vuitoichat
04-18-2012, 10:41
(LTS: Bài này thuyết tŕnh tại Hội Thảo Chính Trị: Định Hướng Đấu Tranh Cho Việt Nam Tự Do ngày Chủ Nhật 15-4-2012 tại Westminster, Califrornia.)
Giới thiệu về Giáo sư Nguyễn Chính Kết:
Sinh năm 1952, tại tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Thời niên thiếu, ông tu học để sau này thành linh mục tại tiểu chủng viện thánh Giuse, Sàig̣n và tại Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Đà Lạt, đồng thời học Triết Học tại Đại học Đà Lạt.
Sau khi xuất tu ông tiếp tục phục vụ Giáo Hội Công giáo, nghiên cứu Kinh Thánh và thần học Á châu, viết báo, viết sách, dạy triết học tại một số tu viện tại Sàig̣n, cộng tác với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong một vài tiểu ban của Hội Đồng về Giáo dân,
Đầu năm 2001, ông bắt đầu lên tiếng ủng hộ cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo của Lm Nguyễn Văn Lư bằng những bài viết trên mạng Internet.
Tháng 3-2001, ông cùng giáo sư Đỗ Hữu Nghiêm thành lập văn pḥng đối lập theo đề nghị của HT Thích Quảng Độ. Sự việc này bị lộ, Gs Nghiêm và ông bị công an đến xét nhà, tịch thu máy vi tính, các dĩa CD và floppy, nhiều tài liệu dân chủ, và bị thẩm vấn liên tục suốt một tháng và lai rai nhiều tháng sau đó.
Cuối năm 2005, ông bắt đầu liên kết với các nhà đấu tranh dân chủ và nhân quyền khác, đồng thời mở rộng phạm vi đấu tranh sang lănh vực nhân quyền và tự do dân chủ.
Tháng 4-2006, ông tham gia thành lập Khối 8406, trở thành một thành viên tích cực của Khối này.
Ngày 16/10/2006, ông tham gia thành lập Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam 2006, và là một thành viên trong Ban Điều Hành của Liên Minh.
Giữa tháng 11/2006, ông Đỗ Nam Hải và ông được Mạng Lưới Nhân quyền tại Nam Cali mời sang lănh giải nhân quyền do mạng lưới trao giải. Cuối tháng 12, ông đă đến Hoa Kỳ bằng cách qua nẻo Cambodge.
Ông cũng được Human Rights Watch trao giải thưởng Nhân quyền năm 2007 cùng với 7 nhà đấu tranh Việt Nam khác.
Ngày 18-10-2007, ông được Ban Đại Diện Lâm Thời Khối 8406 bổ nhiệm làm thành viên Ban Đại Diện của Khối 8406 và là Đại Diện của Khối 8406 tại hải ngoại.)
Hiện nay, CSVN đang phải chịu áp lực nghịch chiều nhau từ nhiều phía:
- Áp lực từ ngoài vào hay áp lực quốc tế:
– từ Trung cộng: nhằm xâm lược Việt Nam, duy tŕ chế độ cộng sản tại Việt Nam, buộc CSVN nhượng đất nhượng biển và đàn áp những ai phản đối việc Trung cộng xâm phạm lănh thổ Việt Nam.
– từ Thế giới Tự do: buộc Việt Nam tôn trọng nhân quyền.
- Áp lực từ bên trong hay từ người dân trong nước: đ̣i hỏi CSVN tôn trọng nhân quyền, tôn trọng quyền tự quyết của người dân, và thay đổi chế độ.
Giữa hai thứ áp lực quốc tế ngược chiều nhau, CSVN phải chấp nhận thế đu giây để tồn tại. Tuy nhiên, thế đu giây này cũng có một lợi điểm cho CSVN: Cả Trung cộng lẫn các nước tự do đều không dám áp lực CSVN quá mạnh, v́ điều đó sẽ đẩy CSVN vào ṿng tay của phía đối nghịch.
Đối với áp lực từ phía người dân hiện c̣n yếu, CSVN chủ trương đàn áp mạnh tay, tiêu diệt từ trong trứng nước mọi liên kết, mọi tổ chức… nhưng có thực hiện được hay không c̣n tùy thuộc vào áp lực nhân quyền từ phía thế giới tự do.
I. Áp lực quốc tế
Hiện nay, CSVN đang bị hai thứ áp lực quốc tế ngược chiều nhau, cả hai đều rất mạnh, khiến CSVN lâm vào thế rất khó xử:
A) Áp lực từ Trung cộng:
Áp lực này buộc CSVN phải làm nhiều điều bất lợi cho quyền lợi cũng như cho sự sống c̣n và phát triển của dân tộc, như nhượng đất nhượng biển cho Trung cộng, đàn áp những người yêu nước muốn bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ… CSVN phải chấp nhận áp lực này để được Trung cộng bảo hộ cho chế độ độc tài, hà khắc và đầy tội ác của ḿnh.
Lư do khiến Việt Nam chịu áp lực:
– Địa thế Việt Nam giáp ranh Trung Quốc: Việt Nam là một nước nhỏ bé bên cạnh một nước lớn luôn luôn có tham vọng bành trướng lănh thổ. Từ bao thế kỷ, Trung Quốc luôn luôn muốn biến nước ta thành một quận huyện của họ. Họ đă xâm lược Việt Nam nhiều lần, và đă từng cai trị đất nước ta cả ngàn năm. Chống ngoại xâm, cụ thể là chống Trung Quốc, là một chủ đề chính trong lịch sử Việt Nam.
