vuitoichat
03-02-2012, 14:58
(Nguoiduatin.vn) - Một trong những nguyên tắc vô cùng quan trọng, cũng như rất tiến bộ của pháp luật trong lịch sử nhân loại, đó là nguyên tắc "suy đoán vô tội". Đó là thành tựu của nhân loại nhằm bảo vệ nhân quyền trước sức mạnh của bộ máy cảnh sát, ṭa án.
Vụ án Lê Văn Luyện giết người, cướp tài sản thực sự đă gây chấn động lớn trong dư luận một thời gian khá dài vừa qua. Tính chất đặc biệt nghiêm trọng của nó đă trở thành chủ đề bàn tán cũng như lên án trong phần lớn cộng đồng người Việt. Bức xúc có, căm giận có, lo ngại có… Đủ mọi cung bậc cảm xúc.
Là một tân cử nhân Luật, dù hiểu biết c̣n quá ít ỏi, song tôi cũng không khỏi có những suy nghĩ trước vụ án này.
Trước khi diễn ra phiên ṭa, tôi đă nghe báo đài đưa tin nhiều lắm, rằng “đă xác định được hung thủ vụ án giết chủ tiệm vàng, cướp tài sản”, “đă t́m ra tên giết người dă man”… Hăy khoan bàn về tính đúng đắn trong những cái tít kia của báo chí, mà hăy bàn tới vấn đề khác theo tôi c̣n quan trọng hơn: vấn đề “hợp pháp”.
Dường như trong tâm trí người Việt, kể cả một số (có lẽ ít thôi) những người học luật, chúng ta chỉ chăm chăm t́m hiểu luật nội dung, mà bỏ bê hoặc chí ít chưa quan tâm đúng mức tới những quy định của luật h́nh thức.
Một vụ việc xảy ra, chúng ta dường như có thói quen bỏ Bộ luật tố tụng H́nh sự sang một bên mà giở thật nhanh Bộ luật H́nh sự để làm cái việc phê phán, định tội cho người ta. Chúng ta coi đó là một việc đúng đắn, có phải bởi v́ từ lâu chúng ta đă hiểu một cách quá cực đoan về nhận định “luật nội dung quyết định luật h́nh thức” để cho rằng chỉ cần áp dụng luật nội dung là quá rơ ràng và đủ cần thiết cho hoạt động tư pháp?
Trước khi giở Bộ luật H́nh sự ra, chúng ta hăy giở Bộ luật Tố tụng H́nh sự và đọc thật kỹ Điều 9: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu h́nh phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đă có hiệu lực pháp luật”. Để hiểu được tầm quan trọng của nó, chúng ta lại phải giở tiếp Hiến pháp ra và đọc Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu h́nh phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đă có hiệu lực pháp luật”.
Tại sao chúng ta lại phải làm như vậy? Tại sao điều này lại phải được ghi nhận ở Hiến pháp chứ không riêng ǵ Bộ luật Tố tụng H́nh sự? (Và được ghi nhận ở Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân - có nghĩa điều này liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền.)
Đó là một trong những nguyên tắc vô cùng quan trọng, cũng như rất tiến bộ của pháp luật trong lịch sử nhân loại, nguyên tắc "suy đoán vô tội" trong tố tụng h́nh sự.
Tại sao lại gọi là “suy đoán vô tội”? Thực chất hoạt động tư pháp là hoạt động "suy đoán", như Hamilton, một luật gia nổi tiếng Hoa Kỳ đă nói, đại ư rằng, tư pháp là nhánh quyền yếu nhất, nó không nắm bộ máy bạo lực như hành pháp, không nắm ngân sách như Nghị viện, mà chỉ dựa vào suy đoán mà thôi, và ngay cả hoạt động này cũng cần phải nhờ sự trợ tá của hành pháp mới có thể thực hiện được. Khi chúng ta giả định rằng chúng ta là những ông ṭa, giở Bộ luật H́nh sự ra để t́m điều luật phán tội cho người khác, ấy là chúng ta đang suy đoán về tội danh của kẻ đó.
http://media.nguoiduatin.vn/public/data/images/canhkien/nam2012/t3/t301/nguoiduatin-phamnhan.jpg
Một nữ phạm nhân - H́nh minh họa
Suy đoán vô tội có thể hiểu một cách đơn giản bằng một ví dụ: Người ta t́m thấy một chiếc áo dính máu nạn nhân bị sát hại trong nhà ông A. Rơ ràng ở đây có dấu hiệu tội phạm và người phạm tội. Câu hỏi ông A có phạm tội hay không là việc mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Ṭa án phải chứng minh.
