vuitoichat
04-11-2012, 15:04
Thiếu Long (Texas)
Lâu nay một bộ phận trong dư luận hải ngoại thường cho rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ, những người lănh đạo CHXHCN Việt Nam, hoặc những bộ phận của Đảng và Nhà nước cộng sản là “hèn nhát” trước Trung Quốc mỗi khi Việt Nam làm cái này hoặc không làm cái kia, đặt nặng vấn đề này hoặc không đặt nặng vấn đề kia.
Tôi th́ chỉ nh́n vào vấn đề chính, cái cốt lơi nhất, đó là khi có xâm lược th́ Việt Nam sẵn sàng đánh xâm lược và khi giặc chưa xâm lược th́ Việt Nam đang tích cực bảo vệ chủ quyền bằng cách: Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc, và hiện đại hóa quân đội, nâng cao hệ thống pḥng thủ và tăng cường năng lực tác chiến pḥng thủ. Nghĩa là tất cả những ǵ liên quan đến chủ quyền th́ chúng ta đều đă và đang làm, bất kể điều này đối nghịch với lợi ích và những tuyên bố của phía Trung Quốc, bất kể những điều này có làm Trung Quốc phật ḷng hay không.
Từ thực tế khách quan trên, tôi cho rằng tất cả những hành động chính trị, quyết định chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam đều có nguyên nhân của nó, và chắc chắn không thể xuất phát từ tinh thần hèn nhát. Cách đây không lâu, Việt Nam ngay cả cầm súng bắn Trung Quốc cũng đă làm th́ không phải là hèn, và ngày nay, Việt Nam đang làm tất cả v́ chủ quyền của ḿnh bất kể nó mâu thuẫn với lợi ích Trung Quốc, như vậy không phải là hèn. Một người th́ không thể vừa “hèn” vừa “không hèn”, cho nên khi đă xác định Việt Nam không hèn th́ nên có một niềm tin nhất định, đó là niềm tin thực tế, có căn cứ, chứ không phải niềm tin mù quáng, phi thực tế, vô căn cứ.
Từ sự hiểu rơ bản chất và niềm tin trên, mỗi khi tôi thấy Việt Nam nhường Trung Quốc điều ǵ, hay tỏ thái độ mềm dẻo ǵ th́ tôi hiểu rằng đó là những sách lược chính trị tạm thời và đều có nguyên nhân sâu xa của nó, thậm chí có những vấn đề chính trị bên trong mà chúng ta chưa biết hết. Những hành động đó có thể đúng, có thể sai, có thể chúng ta đồng ư với nó, có thể chúng ta không đồng ư với nó, nhưng chắc chắn nó không phải xuất phát từ tâm lư hèn hạ, hèn nhát.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến quan hệ Việt – Trung là mối quan hệ nhạy cảm và Trung Quốc luôn là bóng ma ám ảnh cho chủ quyền Việt Nam và là mối đe dọa lớn nhất cho chủ quyền lănh thổ Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên nhân v́ sao các lănh đạo Việt Nam coi đây là vấn đề nhạy cảm, và trong đó đều là những nguyên nhân khách quan với mong muốn trước hết là bảo vệ chủ quyền lănh thổ, sau là bảo vệ ḥa b́nh, tránh chiến tranh tàn phá đất nước, chiến sĩ hy sinh, đồng bào đổ máu, bao nhiều thành tựu từ Đổi mới, bao nhiêu nỗ lực xây dựng đất nước và hồi phục suy thoái kinh tế toàn cầu trở thành công cốc. Chứ trong đó không có cái ǵ là từ sự nhát, sợ Trung Quốc, hay hèn như một số người đă lầm tưởng.
Hiện Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Việt Nam nhất. Do địa lư gần gũi thuận lợi, do có mâu thuẫn trực tiếp chủ quyền lănh thổ và những nguồn lợi kinh tế biển, trong đó có những nguồn dầu ở Biển Đông.
Trung Quốc chưa gây chiến, chưa xâm lược là v́ họ vẫn c̣n đang muốn giữ ḥa b́nh để tập trung phát triển kinh tế và đang chưa có cái cớ nào khả dĩ để mà có thể dùng làm chiêu bài chính trị. Khi phe hiếu chiến lên nắm quyền, th́ bất kỳ 1 chuyện nhỏ nào cũng có thể được dùng để khai thác, đào bới, khoét sâu, thổi phồng lên để h́nh thành 1 chiêu bài chính trị gây chiến.
Đừng tưởng sự dung dưỡng, thả lỏng đối với những chuyện nhỏ không thể tích tụ thành một chuyện lớn, tạo điều kiện cho Trung Quốc tuyên truyền thổi phồng, nâng cao quan điểm, leo thang mâu thuẫn, leo thang xung đột, từ khẩu chiến đến chiến tranh lạnh rồi tới xung đột quân sự, rồi tới chiến tranh toàn diện chỉ trong tích tắc (xem cuộc chiến 1979).