– Trung cộng có nhu cầu giải quyết nạn nhân măn và nhu cầu kinh tế cho người dân quá đông: Dân Trung Quốc quá đông, nằm sâu trong đại lục, không có nhiều đường biển để giao thương với thế giới. Việt Nam là một vị trí rất thuận lợi cho sự giao thương quốc tế, lại có nhiều mỏ (dầu, than, vàng bạc, uranium), nên là một cám dỗ rất lớn cho mộng xâm lược của Trung cộng hiện nay.
– CSVN mắc nợ Trung cộng quá nhiều trong việc cướp chính quyền cả hai miền Bắc Nam: Hồ Chí Minh đă cậy dựa, nhờ sự giúp đỡ và vay mượn nhiều mặt của Trung cộng (vơ khí, lương thực, cố vấn chiến lược – chiến thuật…) để cướp chính quyền ở Miền Bắc năm 1945, và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam suốt 2 thập niên (1954-1975). Khi đă chiếm được trọn cả đất nước, CSVN phải trả nợ Trung cộng bằng sự lệ thuộc, bằng lănh thổ lănh hải, bằng quyền lợi dân tộc.
– Trung cộng đă cài được người của họ vào bộ máy cai trị của CSVN ở thượng tầng cũng như hạ tầng cơ sở (sau hàng mấy chục năm cậy nhờ vào Trung cộng): Qua những tên tay sai được cài vào bộ máy cai trị của CSVN, Trung cộng đang thật sự điều hành bộ máy cai trị của CSVN, khiến cho rất nhiều quyết định của Đảng, Bộ Chính trị, ba ngành Lập Pháp – Hành Pháp – Tư Pháp có lợi cho Trung cộng. Những người trong bộ máy cai trị có tinh thần dân tộc, không chấp nhận Trung cộng, có khuynh hướng thân Mỹ, thường không dám biểu lộ lập trường chống Trung cộng v́ sợ bị thanh trừng (bị mất quyền lợi, địa vị, tài sản, có thể mất mạng). Nên phe thân Trung cộng trong bộ máy cai trị vẫn chiếm ưu thế, họ đang nắm được cả công an lẫn quân đội (1).
– CSVN sẵn sàng chấp nhận áp lực của Trung cộng: Mục đích tối hậu của Trung cộng là xâm chiếm Việt Nam để giải quyết nạn nhân măn và nhu cầu kinh tế, giao thương với thế giới. Mục đích tối hậu của CSVN là duy tŕ chế độ độc tài để tiếp tục cưỡi đầu cưỡi cổ dân tộc. Cùng chủ trương độc tài như CSVN, Trung cộng sẵn sàng bảo trợ cho chế độ độc tài của CSVN được sống c̣n, nên CSVN sẵn sàng nhượng bộ trước những áp lực của Trung cộng.
B) Áp lực từ những nước tự do dân chủ:
Các quốc gia tự do thường có lư tưởng dân chủ, họ chủ trương phổ biến và phát huy tinh thần tự do, dân chủ và nhân quyền đến mọi dân tộc. Nhưng họ cũng có nhu cầu phát triển kinh tế và giao thương với mọi dân tộc. Các nước này tùy theo t́nh h́nh từng thời điểm mà ưu tiên cho lư tưởng dân chủ hay cho nhu cầu phát triển. Hiện nay, t́nh h́nh kinh tế toàn cầu đang gặp khủng hoảng, các nước tự do thường ưu tiên đặt nặng việc giải quyết kinh tế hơn lư tưởng dân chủ.
Với lư tưởng dân chủ, các quốc gia tự do đ̣i buộc CSVN phải tôn trọng nhân quyền, quyền tự do của người dân, không được đàn áp dân chúng, phải trả tự do cho các tù nhân lương tâm… CSVN cần giao thương với các nước dân chủ vốn giàu có trên thế giới và muốn được họ viện trợ về nhiều mặt. Các nước dân chủ thường lợi dụng nhu cầu này của CSVN để áp lực CSVN phải tôn trọng nhân quyền. CSVN buộc phải chấp nhận áp lực này để có thể giao thương với các nước tự do hầu phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, áp lực quốc tế lên CSVN về mặt nhân quyền rất giới hạn, v́:
? V́ t́nh h́nh kinh tế khó khăn hiện nay trên toàn thế giới, các quốc gia tự do muốn giao thương với Việt Nam để có lợi về kinh tế, chính trị, nên không muốn khó dễ Việt Nam về mặt nhân quyền hầu tránh những bất lợi về mặt ngoại giao và giao thương…
? CSVN đặt ưu tiên việc bảo vệ chế độ hơn việc phát triển kinh tế, nên CSVN chỉ chấp nhận nhượng bộ áp lực nhân quyền trong mức độ không nguy hiểm cho sự tồn tại của chế độ. Áp lực quốc tế về nhân quyền dù có mạnh, nhưng nếu nguy hiểm cho sự tồn tại của chế độ, CSVN sẽ bất chấp: thà bị quốc tế trừng phạt c̣n hơn để mất quyền lực và bị nhân dân lật đổ.
