johnnydan9
04-29-2012, 14:50
Quốc gia thống nhất dưới chủ nghĩa cộng sản, nhưng sự thống nhất mang tính cách áp đặt đó chưa làm cho dân tộc Việt Nam tiến tới chỗ ḥa giải hoàn toàn, và tuyệt nhiên sự thống nhất dưới một chính thể độc đảng đă đưa tới một chế độ độc tài, thiếu tôn trọng nhân quyền và xâm phạm tự do của công dân. Sự độc lập mà những người giải phóng cộng sản dùng để chiêu tập quốc dân chiến đấu cho họ đến nay lại bị nghi vấn, khi từ sau sụp đổ của chế độ cộng sản ở LBS và Đông Âu chính trường Việt Nam nay vẫn bị anh cả của chế độ cộng sản là Trung Quốc chi phối. Thống nhất mà không có quyền tự quyết về số phận của dân tộc, và không có tự do cho người dân th́, sự thống nhất ấy chỉ là một kiểu thực địa kiểu một nhóm người áp đặt lên toàn dân tộc mà thôi...
*
Lời ngỏ
Muốn đánh giá một sự kiện th́ không thể không đặt sự kiện đó vào một bối cảnh lịch sử của nó. Chúng tôi đặt hai cuộc chiến tranh Việt Nam sau Thế Chiến II, nhất là cuộc chiến có người Mĩ hậu thuẫn chế độ Sài G̣n, vào trong bối cảnh Chiến Tranh Lạnh để độc giả biết thêm về căn nguyên, diễn tiến, và hậu quả của nó. Đa số tài liệu chúng tôi dùng trong này đều của các sử gia phương Tây, nên độc giả cũng có thể biết thêm cách người phương Tây nh́n về Việt Nam chúng ta qua giai đoạn lịch sử đầy xáo trộn và tan thương đó.
Sách giáo khoa của nhà nước cộng sản gọi hai cuộc chiến trên Việt Nam sau Thế Chiến II là hai cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giành lại độc lập. Những người làm sách đó chỉ rút lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1945-75 xuống c̣n cuộc đấu tranh nhất thống quốc gia dưới một chế độ của người cộng sản. Khi một dân tộc bị chia hai v́ ư thức hệ, một bên được một thế lực riêng hậu thuẫn, bằng vơ khí, phương tiện, hay là bằng tài chính và binh lực, th́ có thể gọi những thế lực hậu thuẫn đó là xâm lược hay không? Và thống nhất quốc gia có phải là quốc dân có quyền tự quyết về vận mạng dân tộc và được hưởng tự do hơn không? Có thể những người cộng sản muốn dân tộc Việt Nam hết thảy đều theo cộng sản, nên nh́n cuộc chiến tranh theo lí tưởng đó của họ. Nhưng cái nh́n phiến diện nào cũng có chỗ thiếu sót, và đă phiến diện th́ khó soi thấu sự thật. Lịch sử dù khắc nghiệt đến đâu cũng cần ghi chép lại một cách trung thực, để người sau có thể đọc và học được ở nó. Danh từ cần gọi đúng tên sự thật, nếu danh từ chỉ để tránh sự thật th́ sách giáo khoa về lịch sử cũng chỉ là hàng mớ dối trá. Chúng ta không thể dạy măi con cháu chúng ta những điều dối trá như vậy mà mong dân tộc có ngày cường thịnh.
Bài viết này quá sơ lược, chúng tôi mong ở độc giả sự thông cảm, và lượng thứ nữa, v́ chúng tôi không có điều kiện tham khảo nhiều tài liệu gốc.
Một nước nhược tiểu trong cái ṿng xoáy
Thế Chiến II kết thúc chưa lâu th́ thế giới bị cuốn vào một ṿng xoáy mới: Chiến Tranh Lạnh. Trật tự thế giới thay đổi, những đế quốc thuộc địa châu Âu tan ră, nhường vị thế bá quyền cho Mĩ và Liên bang Soviet (LBS). Hai cường quốc mới này lại bất đồng ư thức hệ; trong chiến tranh họ chịu bỏ một bên mọi khác biệt để chống lại Adolf Hitler và phe Trục, nhưng hết chiến tranh lại trở mặt nhau. Người Mĩ coi LBS khổng lồ là một mối thách thức đối những giá trị dân chủ của Mĩ. C̣n phe cộng sản đ̣i thay đổi thế giới, t́m cách phá đổ những giá trị và tôn giáo truyền thống để đưa công nhân lên lănh đạo. Ngay khi chiến tranh chưa kết thúc Anh, Mĩ, và LBS đă thỏa hiệp với nhau một số điều khoản ăn chia thế giới thời hậu chiến. Stalin giải phóng Đông Âu khỏi Đức Quốc Xă xong, chỉ trong ṿng hai ba năm đă dựng lên chính phủ cộng sản chư hầu tại đây. Anh và Mĩ sợ chủ nghĩa cộng sản tràn qua các nước dân chủ ở Tây Âu, t́m cách ngăn chặn. Giới làm chính sách ở Mĩ ngại t́nh h́nh kinh tế những nước đồng minh Tây Âu suy tàn, sẽ làm mồi cho chính trị bất ổn mà châu Âu trở thành đất nuôi cộng sản. Năm 1947 – 48, Mĩ dùng Chương Tŕnh Phục Hồi Châu Âu viện trợ cho Tây Âu tái thiết và đưa Tây Âu về phía ḿnh. Đáp lại chính sách viện trợ kinh tế này mà Stalin cho là Mĩ dùng để mua chuộc các nước Tây Âu, năm 1949, LBS thành lập Hội Tương Trợ Kinh Tế với các nước Đông Âu. COMECON thất bại v́ LBS không đủ mạnh để viện trợ cho Đông Âu. Kinh tế không thành, Stalin càng dùng chính trị và quân sự siết chặt các nước Đông Âu hơn nữa.