Đối với Trung Quốc là sự chưa muốn gây chiến. C̣n đối với Việt Nam là sự hoàn toàn không muốn có chiến tranh lúc này. Việt Nam đang “sợ” chiến tranh hơn Trung Quốc là v́ Việt Nam có nhiều thứ để mất hơn Trung Quốc, thế yếu hơn Trung Quốc, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa Trung Quốc. Thực lực đôi bên một trời một vực. Thực lực tổng thể đă một trời một vực, thực lực quân sự trên biển và trên không cũng c̣n một khoảng cách rất xa.
Nếu chiến tranh trên bộ th́ Trung Quốc chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm 1979, không có cơ hội nào thôn tính Việt Nam. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển trong 1 h́nh thái chiến tranh mới, phụ thuộc nhiều vào sức mạnh vũ khí không quân và hải quân để làm chủ vùng trời và vùng biển th́ hầu như chắc chắn Việt Nam sẽ thua và bị mất thêm chủ quyền, hầu hết các chuyên gia quân sự quốc tế đều đồng thuận với nhau về điểm này. Bởi v́ trên biển và trên không, Việt Nam không thể áp dụng chiến tranh nhân dân và khó thể áp dụng chiến tranh du kích như trên bộ.
Trong cuộc chiến, sự thiệt hại của Trung Quốc nếu có chỉ sẽ là rất nhỏ so với thực lực tổng thể của họ, họ sẽ tốn thật nhiều lính mà họ có thể đang ngầm muốn chết bớt do nạn dân số và trai thừa gái thiếu, họ đang muốn “tống khứ” bao nhiêu đàn ông Trung Quốc đi ra nước ngoài qua nhiều h́nh thức khác nhau c̣n không kịp th́ họ sẽ không tiếc sinh mạng những người lính. Nhưng Việt Nam th́ tiếc mạng sống binh sĩ và đồng bào.
Có thể Trung Quốc sẽ mất vài tỷ đô la, một phần vũ khí sẽ bị hư hại, một số tàu sẽ ch́m, rồi sao? Họ c̣n bao nhiêu tiền với tiềm lực kinh tế đó và c̣n bao nhiêu vũ khí khác chưa dùng và họ rất sẵn sàng mua lại hoặc chế mới để bổ sung, hiện họ vẫn đang mua sắm và sản xuất đều đặn.
Dù Việt Nam có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, nhưng trong 1 cuộc chiến tranh trên biển, dù 1 tàu Việt Nam, 1 máy bay Việt Nam thiện chiến nhất thế giới th́ cao lắm có thể chọi 3 tàu địch, máy bay địch, Việt Nam sẽ gây thiệt hại nặng cho địch về vũ khí, mạng đổi mạng với địch, nhưng sau khi ta hết vốn, địch cho bổ sung th́ ta sẽ đưa lưng ra chịu đ̣n. Rồi sẽ có bao nhiêu Gạc Ma khác, có bao nhiêu Ṿng tṛn bất tử khác, bao nhiêu Quảng Trị khác (Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam không có không quân và hải quân nên trơ trọi chịu trận trước không quân Mỹ và Hạm đội 7 của Mỹ dội bom và pháo kích vào, quân đội ban đầu có cả ngàn người nhưng không c̣n bao nhiêu người sống sót, nhưng quyết bám đất đến cùng, không bỏ chạy, đó cũng là 1 Ṿng tṛn bất tử trong thời chống Mỹ.). Rồi ta sẽ mất bao nhiêu băi Gạc Ma nữa, bao nhiêu người sẽ hy sinh nữa?
Và đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hết vốn, địch vẫn c̣n vốn và tiếp tục mua mới, sản xuất với tiềm lực kinh tế đó, c̣n ta th́ biết bao giờ mới xây dựng lại được 1 lực lượng hải quân tạm có tính răn đe như hiện nay? Bao giờ mới có lại những vũ khí hiện đại đó? Những anh bạn “không hèn” có sẵn sàng thắt lưng buộc bụng để cho Việt Nam có thể áp dụng chính sách Tiên quân (quân đội trước) như Triều Tiên hay không?
Khi nói, phán, chửi, chê th́ rất dễ, không có ǵ dễ hơn, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy bao nhiêu chuyện. Đứng ngoài phê phán th́ bao giờ cũng là dễ nhất.