? Các quốc gia tự do không dám áp lực mạnh về nhân quyền v́ sợ CSVN đứng hẳn về phía Trung cộng để nước này bảo vệ cho chế độ độc tài của ḿnh. Điều này có thể bất lợi cho dân tộc Việt Nam (2).
? Các nước tự do cần giao thương với Trung cộng, một thị trường lớn rất béo bở và giá nhân công rẻ, nên có khi phải nhân nhượng trước những yêu cầu của Trung cộng trong vấn đề Việt Nam.
II. Sự phản kháng của quần chúng quốc nội
A) Nguyên nhân:
Càng ngày CSVN càng lộ rơ bản chất là:
– một đảng cướp, tham tàn: cướp đất đai, tài sản, kể cả những kẻ nghèo nhất… cướp cả những quyền căn bản của người dân, kể cả quyền tự vệ… dùng cả một hệ thống nhà nước với 3 ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp để ăn cướp… sẵn sàng dồn người dân vào đường cùng, không c̣n đường sống.
– tham quyền cố vị, độc tài toàn trị: bảo vệ bằng bất cứ giá nào độc quyền cai trị, độc quyền ăn cướp, độc quyền cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân…
– một tập đoàn buôn dân bán nước: đă từng bán đất bán biển và sẵn sàng bán cả đất nước cho ngoại bang, bất chấp hậu quả tai hại khôn lường cho cả dân tộc.
B) Sự phản kháng của người dân:
Trước những hành động gian ác của CSVN, dân chúng kẻ trước người sau ngày càng ư thức được bản chất xấu xa của CSVN và ngày càng phẫn nộ, nên có khuynh hướng phản kháng, đ̣i công lư, muốn thay đổi chế độ. Người dân ngày càng có nhiều người vượt thắng được nỗi sợ hăi cố hữu để đấu tranh, không chỉ với tư cách cá nhân, mà c̣n liên kết thành phong trào, tổ chức đấu tranh:
– đ̣i dân chủ, nhân quyền: Khối 8406, Đảng Thăng Tiến, Đảng Dân chủ 21, Liên minh dân chủ nhân quyền, Công Đoàn Độc Lập, Lực lượng Đoàn Kết Công Nông, Ủy ban Nhân quyền Việt Nam…
– đ̣i công bằng xă hội: dân oan biểu t́nh đ̣i đất, giáo xứ Thái Hà, Cồn Dầu… công nhân đ́nh công…
– đ̣i toàn vẹn lănh thổ: giới trí thức sinh viên biểu t́nh chống Trung cộng, phản đối CSVN tiếp tay bán nước… Biểu t́nh chống rước đuốc Olympic Bắc Kinh (tháng 4/2008), biểu t́nh đ̣i Hoàng Sa, Trường Sa tại Hà Nội và Sàig̣n (tháng 6,7,8/2011),
Phương cách đấu tranh: ôn ḥa, bất bạo động, tránh vi phạm luật (kẻo bị kết án), chỉ sử dụng những phương tiện tốt… Nhưng khi bị dồn đến đường cùng, người dân đôi khi sẵn sàng bạo động để tự vệ: vụ Đoàn Văn Vươn, vụ Bắc Giang, vụ Mường Nhé, vụ Long Thành (xă Long Hưng)…
Phương tiện đấu tranh: sử dụng mọi phương tiện thông tin (Internet, web, blog, facebook, twitter, email, paltalk, viết bài, truyền đơn, biểu ngữ…), âm thầm liên kết, biểu t́nh…
Người dân khi chống lại bạo quyền, tuy có chính nghĩa, có tiềm năng rất lớn, nhưng không có thực lực…
– do thiếu tổ chức, thiếu lănh đạo, thiếu tài chánh…
– không được đào tạo (về chính trị, quân sự, óc tổ chức, kỹ thuật lănh đạo, khả năng giữ bí mật)…
– đấu tranh mang tính tự phát, mạnh ai nấy làm, không có kế hoạch chung, đường lối chung…
– dễ bị chia rẽ, do kế ly gián của cộng sản và do đố kỵ, do nghi ngờ nhau (không phân biệt được Ta, Bạn và Thù)…
C) Sự đàn áp của bạo quyền:
CSVN cương quyết bảo vệ độc quyền cai trị đất nước với bất cứ giá nào, bất chấp đạo lư, quyền lợi của dân tộc, nên quyết tâm sử dụng bạo lực để dẹp tan từ trứng nước mọi mầm mống phản đối, đ̣i công lư, tự do, nhân quyền, dân chủ, tiêu diệt mọi tổ chức, bẻ găy mọi liên kết đấu tranh chống lại họ.
Nhờ kinh tế phát triển, nhờ tiền viện trợ từ nhiều nước, nhờ đồng bào hải ngoại gửi tiền về cho thân nhân trong nước, nhờ tiền thuế của nhân dân, Đảng và Nhà Nước rất giàu có, có thể trả lương công an, cán bộ rất cao để họ sẵn sàng bảo vệ chế độ, ngăn chặn những ai đ̣i hỏi tự do, nhân quyền, có ảnh hưởng xấu đến chế độ.