Cuộc cạnh tranh về chính trị, vơ bị, công nghệ và kinh tế vô tiền trong lịch sử nhân loại này giữa hai khối tư bản và cộng sản tạo thành một ṿng xoáy cuốn cả thế giới vào một cuộc tranh chấp mới. Nhiều nước nhược tiểu vừa thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi ách thuộc địa lại rơi vào thế phải chọn một trong hai khối quyền lực đang chi phối đời sống chính trị thế giới. “Bức màn sắt” trở thành sự chia cắt giữa hai thế lực tư bản và cộng sản, không những ở Đức, ở châu Âu, ở Địa Trung Hải (1947), mà c̣n lan san cả những vùng khác trên thế giới. Những nước nhược tiểu vừa mới thoát khỏi ách thuộc địa như Triều Tiên và Việt Nam không may trở thành con tốt thí trên bàn cờ tranh chấp.
Chiến tranh kháng Pháp
Tháng Tám 1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh. Đảng Cộng Sản Đông Dương do Hồ Chí Minh thành lập cầm đầu một liên minh quốc gia gồm nhiều đảng là Mặt Trận Việt Minh nhân thời cơ Nhật đang rút đi giành được chính quyền ở Bắc và Trung Việt. Chính phủ này lấy tên là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và có thái độ thân với Đồng Minh và đặc biệt với người Mĩ. Mĩ cũng thấy cần để cho Việt Nam độc lập và thoát khỏi chế độ thuộc địa, không muốn Pháp quay trở lại Đông Dương. Nhưng khi Hồ Chí Minh viết thư đề nghị Mĩ công nhận nền độc lập của Việt Nam, th́ chính quyền Mĩ của Harry Truman lại làm ngơ, v́ “Hồ Chí Minh có liên hệ trực tiếp với Cộng Sản”, Mĩ không muốn để cho Việt Nam vừa ra khỏi thuộc địa lại trao cho một “tổ chức chính trị có gốc gác từ Kremlin và bị Kremlin chi phối”. (1) Pháp quay trở lại Đông Dương, đàm phán giữa Pháp và chỉnh phủ của Hồ Chí Minh bất thành, cuối năm 1946, chiến sự nổ ra. Pháp trấn giữ đồng bằng và thành phố, Việt Minh rút lên vùng núi.
Trong ṿng ba năm Việt Minh tạo được chiến tranh nhân dân, mục tiêu là giải phóng quốc gia khỏi thực dân. Ban đầu, Mĩ và LBS không thấy có lợi ích chiến lược ǵ tại bán đảo Đông Dương, không thèm lưu tâm tới cuộc chiến này. Truman không thích gốc gác cộng sản của Hồ Chí Minh, nhưng cũng không muốn theo Pháp mà lún quá sâu vào Đông Dương. Stalin đang truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu, cũng không mặn mà với Hồ Chí Minh khi Hồ yêu cầu Moscow thừa nhận Việt Minh đại diện cho quyền lợi hợp pháp của người Việt.
http://4.bp.blogspot.com/-Y1qtEeBA2_c/T5zgaHAvYoI/AAAAAAAASDg/9Vy0xzJt2C4/s1600/dthcm.png
Điện tín của Hồ Chí Minh kêu gọi Mĩ ủng hộ phong trào độc lập.
In trong Allan M.Winkle; 2000 p.111
Cuộc đấu tranh chống thực dân này bắt đầu cuốn vào chiến tranh lạnh khi phe cộng sản lên nắm quyền ở Trung Hoa. Mao Trạch Đông đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan rồi, thành lập nước Trung Quốc cộng sản, không muốn giáp ranh với một Việt Nam chống cộng. Đầu năm 1950, Bắc Kinh bắt đầu yểm trợ quân sự cho Việt Minh. Truman sợ Đông Dương bị cộng sản nhuộm đỏ, quyết định giúp đỡ tài chính và kĩ thuật cho Pháp. Nhưng sau thế chiến Pháp đă kiệt quệ, ngổn ngang chuyện quốc gia, dân Pháp không muốn sa lầy thêm vào những chiến trường thuộc địa. Pháp thua nhiều trận, tại Điện Biên Phủ mùa xuân 1954, Pháp đại bại, đành phải dàn xếp ḥa ước với Việt Minh. Hội Nghị Geneva tổ chức năm 1954, có mặt đầy đủ Việt Minh, Pháp, Mĩ, LBS, và Trung Quốc. Mĩ không can dự quá sâu vào t́nh trạng Đông Dương tại Hội Nghị này. Kremlin và Bắc Kinh th́ đ̣i phải có giải pháp cho Đông Dương, chỉ thị cho Hà Nội tạm thời chấp nhận chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Vùng DMZ lập nên tại vĩ tuyến này. Việt Nam tạm thời chia thành hai quốc gia đối địch, Miền Bắc thuộc kiềm kiểm soát của chính phủ cộng sản và được Trung Quốc và LBS chống đỡ, miền Nam thành lập một chính phủ thân phương Tây, được Mĩ yểm trợ. Cả hai phía rục rịch dồn sức xây dựng cỗ máy chiến tranh đối đầu với nhau.