Nhưng trước khi thực hiện suy đoán - định tội, chúng ta phải bắt đầu bằng giả thiết rằng: ông A vô tội. Trong quá tŕnh chứng minh, chừng nào chưa t́m ra được những chứng cứ loại trừ giả thiết chứng minh ban đầu có nghĩa là ông A luôn không phạm tội. Đó là thực chất của nguyên tắc "suy đoán vô tội" trong tố tụng h́nh sự, rằng thay v́ trực tiếp chứng minh nghi phạm có tội (nghĩa là tạo ra một định kiến trước khi định tội rằng nghi phạm chắc chắn đă phạm tội), th́ chúng ta phải bắt đầu bằng giả thiết rằng nghi phạm vô tội, và nếu chứng cứ không đủ sức mạnh th́ anh ta luôn là người không có tội.
Đây là một thành tựu của nhân loại nhằm bảo vệ nhân quyền trước sức mạnh của bộ máy cảnh sát, ṭa án, đă được thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên hợp quốc.
Về mặt lư luận, đó là khi suy đoán của chúng ta đă chắc chắn, đă loại bỏ được giả thiết nghi phạm vô tội lúc đầu, th́ chúng ta mới có thể phán rằng anh ta phạm tội. Ngoài ra nó c̣n được thể hiện ở những nội dung:
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị t́nh nghi, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của ḿnh. Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ đều phải được giải thích có lợi cho người bị t́nh nghi, bị can, bị cáo. Bản án không được dựa trên những chứng cứ giả định.
Vậy nhưng cách báo đài đưa tin, và cái cách mà chúng ta nhanh chóng chộp lấy Bộ luật h́nh sự để vội vàng gọi người ta là “thủ phạm”, “hung thủ”, “kẻ giết người” khi mà phiên Ṭa vẫn chưa diễn ra, Ṭa án vẫn chưa tuyên án, theo tôi, quả thực đă xâm phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc rất tiến bộ này.
Điều này nói lên rằng, trước khi truy tố và xét xử, chúng ta đă có định kiến từ trước rằng Luyện chắc chắn phạm tội, dù điều này có đúng chăng nữa, song thực tế đă trái với nguyên tắc Suy đoán vô tội mà luật pháp thừa nhận. Về mặt pháp lư, khi chưa có bản án đă có hiệu lực của Ṭa án, cách gọi Luyện là “kẻ giết người”, là “hung thủ” thực chất đă không có tính hợp pháp.
Một khi quy tắc không được tôn trọng, mặc nhiên những nội dung tiếp theo đó của nguyên tắc này cũng bị người ta bỏ quên.
Đừng tưởng nó chỉ là một cách gọi. Hăy giả sử khi Ṭa án tuyên Lê Văn Luyện vô tội (chỉ là giả sử), lúc đó chúng ta lại sẽ gọi Luyện là ǵ?
Không quan tâm đúng mức tới nguyên tắc này dẫn tới một t́nh trạng rằng, danh dự của nghi phạm sẽ bị tổn thương trầm trọng - ngay cả khi nghi phạm sau đó được tuyên là vô tội, đồng thời tạo ra cho Ṭa án – đáng lẽ phải là một vị trọng tài công tâm - chịu ảnh hưởng bởi định kiến nghi phạm chắc chắn phạm tội mà đi ngược lại với nguyên tắc suy đoán vô tội tiến bộ kia.
Cho dẫu đây là một vụ án nghiêm trọng mà người ta gần như đă chắc chắn rằng Luyện có tội, song nếu chúng ta vẫn không sửa đổi cách gọi, cách nghĩ như vậy, th́ giả sử có những vụ việc có tính chất nghiêm trọng tương tự, nhưng nghi phạm thực ra không phải là thủ phạm, hậu quả để lại của nó sẽ tai hại vô cùng.