Ngoài ra, họ c̣n có đầy đủ phương tiện để đàn áp dân chúng: quyền lực, luật pháp, công an, quân đội, ṭa án, vơ khí, súng đạn, tiền bạc… Nhờ t́nh báo nằm vùng được cài trà trộn trong mọi giới dân chúng, khả năng nghe lén điện thoại, đọc lén email, họ có thể có thông tin đầy đủ về mọi động thái chống đối của dân chúng để sẵn sàng tiêu diệt đối kháng (3).
III. Áp dụng vào cuộc đấu tranh dân chủ Việt Nam
A) Phải tự lực, đừng mong đợi quá nhiều nơi áp lực quốc tế
Trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của quê hương đất nước, chúng ta cần vận động sự ủng hộ của quốc tế, yêu cầu các nước tự do áp lực lên CSVN. Tuy nhiên, chúng ta không nên trông cậy quá nhiều vào sự giúp đỡ của quốc tế, mà phải t́m cách phát triển nội lực của chính chúng ta. Theo nhận định của cụ Phan Chu Trinh, người Việt có tính vọng ngoại và yêu nước kiểu hẹp ḥi. Tính vọng ngoại khiến ta trông cậy và ỷ lại vào sức của người, không tin tưởng và phát huy sức mạnh của ḿnh (4).
Muốn chiến thắng Cộng sản, chúng ta cần phải quyết tâm củng cố nội lực hơn là dựa dẫm vào người Mỹ hay vào quốc tế. Chẳng ai thương chúng ta, dân tộc chúng ta bằng chính chúng ta cả. Nếu chúng ta không nhất tâm tự cứu lấy chính ḿnh th́ sẽ chẳng có ai ra tay cứu chúng ta cả. Khi chúng ta thật sự có nội lực, các thế lực khác mới sẵn sàng hợp lực giúp chúng ta. Aide-toi, le Ciel taidera! (5)
Nội lực chỉ có khi chúng ta biết hợp lực đoàn kết và thống nhất ư chí, đường lối. Chúng ta biểu lộ quyết tâm chiến thắng cộng sản, nhưng trong thực tế lại không quyết tâm tạo đoàn kết là điều kiện không có không được để có sức mạnh mà chiến thắng (6). Do đó, quyết tâm chiến thắng cộng sản dường như chỉ là quyết tâm ngoài môi miệng chứ không phải thực tâm (7).
Chúng ta trông cậy vào người Mỹ nhiều quá, chúng ta muốn nhờ Mỹ áp lực CSVN trong khi chính chúng ta có thể tự áp lực CSVN một cách hữu hiệu mà chúng ta không chịu làm. Chẳng hạn, chúng ta có thể hạn chế việc du lịch về Việt Nam, hạn chế gửi tiền về Việt Nam, chỉ gửi tiền hay đi về Việt Nam khi nào thật cần thiết. V́ hiện nay, chế độ CSVN tồn tại được một phần khá lớn là nhờ hàng chục tỉ đôla mỗi năm mà Người Việt hải ngoại gửi về hoặc đem về qua ngả du lịch, và phần nào do sự đầu tư làm ăn của Người Việt hải ngoại tại Việt Nam.
B) Phải vận động quốc tế cách hợp lư
Chính sách của các nước tự do có những điều bất lợi cho công cuộc đấu tranh dân chủ tại Việt Nam, trong đó có những điều không thay đổi được và những điều có thể thay đổi.
– Đối với những điều không thay đổi được, chúng ta có cố gắng vận động thay đổi cách mấy cũng vô ích.
– Đối với những điều có thể thay đổi, chúng ta có thể tạo thay đổi, nếu chúng ta biết vận động đúng cách. Vận động không đúng cách th́ khó mà thay đổi.
Do đó, cần nhận định và phân biệt hai loại trên, để đừng phí sức vào những việc không thể thay đổi.
a. Đừng phí sức vào những ǵ không thể thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ
Chính phủ Mỹ hoạt động theo chính sách và đường lối của họ. Các quốc gia tự do dân chủ khác cũng tương tự như vậy. Riêng đối với Mỹ, chính sách của họ nhiều khi mang tính toàn cầu, v́ một cách nào đó, Mỹ đang là quốc gia có tầm vóc lănh đạo thế giới… Nhiều khi v́ lợi ích của một số quốc gia nào đó, chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ chấp nhận hy sinh lợi ích của một hay vài quốc gia nhược tiểu.
Nếu chính sách hay đường lối của Hoa Kỳ có những điểm quan trọng bất lợi cho đất nước ḿnh, th́ dù có vận động giỏi cách mấy, chúng ta cũng khó mà thay đổi được những điều quan trọng ấy. Do đó, chúng ta đừng bao giờ phí th́ giờ và công sức cho những vận động bất khả thi hầu dồn nỗ lực vào những vận động có tính khả thi.
Chẳng hạn, nếu Mỹ chủ trương giao thương với Trung cộng hay với Việt Nam, sẵn sàng ưu đăi hai nước này trong một số lănh vực (WTO, Quy chế Tối Huệ Quốc…)(8), điều này có thể khiến chế độ độc tài cộng sản phát triển và tồn tại lâu dài, rất bất lợi cho dân tộc Việt Nam, th́ dù vận động mạnh mẽ đến đâu, chúng ta cũng không thể khiến Mỹ ngưng thực hiện chủ trương đó (9).