Chính sách khiên chế của Mĩ
Hồi đầu chiến tranh lạnh, tức sau thế chiến cho tới khi nhà nước cộng sản Trung Quốc thành lập, Mĩ và LBS chỉ tranh chấp nhau ở châu Âu. Stalin và Truman đều không muốn lún sâu vào những tranh chấp ở châu Á, nhất là cuộc nội chiến ở Trung Hoa đại lục giữa phe cộng sản của Mao Trạch Đông và quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Mĩ chỉ muốn điều đ́nh cho Mao và Tưởng thỏa hiệp với nhau, mà Stalin th́ không tin Mao có thể thắng được Tưởng, lại v́ quyền lợi chiến lược của LBS sẵn sàng kí hiệp ước với Tưởng. Khi nội chiến Trung Hoa đến hồi kết, chính quyền của Tưởng tỏ ra yếu kém, có thể sụp bất cứ lúc nào, th́ Điện Kremlin và Ṭa Bạch Ốc đều không muốn để mất chỗ trống do Tưởng tạo ra tại Trung Hoa. Tưởng thua, cùng đồng đảng rút qua Đài Loan. Mao thống nhất toàn Trung Hoa dưới trướng cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đă chiếm trọn một nước rộng lớn hàng nhất nh́ thế giới, th́ Mĩ không thể làm ngơ thêm nữa. Năm 1950, công luận Mĩ rung chuông báo động về đại họa cộng sản mà họ coi là một thứ bệnh dịch lây lan khắp hoàn cầu. Quốc hội Mĩ đ̣i chính quyền Truman thay đổi chính sách đối ngoại để giữ vị thế và quyền lợi của Mĩ tại châu Á. Kết quả của đ̣i hỏi này là chính sách an ninh quốc gia NSC-68, Mĩ tuyên bố sẽ dùng mọi biện pháp để chặn cộng sản bành trướng tại châu Á, gọi là chính sách khiên chế. Trung Hoa đă rơi vào tay cộng sản, người Mĩ lo rằng nếu để Triều Tiên và Việt Nam cho cộng sản làm chủ, th́ sẽ tạo ra hiệu ứng domino, những nước vừa thoát khỏi thuộc địa khác cũng lọt vào tay cộng sản nốt. Sự cạnh tranh về ư thức hệ giữa Mĩ, LBS, và Trung Quốc, cộng với phong trào đ̣i độc lập tại chính hai nước nhỏ này, dẫn tới hai cuộc chiến tranh mà kết cục không giống nhau.
Chiến tranh Triều Tiên, Trung-Mĩ đối đầu
Hai tháng sau khi NSC-68 phê chuẩn, Mĩ liền bị kéo vào một cuộc tranh chấp quốc tế trên bán đảo Triều Tiên. Triều Tiên từ 1905 tới 1945 là vùng chiếm đóng của Nhật. Ngay khi Nhật đầu hàng tháng Tám 1945, Roosovelt và Stalin đă thỏa thuận chia đôi bán đảo Triều Tiên tại vĩ tuyến 38. Ư định ban đầu của Đồng Minh là tổng tuyển cử để lập chính phủ quốc gia cho bán đảo Triều Tiên. Về sau LBS và Mĩ ngày càng bất ḥa, mỗi bên thành lập một chính phủ riêng trên hai vùng chiếm đóng. Bắc Triều Tiên được LBS tiếp sức, Nam Triều Tiên được Mĩ ủng hộ, bên nào cũng coi ḿnh là đại diện hợp pháp của quốc dân, t́m cách thống nhất Triều Tiên theo ư ḿnh. Căng thẳng gia tăng. Tháng Sáu 1950 bắc Hàn xua quân vượt đường phân cách trên vĩ tuyến 38 đánh Nam Hàn. Chính quyền Truman đưa hải quân và không quân yểm trợ Nam Hàn. Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc phê chuẩn một nghị quyết cho phép can thiệp quân sự tại Triều Tiên. Tháng Chín năm đó Lực lượng LHQ do tướng Mĩ Douglas MacArthur dẫn đầu đánh quân Bắc Hàn ra khỏi Nam Hàn và vượt vĩ tuyến 38 với ư định nhất thống Triều Tiên dưới một chính quyền phi cộng sản. Tháng Mười Một 1950, Trung Quốc nhảy vào tham chiến, đẩy liên quân về lại Nam Hàn. Cuộc chiến tiếp tục, bất phân thắng bại, cho tới khi thỏa hiệp ngừng bắn năm 1953 chấm dứt chiến tranh Triều Tiên. Đường ranh giới cũ tại vĩ tuyến 38 làm đường phân cách giữa hai quốc gia trên bán đảo này cho tới ngày nay. Người Mĩ cho rằng chính sách khiên chế cộng sản tại châu Á như vậy là thành công bước đầu.
Cuộc chiến này biến quan hệ Mĩ-Trung thành thù địch. Trung Quốc tham chiến, làm cho Mĩ càng lo ngại thêm về mối đe dọa của cộng sản với thế giới dân chủ. Sau chiến tranh Triều Tiên, năm 1954, Mĩ và Đài Loan kí hiệp ước an ninh song phương, bảo đảm cho Mĩ can thiệp quân sự nếu Trung Quốc xâm lược Đài Loan. Trung Quốc yêu sách Mĩ rút khỏi hiệp ước đó để đổi lấy cải thiện quan hệ giữa hai bên, chính quyền Truman đáp lại bằng Hạm Đội VII, điều tới trấn eo Đài Loan để ngăn Trung Quốc. Đến cuối thập kỉ 50, Trung Quốc ngầm ủng hộ cỗ máy chiến tranh Bắc Việt, th́ đàm phán ngoại giao Trung Mĩ hoàn toàn sụp đổ. Liên tiếp hơn hai chục năm, Mĩ không công nhận chính phủ cộng sản của Trung Quốc lục địa.
Chiến tranh Việt Nam
Chính sách khiên chế của Mĩ thành công tại Triều Tiên, nhưng sang Việt Nam lại thất bại thảm hại. Hiệp định Geneva 1954 định trong ṿng hai năm từ ngày kí kết, Việt Nam sẽ tổng tuyển cử lập ra chính phủ liên minh. Tuyển cử không bao giờ có. Sau hiệp định, Pháp rút hẳn khỏi Đông Dương; Lào và Cambodia độc lập dưới chính quyền trung lập. Xung đột giữa Bắc Việt và Nam Việt ngày càng tăng, Việt Nam bắt đầu trở thành một chiến trường trong cuộc đối đầu ư thức hệ giữa phương Tây và Chủ Nghĩa Cộng Sản. Năm 1959, Hồ Chí Minh tin rằng không có giải pháp ḥa b́nh nào để thống nhất Việt Nam, bèn viện tới chiến tranh cách mạng để giải phóng Nam Việt. Cùng năm đó, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập để tuyên truyền cho cộng sản Bắc Việt. Những người cộng sản ở Việt Nam giương cao lá cờ độc lập dân tộc để chiến đấu. Hồ Chí Minh coi Mĩ đặt chân vào Việt Nam cũng chỉ là để thay Nhật và Pháp để biến Việt Nam thành thuộc địa mà thôi.
