trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Tuy nhiên, bằng cách thường xuyên lặp đi lặp lại những lập luận của Chính phủ và khẳng định chúng như những sự thật, những nhà báo như Judith Miller đă biến những thông tin đó trở thành cơ sở chứng minh cho dự đoán về một cuộc xung đột vũ trang của ḿnh.
Tuy nhiên, những sai lầm của giới truyền thông không chỉ dừng lại ở những tuyên bố của Judith Miller. Một nhà phân tích chính trị khác của tạp chí Times là Thomas Fridedman trong thời kỳ đó cũng nhiều lần nhận định rằng, can thiệp quân sự vào Iraq sẽ giúp Mỹ tăng cường ảnh hưởng trong khu vực và giúp “mang lại nền dân chủ cho Trung Đông”. Vậy là chính quyền Bush đă có một tiếng nói ủng hộ và đầy ảnh hưởng từ truyền thông để tiến hành một cuộc phiêu lưu quân sự.
Trong khi đó, không đồng thanh với New York Times và Times trong chiến dịch “vận động chiến tranh” này của Chính phủ, show truyền h́nh ăn khách của Phil Donahue trên kênh MSNBC đă bị hủy bỏ v́ quan điểm chống chiến tranh.
Tiết lộ mới đây cho thấy, Phil Donahue, người từng đạt giải thưởng truyền h́nh danh giá Emmy đă suưt bị sa thải bởi quan điểm của ông “gây bất lợi” cho NBC, tập đoàn truyền thông sở hữu kênh MSNBC, trong thời gian chiến tranh. Và như vậy, dường như “hiếu chiến” đă trở thành tinh thần chủ đạo của giới truyền thống Mỹ.
http://media.baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/xuanhong/20120215/tg_15.2_chien.jpg
Báo chí phương Tây "đổ dầu" vào ngọn lửa chiến tranh Iran. Ảnh: New York Times.
Hệ quả của sự vô trách nhiệm này của báo chí chính là một Iraq ch́m trong khủng hoảng sắc tộc và bạo lực lan rộng và ngọn hải đăng dân chủ người Mỹ mang đến cho Iraq giờ chỉ phát ra thứ ánh sáng leo lắt.
Có lẽ những phóng viên như Judith Miller hay Thomas Fridedman đă thực sự không thể tưởng tượng ra cái viễn cảnh ảm đạm này. Không biết những nhà báo này nghĩ sao nhưng riêng cựu Tổng thống Bush th́ tâm sự trong cuốn hồi kư xuất bản năm 2010 của ḿnh rằng, ông vẫn cảm thấy “day dứt” v́ không t́m thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq, nguyên nhân chính khiến ông phát động chiến dịch can thiệp quân sự lật đổ chính quyền Saddam Hussein.
Chứng nào tật nấy
Có lẽ, bài học đó dường như chưa đủ để thức tỉnh những người định hướng dư luận Mỹ cũng như thế giới. Gần đây, những tờ báo chính thống của Mỹ như tờ New York Times liên tục đưa ra những khẳng định “chắc như đinh đóng cột” rằng Iran đang phát triển vũ khí hạt nhân, bất chấp những tuyên bố phủ nhận không biết mệt mỏi của Tehran.
Thậm chí, tờ báo này c̣n “xem như không biết” những đánh giá của Giám đốc Cơ quan T́nh báo quốc gia Mỹ James Clapper tại phiên điều trần trước Ủy ban Quân sự Thượng viện hồi tháng 3 năm ngoái rằng, theo những nguồn tin t́nh báo đáng tin cậy, Iran chưa có quyết định tái khởi động chương tŕnh hạt nhân vào lúc này.
Điều mà giới truyền thông Mỹ đến giờ vẫn chưa nhận ra là, kết luận về mục đích hạt nhân của Iran không phải trách nhiệm của họ. Điều họ cần đặc biệt lưu ư lúc này là tránh đưa ra những thông tin thiếu chuẩn xác có thể kích động một cuộc chiến tranh.