Giới thiệu về Giáo sư Nguyễn Chính Kết:
Sinh năm 1952, tại tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Thời niên thiếu, ông tu học để sau này thành linh mục tại tiểu chủng viện thánh Giuse, Sàig̣n và tại Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Đà Lạt, đồng thời học Triết Học tại Đại học Đà Lạt.
Sau khi xuất tu ông tiếp tục phục vụ Giáo Hội Công giáo, nghiên cứu Kinh Thánh và thần học Á châu, viết báo, viết sách, dạy triết học tại một số tu viện tại Sàig̣n, cộng tác với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong một vài tiểu ban của Hội Đồng về Giáo dân,
Đầu năm 2001, ông bắt đầu lên tiếng ủng hộ cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo của Lm Nguyễn Văn Lư bằng những bài viết trên mạng Internet.
Tháng 3-2001, ông cùng giáo sư Đỗ Hữu Nghiêm thành lập văn pḥng đối lập theo đề nghị của HT Thích Quảng Độ. Sự việc này bị lộ, Gs Nghiêm và ông bị công an đến xét nhà, tịch thu máy vi tính, các dĩa CD và floppy, nhiều tài liệu dân chủ, và bị thẩm vấn liên tục suốt một tháng và lai rai nhiều tháng sau đó.
Cuối năm 2005, ông bắt đầu liên kết với các nhà đấu tranh dân chủ và nhân quyền khác, đồng thời mở rộng phạm vi đấu tranh sang lănh vực nhân quyền và tự do dân chủ.
Tháng 4-2006, ông tham gia thành lập Khối 8406, trở thành một thành viên tích cực của Khối này.
Ngày 16/10/2006, ông tham gia thành lập Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam 2006, và là một thành viên trong Ban Điều Hành của Liên Minh.
Giữa tháng 11/2006, ông Đỗ Nam Hải và ông được Mạng Lưới Nhân quyền tại Nam Cali mời sang lănh giải nhân quyền do mạng lưới trao giải. Cuối tháng 12, ông đă đến Hoa Kỳ bằng cách qua nẻo Cambodge.
Ông cũng được Human Rights Watch trao giải thưởng Nhân quyền năm 2007 cùng với 7 nhà đấu tranh Việt Nam khác.
Ngày 18-10-2007, ông được Ban Đại Diện Lâm Thời Khối 8406 bổ nhiệm làm thành viên Ban Đại Diện của Khối 8406 và là Đại Diện của Khối 8406 tại hải ngoại.)
Hiện nay, CSVN đang phải chịu áp lực nghịch chiều nhau từ nhiều phía:
- Áp lực từ ngoài vào hay áp lực quốc tế:
– từ Trung cộng: nhằm xâm lược Việt Nam, duy tŕ chế độ cộng sản tại Việt Nam, buộc CSVN nhượng đất nhượng biển và đàn áp những ai phản đối việc Trung cộng xâm phạm lănh thổ Việt Nam.
– từ Thế giới Tự do: buộc Việt Nam tôn trọng nhân quyền.
- Áp lực từ bên trong hay từ người dân trong nước: đ̣i hỏi CSVN tôn trọng nhân quyền, tôn trọng quyền tự quyết của người dân, và thay đổi chế độ.
Giữa hai thứ áp lực quốc tế ngược chiều nhau, CSVN phải chấp nhận thế đu giây để tồn tại. Tuy nhiên, thế đu giây này cũng có một lợi điểm cho CSVN: Cả Trung cộng lẫn các nước tự do đều không dám áp lực CSVN quá mạnh, v́ điều đó sẽ đẩy CSVN vào ṿng tay của phía đối nghịch.
Đối với áp lực từ phía người dân hiện c̣n yếu, CSVN chủ trương đàn áp mạnh tay, tiêu diệt từ trong trứng nước mọi liên kết, mọi tổ chức… nhưng có thực hiện được hay không c̣n tùy thuộc vào áp lực nhân quyền từ phía thế giới tự do.
I. Áp lực quốc tế
Hiện nay, CSVN đang bị hai thứ áp lực quốc tế ngược chiều nhau, cả hai đều rất mạnh, khiến CSVN lâm vào thế rất khó xử:
A) Áp lực từ Trung cộng:
Áp lực này buộc CSVN phải làm nhiều điều bất lợi cho quyền lợi cũng như cho sự sống c̣n và phát triển của dân tộc, như nhượng đất nhượng biển cho Trung cộng, đàn áp những người yêu nước muốn bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ… CSVN phải chấp nhận áp lực này để được Trung cộng bảo hộ cho chế độ độc tài, hà khắc và đầy tội ác của ḿnh.
Lư do khiến Việt Nam chịu áp lực:
– Địa thế Việt Nam giáp ranh Trung Quốc: Việt Nam là một nước nhỏ bé bên cạnh một nước lớn luôn luôn có tham vọng bành trướng lănh thổ. Từ bao thế kỷ, Trung Quốc luôn luôn muốn biến nước ta thành một quận huyện của họ. Họ đă xâm lược Việt Nam nhiều lần, và đă từng cai trị đất nước ta cả ngàn năm. Chống ngoại xâm, cụ thể là chống Trung Quốc, là một chủ đề chính trong lịch sử Việt Nam.