Mĩ t́m cách chặn đứng cộng sản chiếm trọn Việt Nam, như đă làm ở Triều Tiên. Trong chiến tranh Việt-Pháp trước 1954, người Mĩ chỉ viện trợ tài chính cho Pháp để đổi lại Pháp hợp tác với Mĩ chặn cộng sản ở Tây Âu. Sau khi Pháp rút, Mĩ ra mặt ủng hộ chính phủ Nam Việt chống lại phe cộng sản Bắc Việt.
Nam Việt kiến thiết và chiến tranh dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm
Việc làm đầu tiên của Mĩ là xây dựng một chính quyền cổ súy tự do và có lập trường chống cộng. Hoàng Đế Bảo Đại làm quốc trưởng từ thời Pháp c̣n chiếm Việt Nam, lúc đó vẫn c̣n tại vị, nhưng không có thực quyền. Ngô Đ́nh Diệm là cựu triều thần của nhà Nguyễn và có tư tưởng bài cộng sản quyết liệt. Họ Ngô lúc lưu vong ở Mĩ thuyết rất hùng hồn về một quốc gia Việt Nam phi cộng sản và tự do, lọt vào mắt Mĩ, và được Mĩ sắp xếp cho về nước lănh đạo chính phủ Sài G̣n. Ngô Đ́nh Diệm cứng nhắc và độc tài, không chấp nhận đối lập, người Mĩ biết con người chống cộng của Diệm không có cái sức mê hoặc được quần chúng như Hồ Chí Minh, nhưng vẫn ủng hộ Diệm. Năm 1955, Nam Việt tổng tuyển cử, họ Ngô thắng Bảo Đại, làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng ḥa Việt Nam.
Mĩ kiến thiết Nam Việt để nó sẽ thành một quốc gia tự do kiểu mẫu ở châu Á. Liên tiếp hai đời tổng thống Mĩ là Einsenhower Kennedy đều dùng nhiều chính sách viện trợ tài chính và quân sự cho Nam Việt Nam. Nhưng chính quyền của Ngô Đ́nh Diệm là một chính phủ tham nhũng và không lấy được ḷng dân. Trong khi đó, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lại tuyên truyền rất hiệu quả cho chế độ ở Bắc Việt, và lính Việt Cộng lại phát huy được lối đánh du kích trong quần chúng.
Chính quyền Kennedy nới rộng viện trợ tài chính và viện binh cho Nam Việt ngày càng nhiều, tới năm 1963 là 25,000 người, hơn một phần ba số đó là cố vấn (2). Nhưng cuộc chiến vẫn chưa ngả ngũ. Chính trường miền Nam ngày một rối ren; họ Ngô mất ủng hộ của quần chúng, v́ độc tài và đàn áp đối lập, đàn áp Phật giáo. Giới Phật tử phản kháng bằng nhiều h́nh thức và quyết liệt, cao điểm của phong trào phảng kháng đó là việc Ḥa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại trung tâm Sài G̣n. Bức ảnh chụp một vị sư ngồi trong biển lửa hôm sau loan truyền trên khắp báo chí thế giới, giáng một đ̣n mạnh vào chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.
http://4.bp.blogspot.com/-pabJFwuIw7M/T5zhAXxoVUI/AAAAAAAASDo/Ldrg08oLKSM/s640/Thichquangduc-tuthieu.png
Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đàn áp Phật giáo. In trong Allan M.Winkle, 2000 p.119
Chính quyền Kennedy biết là Nam Việt Nam đang gặp vấn đề. Tháng Mười Một năm 1963, một nhóm tướng lĩnh do Dương Văn Minh Ḱ lănh đạo làm đảo chánh, Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát.
Chiến tranh leo thang
Năm 1963, sau cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba 1962 đưa thế giới tới bờ vực của chiến tranh hạt nhân, căng thẳng giữa Mĩ và LBS giảm bớt. Nhưng Mĩ bắt đầu bị cuốn sâu vào chiến tranh Việt Nam. Chính quyền quân nhân mới ở Nam Việt cũng tỏ ra kém cỏi, làn sóng Việt Cộng tràn vào Nam Việt ngày càng lớn. Ở Mĩ, tổng thống Kennedy bị ám sát. Phó tổng thống Lyndon Johnson lên thay. Johnson cương quyết bằng mọi giá phải thắng cộng sản ở Việt Nam.
Chính quyền Johnson duyệt y Nghị Quyết Vịnh Tonkin, đưa chiến tranh Việt Nam leo thang. Theo sau nghị quyết này là chiến dịch trút bom xuống Bắc Việt của Mĩ, và Mĩ chính thức đưa lính sang Việt Nam yểm trợ cho chính quyền Sài G̣n ngăn phe cộng sản thống nhất Việt Nam.
Ở Bắc, không kể viện trợ chính từ LBS, Hà Nội lúc này c̣n được Bắc Kinh công khai ủng hộ. Mao Trạch Đông rất hài ḷng có một đồng minh theo đúng những chính sách của ḿnh, từ cải cách ruộng đất tới cách mạng văn hóa. Ban đầu, Bắc Kinh c̣n ngại ủng hộ Việt Nam sẽ trực tiếp đối đầu với Mĩ, mà cũng ngại nếu để Bắc Việt mạnh lên sẽ mất hết ảnh hưởng tại Đông Dương. Ban đầu Trung Quốc c̣n do dự, nhưng bắt từ 1964 trở đi, khi chiến tranh bắt đầu leo thang, và khi Trung Quốc tự cho ḿnh chứ không phải LBS mới thật là ân nhân những nước bị áp bức, th́ Trung Quốc ra mặt ủng hộ Bắc Việt.
Trong loại chiến tranh, không hễ có vũ khí tối tân, có quân lực hùng hậu là thắng. Trong thập kỉ 60, người Mĩ đưa sang hơn nửa triệu lính mà không sao quét sạch được cộng sản ra khỏi Nam Việt#. Đội quân Việt Cộng gồm những người bản xứ quen với thổ nhưỡng, lại dùng chiến thuật du kích, pḥng những lúc không ngờ mà tấn công. Dân quê Nam Việt Nam oán ghét sẵn chính phủ thối nát miền Nam, sẵn sàng giúp đỡ Việt Cộng nằm vùng.