Lực lượng hải quân và không quân Việt Nam hiện nay tuy đang được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn chỉ có tính răn đe, làm cho Trung Quốc chùn bước phần nào v́ sợ tổn thất vũ khí và tiền bạc, chứ nó chưa đủ sức bảo vệ chủ quyền lănh thổ nếu có 1 cuộc chiến tranh toàn diện tại đây. Hải quân Trung Quốc năm 2012 ngày nay không phải là hải quân lạc hậu năm 1988.
V́ những lẽ đó, mới có xu hướng nhường nhịn, lấy đại cuộc làm đầu, 1 câu nhịn 9 câu lành để bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ ǵn ḥa b́nh và sự ổn định trong khu vực. V́ khi có chiến tranh, Việt Nam ít nhiều ǵ cũng sẽ mất thêm chủ quyền, mất đi năng lực pḥng thủ cho sau này, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền, bao nhiêu người hy sinh, và sẽ c̣n nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn. Chính những lợi ích dân tộc đó, những lợi ích quốc gia đó của đất nước, mà chúng ta cố gắng không để bất kỳ cái ǵ biến thành (hoặc có thể để cho Trung Quốc sử dụng) một cuộc leo thang mâu thuẫn, xung đột từng bước.
Năm 1992 Việt Nam khó khăn lắm mới đấu tranh thuyết phục Trung Quốc kư vào hiệp nghị gác lại quá khứ và không tuyên truyền chống nhau, để hoàn toàn b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, xây dựng không khí ḥa b́nh, xua tan không khí chiến tranh lạnh có thể bùng nổ thành chiến tranh nóng bất cứ lúc nào giữa 2 nước. Và lâu nay Trung Quốc về cơ bản vẫn ngăn chặn những thông tin về cuộc chiến năm 1979 và hải chiến TS. Bây giờ khi xảy ra cái ǵ, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo Việt Nam vi phạm hiệp định rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger Trung Quốc, hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam, xúc phạm những anh hùng liệt sĩ Việt Nam, xuyên tạc cuộc chiến 1979 và Hải chiến TS, Ṿng tṛn bất tử, Gạc Ma … th́ có phải là sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột, xung đột này mở ra xung đột kia hay không?
Và Việt Nam có thắng nổi một cuộc chiến tranh thông tin với Trung Quốc hay không? Thông tấn xă Việt Nam là ǵ so với Tân Hoa xă, CCTV có chi nhánh khắp thế giới? Cộng đồng mạng Việt Nam tỷ lệ so sánh với cộng đồng mạng Trung Quốc thế nào, rồi sự khổng lồ áp đảo này sẽ tác động tới quốc tế thế nào?
Trung Quốc không sợ chiến tranh, càng không sợ 1 cuộc chiến trên biển với Việt Nam v́ họ biết ưu thế của họ và khuyết điểm quân sự của Việt Nam chưa đủ thời gian để lấp lại. Và 1 bộ phận bá quyền, bành trướng, phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh vẫn c̣n đó, chúng nó đang chực chờ 1 cái cớ để kiến nghị gây chiến. Loại chống Việt, muốn liên Tây đả Việt, sống kư sinh trên chiến tranh, theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc th́ Trung Quốc lâu nay luôn có, chỉ cần chúng có cái cớ ǵ đó và chúng lên cầm quyền là xong. Đại hội Đảng Trung Quốc sắp đến và chúng ta chưa biết phe nào sẽ lên nắm quyền.
Ông Bạc Hy Lai thuộc phe tả khuynh, chống Tây bị phe hữu khuynh, thân Tây Ôn Gia Bảo, Tập Cận B́nh dùng con bài Vương Lập Quân để làm cái cớ cách chức chính là 1 dấu hiệu không hay cho Việt Nam. V́ lâu nay phe đậm chất ư thức hệ như Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh luôn có những xu hướng thân Việt Nam và chống Tây, chống tư bản hơn, v́ lư do ư thức hệ.
Phe thân Tây th́ chủ trương “viễn giao cận công” (ḥa xa, chống gần). Đó là v́ sao ông tổ của Cải cách Trung Quốc và thân Mỹ là Đặng Tiểu B́nh cũng chính là tên đầu sỏ xâm lược Việt Nam trong năm 1979 trong khi phe trung thành với truyền thống, đậm chất ư thức hệ như Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong đều phản đối.
Và c̣n bao nhiêu thế lực Mỹ – Tây, phản động đang ŕnh rập t́m cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ, động lực khác nhau. Đục nước béo c̣. Thừa nước đục thả câu.
Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng t́nh h́nh vẫn đang ổn lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Mà một khi xảy ra th́ Việt Nam chắc chắn sẽ mất thêm chủ quyền và nhiều mất mát khác về vũ khí, năng lực pḥng thủ, thực lực tổng thể, kinh tế, sinh mạng con người v.v.