– Trung cộng có nhu cầu giải quyết nạn nhân măn và nhu cầu kinh tế cho người dân quá đông: Dân Trung Quốc quá đông, nằm sâu trong đại lục, không có nhiều đường biển để giao thương với thế giới. Việt Nam là một vị trí rất thuận lợi cho sự giao thương quốc tế, lại có nhiều mỏ (dầu, than, vàng bạc, uranium), nên là một cám dỗ rất lớn cho mộng xâm lược của Trung cộng hiện nay.
– CSVN mắc nợ Trung cộng quá nhiều trong việc cướp chính quyền cả hai miền Bắc Nam: Hồ Chí Minh đă cậy dựa, nhờ sự giúp đỡ và vay mượn nhiều mặt của Trung cộng (vơ khí, lương thực, cố vấn chiến lược – chiến thuật…) để cướp chính quyền ở Miền Bắc năm 1945, và tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam suốt 2 thập niên (1954-1975). Khi đă chiếm được trọn cả đất nước, CSVN phải trả nợ Trung cộng bằng sự lệ thuộc, bằng lănh thổ lănh hải, bằng quyền lợi dân tộc.
– Trung cộng đă cài được người của họ vào bộ máy cai trị của CSVN ở thượng tầng cũng như hạ tầng cơ sở (sau hàng mấy chục năm cậy nhờ vào Trung cộng): Qua những tên tay sai được cài vào bộ máy cai trị của CSVN, Trung cộng đang thật sự điều hành bộ máy cai trị của CSVN, khiến cho rất nhiều quyết định của Đảng, Bộ Chính trị, ba ngành Lập Pháp – Hành Pháp – Tư Pháp có lợi cho Trung cộng. Những người trong bộ máy cai trị có tinh thần dân tộc, không chấp nhận Trung cộng, có khuynh hướng thân Mỹ, thường không dám biểu lộ lập trường chống Trung cộng v́ sợ bị thanh trừng (bị mất quyền lợi, địa vị, tài sản, có thể mất mạng). Nên phe thân Trung cộng trong bộ máy cai trị vẫn chiếm ưu thế, họ đang nắm được cả công an lẫn quân đội (1).
– CSVN sẵn sàng chấp nhận áp lực của Trung cộng: Mục đích tối hậu của Trung cộng là xâm chiếm Việt Nam để giải quyết nạn nhân măn và nhu cầu kinh tế, giao thương với thế giới. Mục đích tối hậu của CSVN là duy tŕ chế độ độc tài để tiếp tục cưỡi đầu cưỡi cổ dân tộc. Cùng chủ trương độc tài như CSVN, Trung cộng sẵn sàng bảo trợ cho chế độ độc tài của CSVN được sống c̣n, nên CSVN sẵn sàng nhượng bộ trước những áp lực của Trung cộng.
B) Áp lực từ những nước tự do dân chủ:
Các quốc gia tự do thường có lư tưởng dân chủ, họ chủ trương phổ biến và phát huy tinh thần tự do, dân chủ và nhân quyền đến mọi dân tộc. Nhưng họ cũng có nhu cầu phát triển kinh tế và giao thương với mọi dân tộc. Các nước này tùy theo t́nh h́nh từng thời điểm mà ưu tiên cho lư tưởng dân chủ hay cho nhu cầu phát triển. Hiện nay, t́nh h́nh kinh tế toàn cầu đang gặp khủng hoảng, các nước tự do thường ưu tiên đặt nặng việc giải quyết kinh tế hơn lư tưởng dân chủ.
Với lư tưởng dân chủ, các quốc gia tự do đ̣i buộc CSVN phải tôn trọng nhân quyền, quyền tự do của người dân, không được đàn áp dân chúng, phải trả tự do cho các tù nhân lương tâm… CSVN cần giao thương với các nước dân chủ vốn giàu có trên thế giới và muốn được họ viện trợ về nhiều mặt. Các nước dân chủ thường lợi dụng nhu cầu này của CSVN để áp lực CSVN phải tôn trọng nhân quyền. CSVN buộc phải chấp nhận áp lực này để có thể giao thương với các nước tự do hầu phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, áp lực quốc tế lên CSVN về mặt nhân quyền rất giới hạn, v́:
? V́ t́nh h́nh kinh tế khó khăn hiện nay trên toàn thế giới, các quốc gia tự do muốn giao thương với Việt Nam để có lợi về kinh tế, chính trị, nên không muốn khó dễ Việt Nam về mặt nhân quyền hầu tránh những bất lợi về mặt ngoại giao và giao thương…
? CSVN đặt ưu tiên việc bảo vệ chế độ hơn việc phát triển kinh tế, nên CSVN chỉ chấp nhận nhượng bộ áp lực nhân quyền trong mức độ không nguy hiểm cho sự tồn tại của chế độ. Áp lực quốc tế về nhân quyền dù có mạnh, nhưng nếu nguy hiểm cho sự tồn tại của chế độ, CSVN sẽ bất chấp: thà bị quốc tế trừng phạt c̣n hơn để mất quyền lực và bị nhân dân lật đổ.