Chiến sự liên miên chỉ làm cho hai bên tổn hao binh lực, mà đất Việt lại bị tàn phá. Bắc Việt không đủ sức lật đổ chế độ Sài G̣n, mà người Mĩ mặc dù cho bom tàn phá Bắc Việt lại không muốn mang chiến tranh ra thẳng Bắc Việt v́ ngại sẽ xung đột thêm với phe cộng sản mà đưa thế giới tới chỗ hủy diệt.
*
Lời ngỏ
Muốn đánh giá một sự kiện th́ không thể không đặt sự kiện đó vào một bối cảnh lịch sử của nó. Chúng tôi đặt hai cuộc chiến tranh Việt Nam sau Thế Chiến II, nhất là cuộc chiến có người Mĩ hậu thuẫn chế độ Sài G̣n, vào trong bối cảnh Chiến Tranh Lạnh để độc giả biết thêm về căn nguyên, diễn tiến, và hậu quả của nó. Đa số tài liệu chúng tôi dùng trong này đều của các sử gia phương Tây, nên độc giả cũng có thể biết thêm cách người phương Tây nh́n về Việt Nam chúng ta qua giai đoạn lịch sử đầy xáo trộn và tan thương đó.
Sách giáo khoa của nhà nước cộng sản gọi hai cuộc chiến trên Việt Nam sau Thế Chiến II là hai cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giành lại độc lập. Những người làm sách đó chỉ rút lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1945-75 xuống c̣n cuộc đấu tranh nhất thống quốc gia dưới một chế độ của người cộng sản. Khi một dân tộc bị chia hai v́ ư thức hệ, một bên được một thế lực riêng hậu thuẫn, bằng vơ khí, phương tiện, hay là bằng tài chính và binh lực, th́ có thể gọi những thế lực hậu thuẫn đó là xâm lược hay không? Và thống nhất quốc gia có phải là quốc dân có quyền tự quyết về vận mạng dân tộc và được hưởng tự do hơn không? Có thể những người cộng sản muốn dân tộc Việt Nam hết thảy đều theo cộng sản, nên nh́n cuộc chiến tranh theo lí tưởng đó của họ. Nhưng cái nh́n phiến diện nào cũng có chỗ thiếu sót, và đă phiến diện th́ khó soi thấu sự thật. Lịch sử dù khắc nghiệt đến đâu cũng cần ghi chép lại một cách trung thực, để người sau có thể đọc và học được ở nó. Danh từ cần gọi đúng tên sự thật, nếu danh từ chỉ để tránh sự thật th́ sách giáo khoa về lịch sử cũng chỉ là hàng mớ dối trá. Chúng ta không thể dạy măi con cháu chúng ta những điều dối trá như vậy mà mong dân tộc có ngày cường thịnh.
Bài viết này quá sơ lược, chúng tôi mong ở độc giả sự thông cảm, và lượng thứ nữa, v́ chúng tôi không có điều kiện tham khảo nhiều tài liệu gốc.
Một nước nhược tiểu trong cái ṿng xoáy
Thế Chiến II kết thúc chưa lâu th́ thế giới bị cuốn vào một ṿng xoáy mới: Chiến Tranh Lạnh. Trật tự thế giới thay đổi, những đế quốc thuộc địa châu Âu tan ră, nhường vị thế bá quyền cho Mĩ và Liên bang Soviet (LBS). Hai cường quốc mới này lại bất đồng ư thức hệ; trong chiến tranh họ chịu bỏ một bên mọi khác biệt để chống lại Adolf Hitler và phe Trục, nhưng hết chiến tranh lại trở mặt nhau. Người Mĩ coi LBS khổng lồ là một mối thách thức đối những giá trị dân chủ của Mĩ. C̣n phe cộng sản đ̣i thay đổi thế giới, t́m cách phá đổ những giá trị và tôn giáo truyền thống để đưa công nhân lên lănh đạo. Ngay khi chiến tranh chưa kết thúc Anh, Mĩ, và LBS đă thỏa hiệp với nhau một số điều khoản ăn chia thế giới thời hậu chiến. Stalin giải phóng Đông Âu khỏi Đức Quốc Xă xong, chỉ trong ṿng hai ba năm đă dựng lên chính phủ cộng sản chư hầu tại đây. Anh và Mĩ sợ chủ nghĩa cộng sản tràn qua các nước dân chủ ở Tây Âu, t́m cách ngăn chặn. Giới làm chính sách ở Mĩ ngại t́nh h́nh kinh tế những nước đồng minh Tây Âu suy tàn, sẽ làm mồi cho chính trị bất ổn mà châu Âu trở thành đất nuôi cộng sản. Năm 1947 – 48, Mĩ dùng Chương Tŕnh Phục Hồi Châu Âu viện trợ cho Tây Âu tái thiết và đưa Tây Âu về phía ḿnh. Đáp lại chính sách viện trợ kinh tế này mà Stalin cho là Mĩ dùng để mua chuộc các nước Tây Âu, năm 1949, LBS thành lập Hội Tương Trợ Kinh Tế với các nước Đông Âu. COMECON thất bại v́ LBS không đủ mạnh để viện trợ cho Đông Âu. Kinh tế không thành, Stalin càng dùng chính trị và quân sự siết chặt các nước Đông Âu hơn nữa.
Cuộc cạnh tranh về chính trị, vơ bị, công nghệ và kinh tế vô tiền trong lịch sử nhân loại này giữa hai khối tư bản và cộng sản tạo thành một ṿng xoáy cuốn cả thế giới vào một cuộc tranh chấp mới. Nhiều nước nhược tiểu vừa thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi ách thuộc địa lại rơi vào thế phải chọn một trong hai khối quyền lực đang chi phối đời sống chính trị thế giới. “Bức màn sắt” trở thành sự chia cắt giữa hai thế lực tư bản và cộng sản, không những ở Đức, ở châu Âu, ở Địa Trung Hải (1947), mà c̣n lan san cả những vùng khác trên thế giới. Những nước nhược tiểu vừa mới thoát khỏi ách thuộc địa như Triều Tiên và Việt Nam không may trở thành con tốt thí trên bàn cờ tranh chấp.
Chiến tranh kháng Pháp
Tháng Tám 1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh. Đảng Cộng Sản Đông Dương do Hồ Chí Minh thành lập cầm đầu một liên minh quốc gia gồm nhiều đảng là Mặt Trận Việt Minh nhân thời cơ Nhật đang rút đi giành được chính quyền ở Bắc và Trung Việt. Chính phủ này lấy tên là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và có thái độ thân với Đồng Minh và đặc biệt với người Mĩ. Mĩ cũng thấy cần để cho Việt Nam độc lập và thoát khỏi chế độ thuộc địa, không muốn Pháp quay trở lại Đông Dương. Nhưng khi Hồ Chí Minh viết thư đề nghị Mĩ công nhận nền độc lập của Việt Nam, th́ chính quyền Mĩ của Harry Truman lại làm ngơ, v́ “Hồ Chí Minh có liên hệ trực tiếp với Cộng Sản”, Mĩ không muốn để cho Việt Nam vừa ra khỏi thuộc địa lại trao cho một “tổ chức chính trị có gốc gác từ Kremlin và bị Kremlin chi phối”. (1) Pháp quay trở lại Đông Dương, đàm phán giữa Pháp và chỉnh phủ của Hồ Chí Minh bất thành, cuối năm 1946, chiến sự nổ ra. Pháp trấn giữ đồng bằng và thành phố, Việt Minh rút lên vùng núi.
Trong ṿng ba năm Việt Minh tạo được chiến tranh nhân dân, mục tiêu là giải phóng quốc gia khỏi thực dân. Ban đầu, Mĩ và LBS không thấy có lợi ích chiến lược ǵ tại bán đảo Đông Dương, không thèm lưu tâm tới cuộc chiến này. Truman không thích gốc gác cộng sản của Hồ Chí Minh, nhưng cũng không muốn theo Pháp mà lún quá sâu vào Đông Dương. Stalin đang truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu, cũng không mặn mà với Hồ Chí Minh khi Hồ yêu cầu Moscow thừa nhận Việt Minh đại diện cho quyền lợi hợp pháp của người Việt.
http://4.bp.blogspot.com/-Y1qtEeBA2_c/T5zgaHAvYoI/AAAAAAAASDg/9Vy0xzJt2C4/s1600/dthcm.png
Điện tín của Hồ Chí Minh kêu gọi Mĩ ủng hộ phong trào độc lập.
In trong Allan M.Winkle; 2000 p.111
Cuộc đấu tranh chống thực dân này bắt đầu cuốn vào chiến tranh lạnh khi phe cộng sản lên nắm quyền ở Trung Hoa. Mao Trạch Đông đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan rồi, thành lập nước Trung Quốc cộng sản, không muốn giáp ranh với một Việt Nam chống cộng. Đầu năm 1950, Bắc Kinh bắt đầu yểm trợ quân sự cho Việt Minh. Truman sợ Đông Dương bị cộng sản nhuộm đỏ, quyết định giúp đỡ tài chính và kĩ thuật cho Pháp. Nhưng sau thế chiến Pháp đă kiệt quệ, ngổn ngang chuyện quốc gia, dân Pháp không muốn sa lầy thêm vào những chiến trường thuộc địa. Pháp thua nhiều trận, tại Điện Biên Phủ mùa xuân 1954, Pháp đại bại, đành phải dàn xếp ḥa ước với Việt Minh. Hội Nghị Geneva tổ chức năm 1954, có mặt đầy đủ Việt Minh, Pháp, Mĩ, LBS, và Trung Quốc. Mĩ không can dự quá sâu vào t́nh trạng Đông Dương tại Hội Nghị này. Kremlin và Bắc Kinh th́ đ̣i phải có giải pháp cho Đông Dương, chỉ thị cho Hà Nội tạm thời chấp nhận chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Vùng DMZ lập nên tại vĩ tuyến này. Việt Nam tạm thời chia thành hai quốc gia đối địch, Miền Bắc thuộc kiềm kiểm soát của chính phủ cộng sản và được Trung Quốc và LBS chống đỡ, miền Nam thành lập một chính phủ thân phương Tây, được Mĩ yểm trợ. Cả hai phía rục rịch dồn sức xây dựng cỗ máy chiến tranh đối đầu với nhau.
Chính sách khiên chế của Mĩ
Hồi đầu chiến tranh lạnh, tức sau thế chiến cho tới khi nhà nước cộng sản Trung Quốc thành lập, Mĩ và LBS chỉ tranh chấp nhau ở châu Âu. Stalin và Truman đều không muốn lún sâu vào những tranh chấp ở châu Á, nhất là cuộc nội chiến ở Trung Hoa đại lục giữa phe cộng sản của Mao Trạch Đông và quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Mĩ chỉ muốn điều đ́nh cho Mao và Tưởng thỏa hiệp với nhau, mà Stalin th́ không tin Mao có thể thắng được Tưởng, lại v́ quyền lợi chiến lược của LBS sẵn sàng kí hiệp ước với Tưởng. Khi nội chiến Trung Hoa đến hồi kết, chính quyền của Tưởng tỏ ra yếu kém, có thể sụp bất cứ lúc nào, th́ Điện Kremlin và Ṭa Bạch Ốc đều không muốn để mất chỗ trống do Tưởng tạo ra tại Trung Hoa. Tưởng thua, cùng đồng đảng rút qua Đài Loan. Mao thống nhất toàn Trung Hoa dưới trướng cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đă chiếm trọn một nước rộng lớn hàng nhất nh́ thế giới, th́ Mĩ không thể làm ngơ thêm nữa. Năm 1950, công luận Mĩ rung chuông báo động về đại họa cộng sản mà họ coi là một thứ bệnh dịch lây lan khắp hoàn cầu. Quốc hội Mĩ đ̣i chính quyền Truman thay đổi chính sách đối ngoại để giữ vị thế và quyền lợi của Mĩ tại châu Á. Kết quả của đ̣i hỏi này là chính sách an ninh quốc gia NSC-68, Mĩ tuyên bố sẽ dùng mọi biện pháp để chặn cộng sản bành trướng tại châu Á, gọi là chính sách khiên chế. Trung Hoa đă rơi vào tay cộng sản, người Mĩ lo rằng nếu để Triều Tiên và Việt Nam cho cộng sản làm chủ, th́ sẽ tạo ra hiệu ứng domino, những nước vừa thoát khỏi thuộc địa khác cũng lọt vào tay cộng sản nốt. Sự cạnh tranh về ư thức hệ giữa Mĩ, LBS, và Trung Quốc, cộng với phong trào đ̣i độc lập tại chính hai nước nhỏ này, dẫn tới hai cuộc chiến tranh mà kết cục không giống nhau.
Chiến tranh Triều Tiên, Trung-Mĩ đối đầu
Hai tháng sau khi NSC-68 phê chuẩn, Mĩ liền bị kéo vào một cuộc tranh chấp quốc tế trên bán đảo Triều Tiên. Triều Tiên từ 1905 tới 1945 là vùng chiếm đóng của Nhật. Ngay khi Nhật đầu hàng tháng Tám 1945, Roosovelt và Stalin đă thỏa thuận chia đôi bán đảo Triều Tiên tại vĩ tuyến 38. Ư định ban đầu của Đồng Minh là tổng tuyển cử để lập chính phủ quốc gia cho bán đảo Triều Tiên. Về sau LBS và Mĩ ngày càng bất ḥa, mỗi bên thành lập một chính phủ riêng trên hai vùng chiếm đóng. Bắc Triều Tiên được LBS tiếp sức, Nam Triều Tiên được Mĩ ủng hộ, bên nào cũng coi ḿnh là đại diện hợp pháp của quốc dân, t́m cách thống nhất Triều Tiên theo ư ḿnh. Căng thẳng gia tăng. Tháng Sáu 1950 bắc Hàn xua quân vượt đường phân cách trên vĩ tuyến 38 đánh Nam Hàn. Chính quyền Truman đưa hải quân và không quân yểm trợ Nam Hàn. Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc phê chuẩn một nghị quyết cho phép can thiệp quân sự tại Triều Tiên. Tháng Chín năm đó Lực lượng LHQ do tướng Mĩ Douglas MacArthur dẫn đầu đánh quân Bắc Hàn ra khỏi Nam Hàn và vượt vĩ tuyến 38 với ư định nhất thống Triều Tiên dưới một chính quyền phi cộng sản. Tháng Mười Một 1950, Trung Quốc nhảy vào tham chiến, đẩy liên quân về lại Nam Hàn. Cuộc chiến tiếp tục, bất phân thắng bại, cho tới khi thỏa hiệp ngừng bắn năm 1953 chấm dứt chiến tranh Triều Tiên. Đường ranh giới cũ tại vĩ tuyến 38 làm đường phân cách giữa hai quốc gia trên bán đảo này cho tới ngày nay. Người Mĩ cho rằng chính sách khiên chế cộng sản tại châu Á như vậy là thành công bước đầu.
Cuộc chiến này biến quan hệ Mĩ-Trung thành thù địch. Trung Quốc tham chiến, làm cho Mĩ càng lo ngại thêm về mối đe dọa của cộng sản với thế giới dân chủ. Sau chiến tranh Triều Tiên, năm 1954, Mĩ và Đài Loan kí hiệp ước an ninh song phương, bảo đảm cho Mĩ can thiệp quân sự nếu Trung Quốc xâm lược Đài Loan. Trung Quốc yêu sách Mĩ rút khỏi hiệp ước đó để đổi lấy cải thiện quan hệ giữa hai bên, chính quyền Truman đáp lại bằng Hạm Đội VII, điều tới trấn eo Đài Loan để ngăn Trung Quốc. Đến cuối thập kỉ 50, Trung Quốc ngầm ủng hộ cỗ máy chiến tranh Bắc Việt, th́ đàm phán ngoại giao Trung Mĩ hoàn toàn sụp đổ. Liên tiếp hơn hai chục năm, Mĩ không công nhận chính phủ cộng sản của Trung Quốc lục địa.
Chiến tranh Việt Nam
Chính sách khiên chế của Mĩ thành công tại Triều Tiên, nhưng sang Việt Nam lại thất bại thảm hại. Hiệp định Geneva 1954 định trong ṿng hai năm từ ngày kí kết, Việt Nam sẽ tổng tuyển cử lập ra chính phủ liên minh. Tuyển cử không bao giờ có. Sau hiệp định, Pháp rút hẳn khỏi Đông Dương; Lào và Cambodia độc lập dưới chính quyền trung lập. Xung đột giữa Bắc Việt và Nam Việt ngày càng tăng, Việt Nam bắt đầu trở thành một chiến trường trong cuộc đối đầu ư thức hệ giữa phương Tây và Chủ Nghĩa Cộng Sản. Năm 1959, Hồ Chí Minh tin rằng không có giải pháp ḥa b́nh nào để thống nhất Việt Nam, bèn viện tới chiến tranh cách mạng để giải phóng Nam Việt. Cùng năm đó, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập để tuyên truyền cho cộng sản Bắc Việt. Những người cộng sản ở Việt Nam giương cao lá cờ độc lập dân tộc để chiến đấu. Hồ Chí Minh coi Mĩ đặt chân vào Việt Nam cũng chỉ là để thay Nhật và Pháp để biến Việt Nam thành thuộc địa mà thôi.
Mĩ t́m cách chặn đứng cộng sản chiếm trọn Việt Nam, như đă làm ở Triều Tiên. Trong chiến tranh Việt-Pháp trước 1954, người Mĩ chỉ viện trợ tài chính cho Pháp để đổi lại Pháp hợp tác với Mĩ chặn cộng sản ở Tây Âu. Sau khi Pháp rút, Mĩ ra mặt ủng hộ chính phủ Nam Việt chống lại phe cộng sản Bắc Việt.