Cách đây 1 tuần NXB Tri Thức ở Việt Nam vừa xuất bản cuốn “Xung đột trên biển Đông không c̣n là nguy cơ tiềm ẩn” của tác giả Lê Hồng Thọ (Mỹ) và nhiều đồng tác giả trong và ngoài nước đă cho thấy chiến tranh đang ch́nh ́nh trước mắt, bất kỳ một leo thang nào, một hành động nào dẫn tới leo thang, đều có thể dẫn tới xung đột quân sự và đưa tới chiến tranh quy mô. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và thêm hàng ngàn người Việt Nam sẽ thiệt mạng, đời sống người dân đang khó khăn sẽ c̣n khó hơn, và bao công lao xây dựng hệ thống quốc pḥng trên biển và phục hồi khủng hoảng sẽ trôi sông trôi biển.
Do địa lư gần gũi thuận tiện, Trung Quốc có quan hệ ràng buộc kinh tế rất lớn với Việt Nam, là 1 thị trường xuất khẩu khổng lồ của Việt Nam, nhất là lương thực, hiện Trung Quốc đang là thị trường rộng lớn nhất và thuận tiện nhất cho người Việt Nam trong khu vực. Trong đó, Trung Quốc hiện đang nổi lên là một thị trường nhập khẩu gạo ngày càng quan trọng của Việt Nam.
Trong vòng hơn hai tháng qua chỉ riêng Trung Quốc đã nhập khẩu từ Việt Nam 500.000 tấn gạo. Dự báo trong năm nay, Trung Quốc có thể nhập khẩu từ Việt Nam ít nhất là 1 triệu tấn gạo. Nếu xảy ra chiến tranh, Trung Quốc sẽ học Mỹ ban lệnh cấm vận như thời gian 1979-1992, bao nhiêu nông dân Việt Nam sẽ phải chật vật. Năm 1992, Việt Nam đă rất khó khăn để phá thế cấm vận của Mỹ – Trung.
Tức là bên cạnh việc mất thêm chủ quyền, lănh thổ, lănh hải, máu đổ, chết chóc, đời sống dân chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khó khăn chồng chất thêm khó khăn, khủng hoảng tài chính quốc tế vừa đẩy đi phần nào sẽ trở lại. Chứ không phải chỉ có đánh nhau đổ máu trên đất liền, trong thành phố th́ mới đưa đến đổ vỡ kinh tế.
Việt Nam có hèn không? Muốn biết có hèn không th́ cứ nh́n thẳng vào thực tế về những vấn đề chính: Từ khi Việt Nam giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào, từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đếu đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc khác, trong đó có cả Trung Quốc. C̣n khi chúng chưa kéo tới đánh th́ ta luôn tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng tạm chiếm. Và liên tục tăng cường hiện đại hóa quốc pḥng, chú trọng vào hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới.
Chúng ta đánh Trung Quốc khi chúng xâm lược, cầm súng bắn vào Trung Quốc th́ sao gọi là hèn nhát? Có hành động nào dũng cảm hơn thế?
Chúng ta liên tục và thường xuyên hành xử chủ quyền, tổ chức bầu cử, khai thác tài nguyên trên những vùng Trung Quốc tuyên bố th́ sao gọi là sợ Trung Quốc?
Chúng ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những tuyên bố của Trung Quốc và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, th́ sao gọi là hèn nhát?
Chúng ta liên tục, thường xuyên công khai và chính thức khẳng định chủ quyền lănh thổ mà Trung Quốc tuyên bố. Bác bỏ và phủ định những tuyên bố chính thức của Trung Quốc, sao có thể gọi là hèn nhát?
Chúng ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, sao gọi là hèn nhát?
Chúng ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển Đông, ngay trên vùng tranh chấp, sao lại gọi là hèn nhát?
Rơ ràng Việt Nam công khai và chính thức, giữa ban ngày ban mặt quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp như trên, trong khi Trung Quốc và cả thế giới biết Việt Nam đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo, lănh hải, lănh thổ với Trung Quốc, làm sao có thể gọi là hèn được?
Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, lên trên cả mong muốn ḥa b́nh và kinh tế. Nếu Việt Nam đặt ḥa b́nh cao hơn th́ đă không có những hành động trên, mà mỗi hành động đều như tát nước vào các tuyên bố và hành động của Trung Quốc, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của Trung Quốc, mỗi hành động này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển. Việt Nam ư thức rơ điều đó, nhưng vẫn làm, v́ nó là chủ quyền, Việt Nam đặt chủ quyền lên trên ḥa b́nh.
Nếu Việt Nam đặt kinh tế lên trên chủ quyền th́ cũng như đă nói, đă không tốn hàng tỷ đô la mua nhiều vũ khí tối tân, đă không dám làm những cái ǵ có thể gây ra sự leo thang mâu thuẫn đưa tới xung đột quân sự, gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế.