Hồng Kỳ
Vụ án Lê Văn Luyện giết người, cướp tài sản thực sự đă gây chấn động lớn trong dư luận một thời gian khá dài vừa qua. Tính chất đặc biệt nghiêm trọng của nó đă trở thành chủ đề bàn tán cũng như lên án trong phần lớn cộng đồng người Việt. Bức xúc có, căm giận có, lo ngại có… Đủ mọi cung bậc cảm xúc.
Là một tân cử nhân Luật, dù hiểu biết c̣n quá ít ỏi, song tôi cũng không khỏi có những suy nghĩ trước vụ án này.
Trước khi diễn ra phiên ṭa, tôi đă nghe báo đài đưa tin nhiều lắm, rằng “đă xác định được hung thủ vụ án giết chủ tiệm vàng, cướp tài sản”, “đă t́m ra tên giết người dă man”… Hăy khoan bàn về tính đúng đắn trong những cái tít kia của báo chí, mà hăy bàn tới vấn đề khác theo tôi c̣n quan trọng hơn: vấn đề “hợp pháp”.
Dường như trong tâm trí người Việt, kể cả một số (có lẽ ít thôi) những người học luật, chúng ta chỉ chăm chăm t́m hiểu luật nội dung, mà bỏ bê hoặc chí ít chưa quan tâm đúng mức tới những quy định của luật h́nh thức.
Một vụ việc xảy ra, chúng ta dường như có thói quen bỏ Bộ luật tố tụng H́nh sự sang một bên mà giở thật nhanh Bộ luật H́nh sự để làm cái việc phê phán, định tội cho người ta. Chúng ta coi đó là một việc đúng đắn, có phải bởi v́ từ lâu chúng ta đă hiểu một cách quá cực đoan về nhận định “luật nội dung quyết định luật h́nh thức” để cho rằng chỉ cần áp dụng luật nội dung là quá rơ ràng và đủ cần thiết cho hoạt động tư pháp?
Trước khi giở Bộ luật H́nh sự ra, chúng ta hăy giở Bộ luật Tố tụng H́nh sự và đọc thật kỹ Điều 9: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu h́nh phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đă có hiệu lực pháp luật”. Để hiểu được tầm quan trọng của nó, chúng ta lại phải giở tiếp Hiến pháp ra và đọc Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu h́nh phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đă có hiệu lực pháp luật”.
Tại sao chúng ta lại phải làm như vậy? Tại sao điều này lại phải được ghi nhận ở Hiến pháp chứ không riêng ǵ Bộ luật Tố tụng H́nh sự? (Và được ghi nhận ở Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân - có nghĩa điều này liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền.)
Đó là một trong những nguyên tắc vô cùng quan trọng, cũng như rất tiến bộ của pháp luật trong lịch sử nhân loại, nguyên tắc "suy đoán vô tội" trong tố tụng h́nh sự.
Tại sao lại gọi là “suy đoán vô tội”? Thực chất hoạt động tư pháp là hoạt động "suy đoán", như Hamilton, một luật gia nổi tiếng Hoa Kỳ đă nói, đại ư rằng, tư pháp là nhánh quyền yếu nhất, nó không nắm bộ máy bạo lực như hành pháp, không nắm ngân sách như Nghị viện, mà chỉ dựa vào suy đoán mà thôi, và ngay cả hoạt động này cũng cần phải nhờ sự trợ tá của hành pháp mới có thể thực hiện được. Khi chúng ta giả định rằng chúng ta là những ông ṭa, giở Bộ luật H́nh sự ra để t́m điều luật phán tội cho người khác, ấy là chúng ta đang suy đoán về tội danh của kẻ đó.
http://media.nguoiduatin.vn/public/data/images/canhkien/nam2012/t3/t301/nguoiduatin-phamnhan.jpg
Một nữ phạm nhân - H́nh minh họa
Suy đoán vô tội có thể hiểu một cách đơn giản bằng một ví dụ: Người ta t́m thấy một chiếc áo dính máu nạn nhân bị sát hại trong nhà ông A. Rơ ràng ở đây có dấu hiệu tội phạm và người phạm tội. Câu hỏi ông A có phạm tội hay không là việc mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Ṭa án phải chứng minh.