? Các quốc gia tự do không dám áp lực mạnh về nhân quyền v́ sợ CSVN đứng hẳn về phía Trung cộng để nước này bảo vệ cho chế độ độc tài của ḿnh. Điều này có thể bất lợi cho dân tộc Việt Nam (2).
? Các nước tự do cần giao thương với Trung cộng, một thị trường lớn rất béo bở và giá nhân công rẻ, nên có khi phải nhân nhượng trước những yêu cầu của Trung cộng trong vấn đề Việt Nam.
II. Sự phản kháng của quần chúng quốc nội
A) Nguyên nhân:
Càng ngày CSVN càng lộ rơ bản chất là:
– một đảng cướp, tham tàn: cướp đất đai, tài sản, kể cả những kẻ nghèo nhất… cướp cả những quyền căn bản của người dân, kể cả quyền tự vệ… dùng cả một hệ thống nhà nước với 3 ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp để ăn cướp… sẵn sàng dồn người dân vào đường cùng, không c̣n đường sống.
– tham quyền cố vị, độc tài toàn trị: bảo vệ bằng bất cứ giá nào độc quyền cai trị, độc quyền ăn cướp, độc quyền cưỡi đầu cưỡi cổ nhân dân…
– một tập đoàn buôn dân bán nước: đă từng bán đất bán biển và sẵn sàng bán cả đất nước cho ngoại bang, bất chấp hậu quả tai hại khôn lường cho cả dân tộc.
B) Sự phản kháng của người dân:
Trước những hành động gian ác của CSVN, dân chúng kẻ trước người sau ngày càng ư thức được bản chất xấu xa của CSVN và ngày càng phẫn nộ, nên có khuynh hướng phản kháng, đ̣i công lư, muốn thay đổi chế độ. Người dân ngày càng có nhiều người vượt thắng được nỗi sợ hăi cố hữu để đấu tranh, không chỉ với tư cách cá nhân, mà c̣n liên kết thành phong trào, tổ chức đấu tranh:
– đ̣i dân chủ, nhân quyền: Khối 8406, Đảng Thăng Tiến, Đảng Dân chủ 21, Liên minh dân chủ nhân quyền, Công Đoàn Độc Lập, Lực lượng Đoàn Kết Công Nông, Ủy ban Nhân quyền Việt Nam…
– đ̣i công bằng xă hội: dân oan biểu t́nh đ̣i đất, giáo xứ Thái Hà, Cồn Dầu… công nhân đ́nh công…
– đ̣i toàn vẹn lănh thổ: giới trí thức sinh viên biểu t́nh chống Trung cộng, phản đối CSVN tiếp tay bán nước… Biểu t́nh chống rước đuốc Olympic Bắc Kinh (tháng 4/2008), biểu t́nh đ̣i Hoàng Sa, Trường Sa tại Hà Nội và Sàig̣n (tháng 6,7,8/2011),
Phương cách đấu tranh: ôn ḥa, bất bạo động, tránh vi phạm luật (kẻo bị kết án), chỉ sử dụng những phương tiện tốt… Nhưng khi bị dồn đến đường cùng, người dân đôi khi sẵn sàng bạo động để tự vệ: vụ Đoàn Văn Vươn, vụ Bắc Giang, vụ Mường Nhé, vụ Long Thành (xă Long Hưng)…
Phương tiện đấu tranh: sử dụng mọi phương tiện thông tin (Internet, web, blog, facebook, twitter, email, paltalk, viết bài, truyền đơn, biểu ngữ…), âm thầm liên kết, biểu t́nh…
Người dân khi chống lại bạo quyền, tuy có chính nghĩa, có tiềm năng rất lớn, nhưng không có thực lực…
– do thiếu tổ chức, thiếu lănh đạo, thiếu tài chánh…
– không được đào tạo (về chính trị, quân sự, óc tổ chức, kỹ thuật lănh đạo, khả năng giữ bí mật)…
– đấu tranh mang tính tự phát, mạnh ai nấy làm, không có kế hoạch chung, đường lối chung…
– dễ bị chia rẽ, do kế ly gián của cộng sản và do đố kỵ, do nghi ngờ nhau (không phân biệt được Ta, Bạn và Thù)…
C) Sự đàn áp của bạo quyền:
CSVN cương quyết bảo vệ độc quyền cai trị đất nước với bất cứ giá nào, bất chấp đạo lư, quyền lợi của dân tộc, nên quyết tâm sử dụng bạo lực để dẹp tan từ trứng nước mọi mầm mống phản đối, đ̣i công lư, tự do, nhân quyền, dân chủ, tiêu diệt mọi tổ chức, bẻ găy mọi liên kết đấu tranh chống lại họ.
Nhờ kinh tế phát triển, nhờ tiền viện trợ từ nhiều nước, nhờ đồng bào hải ngoại gửi tiền về cho thân nhân trong nước, nhờ tiền thuế của nhân dân, Đảng và Nhà Nước rất giàu có, có thể trả lương công an, cán bộ rất cao để họ sẵn sàng bảo vệ chế độ, ngăn chặn những ai đ̣i hỏi tự do, nhân quyền, có ảnh hưởng xấu đến chế độ.