Lâu nay một bộ phận trong dư luận hải ngoại thường cho rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ, những người lănh đạo CHXHCN Việt Nam, hoặc những bộ phận của Đảng và Nhà nước cộng sản là “hèn nhát” trước Trung Quốc mỗi khi Việt Nam làm cái này hoặc không làm cái kia, đặt nặng vấn đề này hoặc không đặt nặng vấn đề kia.
Tôi th́ chỉ nh́n vào vấn đề chính, cái cốt lơi nhất, đó là khi có xâm lược th́ Việt Nam sẵn sàng đánh xâm lược và khi giặc chưa xâm lược th́ Việt Nam đang tích cực bảo vệ chủ quyền bằng cách: Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc, và hiện đại hóa quân đội, nâng cao hệ thống pḥng thủ và tăng cường năng lực tác chiến pḥng thủ. Nghĩa là tất cả những ǵ liên quan đến chủ quyền th́ chúng ta đều đă và đang làm, bất kể điều này đối nghịch với lợi ích và những tuyên bố của phía Trung Quốc, bất kể những điều này có làm Trung Quốc phật ḷng hay không.
Từ thực tế khách quan trên, tôi cho rằng tất cả những hành động chính trị, quyết định chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam đều có nguyên nhân của nó, và chắc chắn không thể xuất phát từ tinh thần hèn nhát. Cách đây không lâu, Việt Nam ngay cả cầm súng bắn Trung Quốc cũng đă làm th́ không phải là hèn, và ngày nay, Việt Nam đang làm tất cả v́ chủ quyền của ḿnh bất kể nó mâu thuẫn với lợi ích Trung Quốc, như vậy không phải là hèn. Một người th́ không thể vừa “hèn” vừa “không hèn”, cho nên khi đă xác định Việt Nam không hèn th́ nên có một niềm tin nhất định, đó là niềm tin thực tế, có căn cứ, chứ không phải niềm tin mù quáng, phi thực tế, vô căn cứ.
Từ sự hiểu rơ bản chất và niềm tin trên, mỗi khi tôi thấy Việt Nam nhường Trung Quốc điều ǵ, hay tỏ thái độ mềm dẻo ǵ th́ tôi hiểu rằng đó là những sách lược chính trị tạm thời và đều có nguyên nhân sâu xa của nó, thậm chí có những vấn đề chính trị bên trong mà chúng ta chưa biết hết. Những hành động đó có thể đúng, có thể sai, có thể chúng ta đồng ư với nó, có thể chúng ta không đồng ư với nó, nhưng chắc chắn nó không phải xuất phát từ tâm lư hèn hạ, hèn nhát.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến quan hệ Việt – Trung là mối quan hệ nhạy cảm và Trung Quốc luôn là bóng ma ám ảnh cho chủ quyền Việt Nam và là mối đe dọa lớn nhất cho chủ quyền lănh thổ Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên nhân v́ sao các lănh đạo Việt Nam coi đây là vấn đề nhạy cảm, và trong đó đều là những nguyên nhân khách quan với mong muốn trước hết là bảo vệ chủ quyền lănh thổ, sau là bảo vệ ḥa b́nh, tránh chiến tranh tàn phá đất nước, chiến sĩ hy sinh, đồng bào đổ máu, bao nhiều thành tựu từ Đổi mới, bao nhiêu nỗ lực xây dựng đất nước và hồi phục suy thoái kinh tế toàn cầu trở thành công cốc. Chứ trong đó không có cái ǵ là từ sự nhát, sợ Trung Quốc, hay hèn như một số người đă lầm tưởng.
Hiện Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Việt Nam nhất. Do địa lư gần gũi thuận lợi, do có mâu thuẫn trực tiếp chủ quyền lănh thổ và những nguồn lợi kinh tế biển, trong đó có những nguồn dầu ở Biển Đông.
Trung Quốc chưa gây chiến, chưa xâm lược là v́ họ vẫn c̣n đang muốn giữ ḥa b́nh để tập trung phát triển kinh tế và đang chưa có cái cớ nào khả dĩ để mà có thể dùng làm chiêu bài chính trị. Khi phe hiếu chiến lên nắm quyền, th́ bất kỳ 1 chuyện nhỏ nào cũng có thể được dùng để khai thác, đào bới, khoét sâu, thổi phồng lên để h́nh thành 1 chiêu bài chính trị gây chiến.
Đừng tưởng sự dung dưỡng, thả lỏng đối với những chuyện nhỏ không thể tích tụ thành một chuyện lớn, tạo điều kiện cho Trung Quốc tuyên truyền thổi phồng, nâng cao quan điểm, leo thang mâu thuẫn, leo thang xung đột, từ khẩu chiến đến chiến tranh lạnh rồi tới xung đột quân sự, rồi tới chiến tranh toàn diện chỉ trong tích tắc (xem cuộc chiến 1979).