Nhưng trước khi thực hiện suy đoán - định tội, chúng ta phải bắt đầu bằng giả thiết rằng: ông A vô tội. Trong quá tŕnh chứng minh, chừng nào chưa t́m ra được những chứng cứ loại trừ giả thiết chứng minh ban đầu có nghĩa là ông A luôn không phạm tội. Đó là thực chất của nguyên tắc "suy đoán vô tội" trong tố tụng h́nh sự, rằng thay v́ trực tiếp chứng minh nghi phạm có tội (nghĩa là tạo ra một định kiến trước khi định tội rằng nghi phạm chắc chắn đă phạm tội), th́ chúng ta phải bắt đầu bằng giả thiết rằng nghi phạm vô tội, và nếu chứng cứ không đủ sức mạnh th́ anh ta luôn là người không có tội.
Đây là một thành tựu của nhân loại nhằm bảo vệ nhân quyền trước sức mạnh của bộ máy cảnh sát, ṭa án, đă được thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên hợp quốc.
Về mặt lư luận, đó là khi suy đoán của chúng ta đă chắc chắn, đă loại bỏ được giả thiết nghi phạm vô tội lúc đầu, th́ chúng ta mới có thể phán rằng anh ta phạm tội. Ngoài ra nó c̣n được thể hiện ở những nội dung:
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị t́nh nghi, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của ḿnh. Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ đều phải được giải thích có lợi cho người bị t́nh nghi, bị can, bị cáo. Bản án không được dựa trên những chứng cứ giả định.
Vậy nhưng cách báo đài đưa tin, và cái cách mà chúng ta nhanh chóng chộp lấy Bộ luật h́nh sự để vội vàng gọi người ta là “thủ phạm”, “hung thủ”, “kẻ giết người” khi mà phiên Ṭa vẫn chưa diễn ra, Ṭa án vẫn chưa tuyên án, theo tôi, quả thực đă xâm phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc rất tiến bộ này.
Điều này nói lên rằng, trước khi truy tố và xét xử, chúng ta đă có định kiến từ trước rằng Luyện chắc chắn phạm tội, dù điều này có đúng chăng nữa, song thực tế đă trái với nguyên tắc Suy đoán vô tội mà luật pháp thừa nhận. Về mặt pháp lư, khi chưa có bản án đă có hiệu lực của Ṭa án, cách gọi Luyện là “kẻ giết người”, là “hung thủ” thực chất đă không có tính hợp pháp.
Một khi quy tắc không được tôn trọng, mặc nhiên những nội dung tiếp theo đó của nguyên tắc này cũng bị người ta bỏ quên.
Đừng tưởng nó chỉ là một cách gọi. Hăy giả sử khi Ṭa án tuyên Lê Văn Luyện vô tội (chỉ là giả sử), lúc đó chúng ta lại sẽ gọi Luyện là ǵ?
Không quan tâm đúng mức tới nguyên tắc này dẫn tới một t́nh trạng rằng, danh dự của nghi phạm sẽ bị tổn thương trầm trọng - ngay cả khi nghi phạm sau đó được tuyên là vô tội, đồng thời tạo ra cho Ṭa án – đáng lẽ phải là một vị trọng tài công tâm - chịu ảnh hưởng bởi định kiến nghi phạm chắc chắn phạm tội mà đi ngược lại với nguyên tắc suy đoán vô tội tiến bộ kia.
Cho dẫu đây là một vụ án nghiêm trọng mà người ta gần như đă chắc chắn rằng Luyện có tội, song nếu chúng ta vẫn không sửa đổi cách gọi, cách nghĩ như vậy, th́ giả sử có những vụ việc có tính chất nghiêm trọng tương tự, nhưng nghi phạm thực ra không phải là thủ phạm, hậu quả để lại của nó sẽ tai hại vô cùng.
Hồng Kỳ