Nam Việt kiến thiết và chiến tranh dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm
Việc làm đầu tiên của Mĩ là xây dựng một chính quyền cổ súy tự do và có lập trường chống cộng. Hoàng Đế Bảo Đại làm quốc trưởng từ thời Pháp c̣n chiếm Việt Nam, lúc đó vẫn c̣n tại vị, nhưng không có thực quyền. Ngô Đ́nh Diệm là cựu triều thần của nhà Nguyễn và có tư tưởng bài cộng sản quyết liệt. Họ Ngô lúc lưu vong ở Mĩ thuyết rất hùng hồn về một quốc gia Việt Nam phi cộng sản và tự do, lọt vào mắt Mĩ, và được Mĩ sắp xếp cho về nước lănh đạo chính phủ Sài G̣n. Ngô Đ́nh Diệm cứng nhắc và độc tài, không chấp nhận đối lập, người Mĩ biết con người chống cộng của Diệm không có cái sức mê hoặc được quần chúng như Hồ Chí Minh, nhưng vẫn ủng hộ Diệm. Năm 1955, Nam Việt tổng tuyển cử, họ Ngô thắng Bảo Đại, làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng ḥa Việt Nam.
Mĩ kiến thiết Nam Việt để nó sẽ thành một quốc gia tự do kiểu mẫu ở châu Á. Liên tiếp hai đời tổng thống Mĩ là Einsenhower Kennedy đều dùng nhiều chính sách viện trợ tài chính và quân sự cho Nam Việt Nam. Nhưng chính quyền của Ngô Đ́nh Diệm là một chính phủ tham nhũng và không lấy được ḷng dân. Trong khi đó, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lại tuyên truyền rất hiệu quả cho chế độ ở Bắc Việt, và lính Việt Cộng lại phát huy được lối đánh du kích trong quần chúng.
Chính quyền Kennedy nới rộng viện trợ tài chính và viện binh cho Nam Việt ngày càng nhiều, tới năm 1963 là 25,000 người, hơn một phần ba số đó là cố vấn (2). Nhưng cuộc chiến vẫn chưa ngả ngũ. Chính trường miền Nam ngày một rối ren; họ Ngô mất ủng hộ của quần chúng, v́ độc tài và đàn áp đối lập, đàn áp Phật giáo. Giới Phật tử phản kháng bằng nhiều h́nh thức và quyết liệt, cao điểm của phong trào phảng kháng đó là việc Ḥa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại trung tâm Sài G̣n. Bức ảnh chụp một vị sư ngồi trong biển lửa hôm sau loan truyền trên khắp báo chí thế giới, giáng một đ̣n mạnh vào chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.
http://4.bp.blogspot.com/-pabJFwuIw7M/T5zhAXxoVUI/AAAAAAAASDo/Ldrg08oLKSM/s640/Thichquangduc-tuthieu.png
Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đàn áp Phật giáo. In trong Allan M.Winkle, 2000 p.119
Chính quyền Kennedy biết là Nam Việt Nam đang gặp vấn đề. Tháng Mười Một năm 1963, một nhóm tướng lĩnh do Dương Văn Minh Ḱ lănh đạo làm đảo chánh, Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát.
Chiến tranh leo thang
Năm 1963, sau cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba 1962 đưa thế giới tới bờ vực của chiến tranh hạt nhân, căng thẳng giữa Mĩ và LBS giảm bớt. Nhưng Mĩ bắt đầu bị cuốn sâu vào chiến tranh Việt Nam. Chính quyền quân nhân mới ở Nam Việt cũng tỏ ra kém cỏi, làn sóng Việt Cộng tràn vào Nam Việt ngày càng lớn. Ở Mĩ, tổng thống Kennedy bị ám sát. Phó tổng thống Lyndon Johnson lên thay. Johnson cương quyết bằng mọi giá phải thắng cộng sản ở Việt Nam.
Chính quyền Johnson duyệt y Nghị Quyết Vịnh Tonkin, đưa chiến tranh Việt Nam leo thang. Theo sau nghị quyết này là chiến dịch trút bom xuống Bắc Việt của Mĩ, và Mĩ chính thức đưa lính sang Việt Nam yểm trợ cho chính quyền Sài G̣n ngăn phe cộng sản thống nhất Việt Nam.
Ở Bắc, không kể viện trợ chính từ LBS, Hà Nội lúc này c̣n được Bắc Kinh công khai ủng hộ. Mao Trạch Đông rất hài ḷng có một đồng minh theo đúng những chính sách của ḿnh, từ cải cách ruộng đất tới cách mạng văn hóa. Ban đầu, Bắc Kinh c̣n ngại ủng hộ Việt Nam sẽ trực tiếp đối đầu với Mĩ, mà cũng ngại nếu để Bắc Việt mạnh lên sẽ mất hết ảnh hưởng tại Đông Dương. Ban đầu Trung Quốc c̣n do dự, nhưng bắt từ 1964 trở đi, khi chiến tranh bắt đầu leo thang, và khi Trung Quốc tự cho ḿnh chứ không phải LBS mới thật là ân nhân những nước bị áp bức, th́ Trung Quốc ra mặt ủng hộ Bắc Việt.
Trong loại chiến tranh, không hễ có vũ khí tối tân, có quân lực hùng hậu là thắng. Trong thập kỉ 60, người Mĩ đưa sang hơn nửa triệu lính mà không sao quét sạch được cộng sản ra khỏi Nam Việt#. Đội quân Việt Cộng gồm những người bản xứ quen với thổ nhưỡng, lại dùng chiến thuật du kích, pḥng những lúc không ngờ mà tấn công. Dân quê Nam Việt Nam oán ghét sẵn chính phủ thối nát miền Nam, sẵn sàng giúp đỡ Việt Cộng nằm vùng.
Chiến sự liên miên chỉ làm cho hai bên tổn hao binh lực, mà đất Việt lại bị tàn phá. Bắc Việt không đủ sức lật đổ chế độ Sài G̣n, mà người Mĩ mặc dù cho bom tàn phá Bắc Việt lại không muốn mang chiến tranh ra thẳng Bắc Việt v́ ngại sẽ xung đột thêm với phe cộng sản mà đưa thế giới tới chỗ hủy diệt.