Đối với Trung Quốc là sự chưa muốn gây chiến. C̣n đối với Việt Nam là sự hoàn toàn không muốn có chiến tranh lúc này. Việt Nam đang “sợ” chiến tranh hơn Trung Quốc là v́ Việt Nam có nhiều thứ để mất hơn Trung Quốc, thế yếu hơn Trung Quốc, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa Trung Quốc. Thực lực đôi bên một trời một vực. Thực lực tổng thể đă một trời một vực, thực lực quân sự trên biển và trên không cũng c̣n một khoảng cách rất xa.
Nếu chiến tranh trên bộ th́ Trung Quốc chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm 1979, không có cơ hội nào thôn tính Việt Nam. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển trong 1 h́nh thái chiến tranh mới, phụ thuộc nhiều vào sức mạnh vũ khí không quân và hải quân để làm chủ vùng trời và vùng biển th́ hầu như chắc chắn Việt Nam sẽ thua và bị mất thêm chủ quyền, hầu hết các chuyên gia quân sự quốc tế đều đồng thuận với nhau về điểm này. Bởi v́ trên biển và trên không, Việt Nam không thể áp dụng chiến tranh nhân dân và khó thể áp dụng chiến tranh du kích như trên bộ.
Trong cuộc chiến, sự thiệt hại của Trung Quốc nếu có chỉ sẽ là rất nhỏ so với thực lực tổng thể của họ, họ sẽ tốn thật nhiều lính mà họ có thể đang ngầm muốn chết bớt do nạn dân số và trai thừa gái thiếu, họ đang muốn “tống khứ” bao nhiêu đàn ông Trung Quốc đi ra nước ngoài qua nhiều h́nh thức khác nhau c̣n không kịp th́ họ sẽ không tiếc sinh mạng những người lính. Nhưng Việt Nam th́ tiếc mạng sống binh sĩ và đồng bào.
Có thể Trung Quốc sẽ mất vài tỷ đô la, một phần vũ khí sẽ bị hư hại, một số tàu sẽ ch́m, rồi sao? Họ c̣n bao nhiêu tiền với tiềm lực kinh tế đó và c̣n bao nhiêu vũ khí khác chưa dùng và họ rất sẵn sàng mua lại hoặc chế mới để bổ sung, hiện họ vẫn đang mua sắm và sản xuất đều đặn.
Dù Việt Nam có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, nhưng trong 1 cuộc chiến tranh trên biển, dù 1 tàu Việt Nam, 1 máy bay Việt Nam thiện chiến nhất thế giới th́ cao lắm có thể chọi 3 tàu địch, máy bay địch, Việt Nam sẽ gây thiệt hại nặng cho địch về vũ khí, mạng đổi mạng với địch, nhưng sau khi ta hết vốn, địch cho bổ sung th́ ta sẽ đưa lưng ra chịu đ̣n. Rồi sẽ có bao nhiêu Gạc Ma khác, có bao nhiêu Ṿng tṛn bất tử khác, bao nhiêu Quảng Trị khác (Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam không có không quân và hải quân nên trơ trọi chịu trận trước không quân Mỹ và Hạm đội 7 của Mỹ dội bom và pháo kích vào, quân đội ban đầu có cả ngàn người nhưng không c̣n bao nhiêu người sống sót, nhưng quyết bám đất đến cùng, không bỏ chạy, đó cũng là 1 Ṿng tṛn bất tử trong thời chống Mỹ.). Rồi ta sẽ mất bao nhiêu băi Gạc Ma nữa, bao nhiêu người sẽ hy sinh nữa?
Và đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hết vốn, địch vẫn c̣n vốn và tiếp tục mua mới, sản xuất với tiềm lực kinh tế đó, c̣n ta th́ biết bao giờ mới xây dựng lại được 1 lực lượng hải quân tạm có tính răn đe như hiện nay? Bao giờ mới có lại những vũ khí hiện đại đó? Những anh bạn “không hèn” có sẵn sàng thắt lưng buộc bụng để cho Việt Nam có thể áp dụng chính sách Tiên quân (quân đội trước) như Triều Tiên hay không?
Khi nói, phán, chửi, chê th́ rất dễ, không có ǵ dễ hơn, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy bao nhiêu chuyện. Đứng ngoài phê phán th́ bao giờ cũng là dễ nhất.
Lực lượng hải quân và không quân Việt Nam hiện nay tuy đang được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn chỉ có tính răn đe, làm cho Trung Quốc chùn bước phần nào v́ sợ tổn thất vũ khí và tiền bạc, chứ nó chưa đủ sức bảo vệ chủ quyền lănh thổ nếu có 1 cuộc chiến tranh toàn diện tại đây. Hải quân Trung Quốc năm 2012 ngày nay không phải là hải quân lạc hậu năm 1988.