Ngoài ra, họ c̣n có đầy đủ phương tiện để đàn áp dân chúng: quyền lực, luật pháp, công an, quân đội, ṭa án, vơ khí, súng đạn, tiền bạc… Nhờ t́nh báo nằm vùng được cài trà trộn trong mọi giới dân chúng, khả năng nghe lén điện thoại, đọc lén email, họ có thể có thông tin đầy đủ về mọi động thái chống đối của dân chúng để sẵn sàng tiêu diệt đối kháng (3).
III. Áp dụng vào cuộc đấu tranh dân chủ Việt Nam
A) Phải tự lực, đừng mong đợi quá nhiều nơi áp lực quốc tế
Trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của quê hương đất nước, chúng ta cần vận động sự ủng hộ của quốc tế, yêu cầu các nước tự do áp lực lên CSVN. Tuy nhiên, chúng ta không nên trông cậy quá nhiều vào sự giúp đỡ của quốc tế, mà phải t́m cách phát triển nội lực của chính chúng ta. Theo nhận định của cụ Phan Chu Trinh, người Việt có tính vọng ngoại và yêu nước kiểu hẹp ḥi. Tính vọng ngoại khiến ta trông cậy và ỷ lại vào sức của người, không tin tưởng và phát huy sức mạnh của ḿnh (4).
Muốn chiến thắng Cộng sản, chúng ta cần phải quyết tâm củng cố nội lực hơn là dựa dẫm vào người Mỹ hay vào quốc tế. Chẳng ai thương chúng ta, dân tộc chúng ta bằng chính chúng ta cả. Nếu chúng ta không nhất tâm tự cứu lấy chính ḿnh th́ sẽ chẳng có ai ra tay cứu chúng ta cả. Khi chúng ta thật sự có nội lực, các thế lực khác mới sẵn sàng hợp lực giúp chúng ta. Aide-toi, le Ciel taidera! (5)
Nội lực chỉ có khi chúng ta biết hợp lực đoàn kết và thống nhất ư chí, đường lối. Chúng ta biểu lộ quyết tâm chiến thắng cộng sản, nhưng trong thực tế lại không quyết tâm tạo đoàn kết là điều kiện không có không được để có sức mạnh mà chiến thắng (6). Do đó, quyết tâm chiến thắng cộng sản dường như chỉ là quyết tâm ngoài môi miệng chứ không phải thực tâm (7).
Chúng ta trông cậy vào người Mỹ nhiều quá, chúng ta muốn nhờ Mỹ áp lực CSVN trong khi chính chúng ta có thể tự áp lực CSVN một cách hữu hiệu mà chúng ta không chịu làm. Chẳng hạn, chúng ta có thể hạn chế việc du lịch về Việt Nam, hạn chế gửi tiền về Việt Nam, chỉ gửi tiền hay đi về Việt Nam khi nào thật cần thiết. V́ hiện nay, chế độ CSVN tồn tại được một phần khá lớn là nhờ hàng chục tỉ đôla mỗi năm mà Người Việt hải ngoại gửi về hoặc đem về qua ngả du lịch, và phần nào do sự đầu tư làm ăn của Người Việt hải ngoại tại Việt Nam.
B) Phải vận động quốc tế cách hợp lư
Chính sách của các nước tự do có những điều bất lợi cho công cuộc đấu tranh dân chủ tại Việt Nam, trong đó có những điều không thay đổi được và những điều có thể thay đổi.
– Đối với những điều không thay đổi được, chúng ta có cố gắng vận động thay đổi cách mấy cũng vô ích.
– Đối với những điều có thể thay đổi, chúng ta có thể tạo thay đổi, nếu chúng ta biết vận động đúng cách. Vận động không đúng cách th́ khó mà thay đổi.
Do đó, cần nhận định và phân biệt hai loại trên, để đừng phí sức vào những việc không thể thay đổi.
a. Đừng phí sức vào những ǵ không thể thay đổi trong chính sách của Hoa Kỳ
Chính phủ Mỹ hoạt động theo chính sách và đường lối của họ. Các quốc gia tự do dân chủ khác cũng tương tự như vậy. Riêng đối với Mỹ, chính sách của họ nhiều khi mang tính toàn cầu, v́ một cách nào đó, Mỹ đang là quốc gia có tầm vóc lănh đạo thế giới… Nhiều khi v́ lợi ích của một số quốc gia nào đó, chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ chấp nhận hy sinh lợi ích của một hay vài quốc gia nhược tiểu.
Nếu chính sách hay đường lối của Hoa Kỳ có những điểm quan trọng bất lợi cho đất nước ḿnh, th́ dù có vận động giỏi cách mấy, chúng ta cũng khó mà thay đổi được những điều quan trọng ấy. Do đó, chúng ta đừng bao giờ phí th́ giờ và công sức cho những vận động bất khả thi hầu dồn nỗ lực vào những vận động có tính khả thi.
Chẳng hạn, nếu Mỹ chủ trương giao thương với Trung cộng hay với Việt Nam, sẵn sàng ưu đăi hai nước này trong một số lănh vực (WTO, Quy chế Tối Huệ Quốc…)(8), điều này có thể khiến chế độ độc tài cộng sản phát triển và tồn tại lâu dài, rất bất lợi cho dân tộc Việt Nam, th́ dù vận động mạnh mẽ đến đâu, chúng ta cũng không thể khiến Mỹ ngưng thực hiện chủ trương đó (9).