Tuy nhiên, chứng nào tật nấy, tạp chí New York Times mới đây giật tít “Israel đấu với Iran” ngay trên trang b́a của ḿnh. Trong phần nội dung, Ronen Bergen, một nhà phân tích quân sự cho tờ báo Yedioth Ahronoth của Israel cho rằng, một cuộc tấn công của Israel vào các cơ sở hạt nhân của Iran trong năm 2012 là không thể tránh khỏi.
Ông này cũng thừa nhận, nếu thành công th́ cuộc tấn công cũng chỉ có thể làm chương tŕnh sản xuất bom hạt nhân của Iran bị lùi lại một vài tháng trong khi Israel có thể phải chịu những trận đáp trả mạnh mẽ từ phía Cộng ḥa Hồi giáo.
Và nếu chiến tranh thực sự xảy ra theo kịch bản đó th́ hẳn giới truyền thông sẽ măn nguyện và “vênh mặt” với những “tiên tri chuẩn xác” của ḿnh.
Tuy nhiên, họ không hề hay biết rằng, chính họ đă khuấy động nỗi sợ hăi và kích động sự hiếu chiến cũng như chuẩn bị của công chúng với các cuộc chiến tranh.
Báo chí đă cổ vũ cho các giải pháp đơn giản để chữa trị những “căn bệnh” của xă hội thực tại và theo họ không có giải pháp nào đơn giản hơn là chiến tranh, sử dụng các chiến dịch quân sự gây thương vong.
Nếu bạn muốn khuyến khích dân chủ, đảm bảo nguồn cung cấp dầu cho Mỹ, ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, chống khủng bố, không cần phải vật lộn với thực tế xă hội và chính trị gai góc làm ǵ, chỉ cần hô lực lượng thủy quân lục chiến và tiến hành một cuộc chiến tranh. Đó chính là những ư niệm mà giới truyền thông đang “tiêm” vào đầu dân chúng Mỹ.
Thực ra, giải pháp chiến tranh như vậy chỉ càng cho thấy sự nghèo nàn trong trí tưởng tượng, không suy nghĩ sáng tạo về các lựa chọn thay thế cho cuộc xung đột vũ trang, ví dụ như sử dụng giải pháp ngoại giao ḥa b́nh.
Johan Galtung, nhà xă hội học và hoạt động ḥa b́nh người Na Uy cho rằng, việc truyền thông trở thành cái loa phát thanh cho Chính phủ và quân đội có nghĩa là dư luận chỉ được nghe những lập luận từ những người có quyền ra quyết định mà ít khi được nghe những lời bộc bạch từ những người phải trả giá cho quyết định chiến tranh đó.
Những lập luận bào chữa cho hành động quân sự được gói gọn trong những lư thuyết địa chính trị trừu tượng và những kêu gọi mơ hồ về “lợi ích quốc gia” hơn là tập trung cho các chi phí nhân lực, vật lực khủng khiếp mà Chính phủ tiêu tốn cho mỗi cuộc chiến tranh.
Theo ông Johan Galtung, Chính phủ và giới truyền thông cùng chia sẻ những lợi ích nhất định từ tinh thần hiếu chiến. Chính quyền có thể phô trương sức mạnh và gây sức ép, uy hiếp các quốc gia yếu hơn. Trong khi đó, báo chí th́ cũng tăng xếp hạng, theo đó, gia tăng lợi nhuận bởi c̣n cách ǵ thu hút độc giả tốt hơn là ăn theo những sự kiện nóng bỏng và làm cho độc giả luôn khát thèm những thông tin liên quan đến những sự kiện này?
Như vậy, dù không trực tiếp tạo ra chiến tranh nhưng với tư cách người quan sát trung lập, giới truyền thông lại có thể thổi bùng ngọn lửa chiến tranh, tuyên truyền cho những mục đích không minh bạch của Chính phủ với những b́nh luận bất cẩn của ḿnh.
Trà My (theo Counterpunch)