V́ những lẽ đó, mới có xu hướng nhường nhịn, lấy đại cuộc làm đầu, 1 câu nhịn 9 câu lành để bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ ǵn ḥa b́nh và sự ổn định trong khu vực. V́ khi có chiến tranh, Việt Nam ít nhiều ǵ cũng sẽ mất thêm chủ quyền, mất đi năng lực pḥng thủ cho sau này, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền, bao nhiêu người hy sinh, và sẽ c̣n nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn. Chính những lợi ích dân tộc đó, những lợi ích quốc gia đó của đất nước, mà chúng ta cố gắng không để bất kỳ cái ǵ biến thành (hoặc có thể để cho Trung Quốc sử dụng) một cuộc leo thang mâu thuẫn, xung đột từng bước.
Năm 1992 Việt Nam khó khăn lắm mới đấu tranh thuyết phục Trung Quốc kư vào hiệp nghị gác lại quá khứ và không tuyên truyền chống nhau, để hoàn toàn b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, xây dựng không khí ḥa b́nh, xua tan không khí chiến tranh lạnh có thể bùng nổ thành chiến tranh nóng bất cứ lúc nào giữa 2 nước. Và lâu nay Trung Quốc về cơ bản vẫn ngăn chặn những thông tin về cuộc chiến năm 1979 và hải chiến TS. Bây giờ khi xảy ra cái ǵ, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo Việt Nam vi phạm hiệp định rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger Trung Quốc, hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam, xúc phạm những anh hùng liệt sĩ Việt Nam, xuyên tạc cuộc chiến 1979 và Hải chiến TS, Ṿng tṛn bất tử, Gạc Ma … th́ có phải là sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột, xung đột này mở ra xung đột kia hay không?
Và Việt Nam có thắng nổi một cuộc chiến tranh thông tin với Trung Quốc hay không? Thông tấn xă Việt Nam là ǵ so với Tân Hoa xă, CCTV có chi nhánh khắp thế giới? Cộng đồng mạng Việt Nam tỷ lệ so sánh với cộng đồng mạng Trung Quốc thế nào, rồi sự khổng lồ áp đảo này sẽ tác động tới quốc tế thế nào?
Trung Quốc không sợ chiến tranh, càng không sợ 1 cuộc chiến trên biển với Việt Nam v́ họ biết ưu thế của họ và khuyết điểm quân sự của Việt Nam chưa đủ thời gian để lấp lại. Và 1 bộ phận bá quyền, bành trướng, phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh vẫn c̣n đó, chúng nó đang chực chờ 1 cái cớ để kiến nghị gây chiến. Loại chống Việt, muốn liên Tây đả Việt, sống kư sinh trên chiến tranh, theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc th́ Trung Quốc lâu nay luôn có, chỉ cần chúng có cái cớ ǵ đó và chúng lên cầm quyền là xong. Đại hội Đảng Trung Quốc sắp đến và chúng ta chưa biết phe nào sẽ lên nắm quyền.
Ông Bạc Hy Lai thuộc phe tả khuynh, chống Tây bị phe hữu khuynh, thân Tây Ôn Gia Bảo, Tập Cận B́nh dùng con bài Vương Lập Quân để làm cái cớ cách chức chính là 1 dấu hiệu không hay cho Việt Nam. V́ lâu nay phe đậm chất ư thức hệ như Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh luôn có những xu hướng thân Việt Nam và chống Tây, chống tư bản hơn, v́ lư do ư thức hệ.
Phe thân Tây th́ chủ trương “viễn giao cận công” (ḥa xa, chống gần). Đó là v́ sao ông tổ của Cải cách Trung Quốc và thân Mỹ là Đặng Tiểu B́nh cũng chính là tên đầu sỏ xâm lược Việt Nam trong năm 1979 trong khi phe trung thành với truyền thống, đậm chất ư thức hệ như Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong đều phản đối.
Và c̣n bao nhiêu thế lực Mỹ – Tây, phản động đang ŕnh rập t́m cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ, động lực khác nhau. Đục nước béo c̣. Thừa nước đục thả câu.
Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng t́nh h́nh vẫn đang ổn lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Mà một khi xảy ra th́ Việt Nam chắc chắn sẽ mất thêm chủ quyền và nhiều mất mát khác về vũ khí, năng lực pḥng thủ, thực lực tổng thể, kinh tế, sinh mạng con người v.v.
Cách đây 1 tuần NXB Tri Thức ở Việt Nam vừa xuất bản cuốn “Xung đột trên biển Đông không c̣n là nguy cơ tiềm ẩn” của tác giả Lê Hồng Thọ (Mỹ) và nhiều đồng tác giả trong và ngoài nước đă cho thấy chiến tranh đang ch́nh ́nh trước mắt, bất kỳ một leo thang nào, một hành động nào dẫn tới leo thang, đều có thể dẫn tới xung đột quân sự và đưa tới chiến tranh quy mô. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và thêm hàng ngàn người Việt Nam sẽ thiệt mạng, đời sống người dân đang khó khăn sẽ c̣n khó hơn, và bao công lao xây dựng hệ thống quốc pḥng trên biển và phục hồi khủng hoảng sẽ trôi sông trôi biển.
Do địa lư gần gũi thuận tiện, Trung Quốc có quan hệ ràng buộc kinh tế rất lớn với Việt Nam, là 1 thị trường xuất khẩu khổng lồ của Việt Nam, nhất là lương thực, hiện Trung Quốc đang là thị trường rộng lớn nhất và thuận tiện nhất cho người Việt Nam trong khu vực. Trong đó, Trung Quốc hiện đang nổi lên là một thị trường nhập khẩu gạo ngày càng quan trọng của Việt Nam.
Trong vòng hơn hai tháng qua chỉ riêng Trung Quốc đã nhập khẩu từ Việt Nam 500.000 tấn gạo. Dự báo trong năm nay, Trung Quốc có thể nhập khẩu từ Việt Nam ít nhất là 1 triệu tấn gạo. Nếu xảy ra chiến tranh, Trung Quốc sẽ học Mỹ ban lệnh cấm vận như thời gian 1979-1992, bao nhiêu nông dân Việt Nam sẽ phải chật vật. Năm 1992, Việt Nam đă rất khó khăn để phá thế cấm vận của Mỹ – Trung.
Tức là bên cạnh việc mất thêm chủ quyền, lănh thổ, lănh hải, máu đổ, chết chóc, đời sống dân chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khó khăn chồng chất thêm khó khăn, khủng hoảng tài chính quốc tế vừa đẩy đi phần nào sẽ trở lại. Chứ không phải chỉ có đánh nhau đổ máu trên đất liền, trong thành phố th́ mới đưa đến đổ vỡ kinh tế.
Việt Nam có hèn không? Muốn biết có hèn không th́ cứ nh́n thẳng vào thực tế về những vấn đề chính: Từ khi Việt Nam giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào, từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đếu đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc khác, trong đó có cả Trung Quốc. C̣n khi chúng chưa kéo tới đánh th́ ta luôn tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng tạm chiếm. Và liên tục tăng cường hiện đại hóa quốc pḥng, chú trọng vào hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới.
Chúng ta đánh Trung Quốc khi chúng xâm lược, cầm súng bắn vào Trung Quốc th́ sao gọi là hèn nhát? Có hành động nào dũng cảm hơn thế?
Chúng ta liên tục và thường xuyên hành xử chủ quyền, tổ chức bầu cử, khai thác tài nguyên trên những vùng Trung Quốc tuyên bố th́ sao gọi là sợ Trung Quốc?
Chúng ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những tuyên bố của Trung Quốc và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, th́ sao gọi là hèn nhát?
Chúng ta liên tục, thường xuyên công khai và chính thức khẳng định chủ quyền lănh thổ mà Trung Quốc tuyên bố. Bác bỏ và phủ định những tuyên bố chính thức của Trung Quốc, sao có thể gọi là hèn nhát?
Chúng ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, sao gọi là hèn nhát?
Chúng ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển Đông, ngay trên vùng tranh chấp, sao lại gọi là hèn nhát?
Rơ ràng Việt Nam công khai và chính thức, giữa ban ngày ban mặt quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp như trên, trong khi Trung Quốc và cả thế giới biết Việt Nam đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo, lănh hải, lănh thổ với Trung Quốc, làm sao có thể gọi là hèn được?
Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, lên trên cả mong muốn ḥa b́nh và kinh tế. Nếu Việt Nam đặt ḥa b́nh cao hơn th́ đă không có những hành động trên, mà mỗi hành động đều như tát nước vào các tuyên bố và hành động của Trung Quốc, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của Trung Quốc, mỗi hành động này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển. Việt Nam ư thức rơ điều đó, nhưng vẫn làm, v́ nó là chủ quyền, Việt Nam đặt chủ quyền lên trên ḥa b́nh.
Nếu Việt Nam đặt kinh tế lên trên chủ quyền th́ cũng như đă nói, đă không tốn hàng tỷ đô la mua nhiều vũ khí tối tân, đă không dám làm những cái ǵ có thể gây ra sự leo thang mâu thuẫn đưa tới xung đột quân sự, gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế.