tonycarter
05-23-2012, 01:07
(Tamnhin.net) - Tinh thần nền cộng ḥa theo tư duy của Hồ Chí Minh mà chúng ta có thể cảm nhận được là:
<table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tbody><tr> <td align="center">http://tamnhin.net/Uploaded/thanhlongtn/Images/2012/thang%205-2012/3/hcm.jpg</td> </tr> <tr> <td style="font-size: 8pt;" align="center">
</td> </tr> </tbody></table> Tinh thần của nền công ḥa
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
“Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”.
Theo tư duy của Hồ Chí Minh, đó là những lời bất hủ về tinh thần của nền cộng ḥa, mà Người tiếp nhận được từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Những lời bất hủ ấy cũng đă được Hồ Chí Minh đưa vào Việt Nam qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Với khát vọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ cho đất nước; ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, thoát khỏi áp bức bất công cho nhân dân, Hồ Chí Minh cũng đă đến với chủ nghĩa “Tam dân”: Dân tộc độc lập – Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc, như đến với những giá trị của tinh thần cộng ḥa ở phương Đông.
Mục tiêu tối thượng là giải phóng thuộc địa từ tay thực dân Pháp giành lại độc lập cho đất nước và lợi quyền cho nhân dân, đă thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với Lênin, qua bài viết của Lênin về vấn đề thuộc địa. Vấn đề này, ở khía cạnh giải phóng các dân tộc thuộc địa khỏi áp bức bóc lột, bất công do đế quốc thực dân gây ra, thiết nghĩ cũng không nằm ngoài tinh thần cộng ḥa - là cái mà Hồ Chí Minh cần t́m, chọn cho Việt Nam.
Tinh thần cộng ḥa theo tư duy và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với việc lựa chọn chính thể cho Việt Nam sau khi giành được độc lập, bao gồm một số nội dung cơ bản như:
- Nền cộng ḥa dân chủ.
- Sứ mệnh và tầm nh́n của nền dân chủ cộng ḥa ấy là: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
- Tất cả quyền bính là của toàn thể nhân dân, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Tất cả quyền bính đó, được cụ thể hóa trong 11 điều (từ điều 6 đến 16) của Hiến pháp năm 1946, đến nay vẫn c̣n nguyên giá trị của tính thần cộng ḥa, dân chủ.
- Tất cả công dân đều b́nh đẳng trước pháp luật – ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa xă hội, là cơ sở pháp quyền cho sự phát triển của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Sự bất cập của thể chế
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Tiếp đó, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập được bầu ra tại cuộc tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Và Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă được Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946.
Trải qua trên 65 năm, Hiến pháp năm 1946 đă qua 3 lần sửa đổi vào các năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Ba lần sửa đổi đó, mà nhất là lần sửa đổi năm 1992 đă có khoảng cách khác biệt khá xa với tinh thần cộng ḥa, dân chủ mà Hiến pháp năm 1946 đă chọn.
Hiến pháp năm 1992, chọn chế độ chính trị là xă hội chủ nghĩa trong cụm từ Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa thay cho Dân chủ Cộng ḥa của Hiến pháp 1946.
Vậy xă hội chủ nghĩa (XHCN) là ǵ mà vừa thay cho Cộng ḥa Dân chủ, lại vừa gắn kết với cộng ḥa trong cụm từ Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa?
XHCN được đề cập ở đây là một h́nh thái xă hội (xă hội XHCN), mà những người phát kiến ra nó đă đưa vào đó những ư tưởng rất nhân văn, rất đáng được trân trọng. Nhưng mô thức tổ chức vận hành của h́nh thái xă hội XHCN cả trên góc độ lư thuyết lẫn thực tiễn, lại có không ít những nội hàm không hợp lư, quá lạc hậu, nhất là lạc hậu so với sự phát triển của xă hội hiện đại vốn mang những đặc tính cơ bản đă được sàng lọc, lựa chọn trong quá tŕnh tiến hóa của lịch sử nhân loại, bao gồm kinh tế thị trường, xă hội dân sự và Nhà nước pháp quyền.
Nền tảng chính trị tư tưởng và là kim chỉ nam của sự phát kiến h́nh thái xă hội XHCN là học thuyết Mác - Lênin. Mà với nhiều kết quả nghiên cứu, lư luận và tổng kết thực tiễn cho biết – học thuyết Mác-Lênin có cái trước đúng nay vẫn đúng, có cái trước đúng nay không c̣n phù hợp v́ bối cảnh xă hội đă có quá nhiều thay đổi, có cái trước và nay đều không đúng. Đơn giản chỉ v́ nó “không phải là một học thuyết đă hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch nào đó”, như cách nói của chính Lênin.
V́ thế, mô thức tổ chức xă hội XHCN, tự thân nó có nhiều khuyết tật gây bất ổn cho hệ thống giải pháp phát triển và hoàn thiện xă hội. Những khuyết tật gây bất ổn đó đă và đang tồn tại gắn liền với một số đặc trưng cơ bản như:
Tổ chức xă hội theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xă hội. Coi Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên chính vô sản và trên thực tế đă không tránh khỏi t́nh trạng lấy vô sản chuyên chính dân tộc đánh vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Mô thức tổ chức và vận hành nền kinh tế bị chi phối hầu như tuyệt đối bởi chế độ công hữu tư liệu sản xuất (bao gồm cả ruộng đất) là nền tảng, kinh tế Nhà nước là chủ đạo và phương thức kế hoạch hóa tập trung, bao cấp thay cho phương thức thị trường. Chọn mô thức tổ chức và vận hành như thế là không phù hợp với tinh thần “lấy dân làm gốc”, không khuyến khích và tạo điều kiện cho việc phát triển mọi nguồn lực của dân từ khu vực dân doanh.
Trong khi đó, khu vực kinh tế Nhà nước, nhất là các tổng công ty và tập đoàn kinh tế lớn được quá nhiều ưu ái, giao cho quá nhiều nguồn lực (cả nguồn lực cứng lẫn nguồn lực mềm) vượt quá tầm quản lư (cả quản trị kinh doanh và quản lư nhà nước), và hệ lụy khôn lường đă và đang đến là vừa kinh doanh không hiệu quả, vừa làm vẩn đục môi trường kinh doanh, tạo quá nhiều lỗ hổng cho cạnh tranh không lành mạnh, gây lăng phí, thất thoát và tham nhũng vô phương cứu chữa.
Đảng nắm quyền lănh đạo trực tiếp và tuyệt đối mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, xă hội của đất nước, và trên thực tế quyền lănh đạo đó đă trở thành siêu quyền lực, ( có nơi có lúc là Đảng trị cộng với sùng bái cá nhân) đặt lên trên dân quyền và pháp quyền. Sự hiện hữu của siêu quyền lực như vậy, không phù hợp với tinh thần đề cao dân chủ và thượng tôn pháp luật. Tập trung thái quá quyền lănh đạo của Đảng làm cho Đảng bị tha hóa và cũng làm cho các bộ phận quyền lực khác của hệ thống chính trị nói riêng và toàn xă hội nói chung (bao gồm quyền của người dân và công dân) bị vô hiệu hóa, trở thành hữu danh vô thực. Hệ lụy đă và đang đến là, đă mất quyền th́ cũng mất luôn trách nhiệm xă hội, khiến cho xă hội không có người làm chủ đích thực và trở thành chỗ dung thân hợp pháp cho thói vô trách nhiệm và vô cảm.
Mô thức tổ chức vận hành xă hội XHCN với những đặc trưng vốn hàm chứa nhiều khuyết tật gây bất ổn cho giải pháp phát triển và hoàn thiện xă hội như vậy thực sự không c̣n đáng được tồn tại trong sự lựa chọn thể chế chính trị mà Hiến pháp cần có.
Mô thức tổ chức vận hành xă hội XHCN như vậy, cũng có khoảng cách khác biệt quá xa với tinh thần của nền cộng ḥa theo tư duy Hồ Chí Minh. Do vậy, cũng không thể ghép “XHCN” đó với “cộng ḥa” trong cụm từ “Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa” để giữ lại cái tên nước Việt Nam là nước “Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam” như đă ghi trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992.
Hiến pháp năm 1992 so với Hiến pháp năm 1946 là một bước thụt lụi. Không có những đột phá về cải cách thể chế trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khó có thể có được kết quả lập hiến ngang tầm với giai đoạn phát triển mới.
Mấy kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Xin nêu mấy vấn đề, cũng có thể coi là những ư tưởng muốn góp vào Hiến pháp sửa đổi:
- Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Các dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất, đều b́nh đẳng, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, đảng phái.
- Chế độ chính trị mà Việt Nam lựa chọn đưa vào Hiến pháp là Cộng ḥa (hoặc Cộng ḥa – Dân chủ hay Cộng ḥa – Dân chủ - Nhân dân). Sứ mệnh với tầm nh́n xa của chính thể Cộng ḥa là bảo vệ nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lănh thổ, dân giàu nước mạnh, xă hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Lợi quyền lớn nhất, cao nhất kể cả quyền sửa Hiến pháp là của toàn dân. Nghiêm cấm bất kỳ sự áp đặt lợi quyền nào khác lên trên lợi quyền của dân, do dân, v́ dân.
- Nhà nước của nước Cộng ḥa Việt Nam (hoặc Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa hay Cộng ḥa Dân chủ Nhân dân Việt nam) là Nhà nước pháp quyền tam quyền phân lập, của dân, do dân, v́ dân chứ không thể chỉ phân công ba quyền dưới sự lănh đạo thống nhất của Đảng như hiện nay.
- Điều 4 của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định Đảng Cộng sản Việt nam là lực lượng duy nhất lănh đạo Nhà nước và lănh đạo xă hội Việt Nam. Thiết nghĩ, trong Hiến pháp sửa đổi, điều này nên dành cho những quy định của Hiến pháp về Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền phải trung thành với Hiến pháp và tuân thủ pháp luật, được nhân dân lựa chọn với những giới hạn thời gian nhất định, chịu sự giám sát, phán xét và xử lư của nhân dân theo Luật định.
- Với tầm của Hiến pháp, cần có quyết sách đúng và rơ về chủ quyền và quyền sở hữu về đất đai.
Đất đai là tài nguyên và môi trường tự nhiên, như tài nguyên khoáng sản trong ḷng đất, tài nguyên nước, thời tiết khí hậu và đa dạng sinh học, vùng trời, vùng biển và hải đảo . . . thuộc chủ quyền quốc gia, Nhà nước được trao quyền quản lư, ai khai thác sử dụng phải được Nhà nước cho phép, chịu sự chế tài của pháp luật và phải nộp thuế cho Nhà nước.
Đất được đưa vào sử dụng, trở thành sản phẩm của lao động (thậm chí cả lao động cha truyền con nối), là tài sản của chủ thể sản xuất kinh doanh nhất định. Trong sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất, là yếu tố của sản xuất, như các yếu tố công cụ khác là vật sở hữu của nông dân, không có lư ǵ đất ở đây không phải là vật sở hữu của nhà nông. Đất là yếu tố cấu thành tài sản trong bất động sản, vốn là một thể thống nhất không thể chia cắt được, tất yếu phải là tài sản, là vật sở hữu của chủ thể kinh doanh bất động sản.
V́ thế với tầm Hiến pháp, lần sửa đổi này, cần có quyết sách đúng về chủ quyền quốc gia về tài nguyên và môi trường tự nhiên, trong đó có tài nguyên đất. Và cần có sự thừa nhận quyền sở hữu của các chủ thể sử dụng đất với tư cách là tài sản, là tư liệu sản xuất, là yếu tố của sản xuất như bao nhiêu yếu tố khác vốn đă là sở hữu của họ, trong đó có chủ thể là tư nhân (là chủ sở hữu tư nhân), có chủ thể là tổ chức xă hội (là sở hữu tập thể) và có chủ thể là Nhà nước (là sở hữu Nhà nước).
Đất đai là tài sản có chủ sở hữu rơ ràng, trong kinh tế thị trường việc dịch chuyển quyền sở hữu dưới h́nh thức mua bán đất là tất yếu. Nhà nước khi có nhu cầu v́ quốc kế dân sinh thường phải trưng mua theo cơ chế và giá cả thị trường.
- Mô h́nh kinh tế tổng quát bị chi phối bởi thể chế kinh tế nặng về công hữu là nền tảng, kinh tế Nhà nước là chủ đạo, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp đă không c̣n phù hợp, thiết nghĩ phải thay đổi trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Mô h́nh kinh tế được lựa chọn, thay thế có những đặc trưng cơ bản là: (1) Kinh tế thị trường hiện đại; (2) Hai loại h́nh – công hữu và tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; ba khu vực - kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp; với đa dạng các chủ thể kinh doanh b́nh đẳng trước pháp luật, cùng phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không coi công hữu là nền tảng và cũng không coi kinh tế Nhà nước là chủ đạo, mà chỉ xác định đúng mức vai tṛ của Nhà nước pháp quyền đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam; (3) Thực thi dân chủ trong kinh tế, mà vấn đề cốt lơi là quyền của người dân và thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp; (4) Liên kết hợp tác và hội nhập quốc tế.
PGS. Đào Công Tiến
Nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế VN
<table cellpadding="0" cellspacing="0" width="100%"> <tbody><tr> <td align="center">http://tamnhin.net/Uploaded/thanhlongtn/Images/2012/thang%205-2012/3/hcm.jpg</td> </tr> <tr> <td style="font-size: 8pt;" align="center">
</td> </tr> </tbody></table> Tinh thần của nền công ḥa
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
“Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”.
Theo tư duy của Hồ Chí Minh, đó là những lời bất hủ về tinh thần của nền cộng ḥa, mà Người tiếp nhận được từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Những lời bất hủ ấy cũng đă được Hồ Chí Minh đưa vào Việt Nam qua Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Với khát vọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ cho đất nước; ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, thoát khỏi áp bức bất công cho nhân dân, Hồ Chí Minh cũng đă đến với chủ nghĩa “Tam dân”: Dân tộc độc lập – Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc, như đến với những giá trị của tinh thần cộng ḥa ở phương Đông.
Mục tiêu tối thượng là giải phóng thuộc địa từ tay thực dân Pháp giành lại độc lập cho đất nước và lợi quyền cho nhân dân, đă thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với Lênin, qua bài viết của Lênin về vấn đề thuộc địa. Vấn đề này, ở khía cạnh giải phóng các dân tộc thuộc địa khỏi áp bức bóc lột, bất công do đế quốc thực dân gây ra, thiết nghĩ cũng không nằm ngoài tinh thần cộng ḥa - là cái mà Hồ Chí Minh cần t́m, chọn cho Việt Nam.
Tinh thần cộng ḥa theo tư duy và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với việc lựa chọn chính thể cho Việt Nam sau khi giành được độc lập, bao gồm một số nội dung cơ bản như:
- Nền cộng ḥa dân chủ.
- Sứ mệnh và tầm nh́n của nền dân chủ cộng ḥa ấy là: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
- Tất cả quyền bính là của toàn thể nhân dân, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Tất cả quyền bính đó, được cụ thể hóa trong 11 điều (từ điều 6 đến 16) của Hiến pháp năm 1946, đến nay vẫn c̣n nguyên giá trị của tính thần cộng ḥa, dân chủ.
- Tất cả công dân đều b́nh đẳng trước pháp luật – ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa xă hội, là cơ sở pháp quyền cho sự phát triển của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Sự bất cập của thể chế
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Tiếp đó, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập được bầu ra tại cuộc tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Và Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă được Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946.
Trải qua trên 65 năm, Hiến pháp năm 1946 đă qua 3 lần sửa đổi vào các năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Ba lần sửa đổi đó, mà nhất là lần sửa đổi năm 1992 đă có khoảng cách khác biệt khá xa với tinh thần cộng ḥa, dân chủ mà Hiến pháp năm 1946 đă chọn.
Hiến pháp năm 1992, chọn chế độ chính trị là xă hội chủ nghĩa trong cụm từ Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa thay cho Dân chủ Cộng ḥa của Hiến pháp 1946.
Vậy xă hội chủ nghĩa (XHCN) là ǵ mà vừa thay cho Cộng ḥa Dân chủ, lại vừa gắn kết với cộng ḥa trong cụm từ Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa?
XHCN được đề cập ở đây là một h́nh thái xă hội (xă hội XHCN), mà những người phát kiến ra nó đă đưa vào đó những ư tưởng rất nhân văn, rất đáng được trân trọng. Nhưng mô thức tổ chức vận hành của h́nh thái xă hội XHCN cả trên góc độ lư thuyết lẫn thực tiễn, lại có không ít những nội hàm không hợp lư, quá lạc hậu, nhất là lạc hậu so với sự phát triển của xă hội hiện đại vốn mang những đặc tính cơ bản đă được sàng lọc, lựa chọn trong quá tŕnh tiến hóa của lịch sử nhân loại, bao gồm kinh tế thị trường, xă hội dân sự và Nhà nước pháp quyền.
Nền tảng chính trị tư tưởng và là kim chỉ nam của sự phát kiến h́nh thái xă hội XHCN là học thuyết Mác - Lênin. Mà với nhiều kết quả nghiên cứu, lư luận và tổng kết thực tiễn cho biết – học thuyết Mác-Lênin có cái trước đúng nay vẫn đúng, có cái trước đúng nay không c̣n phù hợp v́ bối cảnh xă hội đă có quá nhiều thay đổi, có cái trước và nay đều không đúng. Đơn giản chỉ v́ nó “không phải là một học thuyết đă hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch nào đó”, như cách nói của chính Lênin.
V́ thế, mô thức tổ chức xă hội XHCN, tự thân nó có nhiều khuyết tật gây bất ổn cho hệ thống giải pháp phát triển và hoàn thiện xă hội. Những khuyết tật gây bất ổn đó đă và đang tồn tại gắn liền với một số đặc trưng cơ bản như:
Tổ chức xă hội theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xă hội. Coi Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên chính vô sản và trên thực tế đă không tránh khỏi t́nh trạng lấy vô sản chuyên chính dân tộc đánh vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Mô thức tổ chức và vận hành nền kinh tế bị chi phối hầu như tuyệt đối bởi chế độ công hữu tư liệu sản xuất (bao gồm cả ruộng đất) là nền tảng, kinh tế Nhà nước là chủ đạo và phương thức kế hoạch hóa tập trung, bao cấp thay cho phương thức thị trường. Chọn mô thức tổ chức và vận hành như thế là không phù hợp với tinh thần “lấy dân làm gốc”, không khuyến khích và tạo điều kiện cho việc phát triển mọi nguồn lực của dân từ khu vực dân doanh.
Trong khi đó, khu vực kinh tế Nhà nước, nhất là các tổng công ty và tập đoàn kinh tế lớn được quá nhiều ưu ái, giao cho quá nhiều nguồn lực (cả nguồn lực cứng lẫn nguồn lực mềm) vượt quá tầm quản lư (cả quản trị kinh doanh và quản lư nhà nước), và hệ lụy khôn lường đă và đang đến là vừa kinh doanh không hiệu quả, vừa làm vẩn đục môi trường kinh doanh, tạo quá nhiều lỗ hổng cho cạnh tranh không lành mạnh, gây lăng phí, thất thoát và tham nhũng vô phương cứu chữa.
Đảng nắm quyền lănh đạo trực tiếp và tuyệt đối mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, xă hội của đất nước, và trên thực tế quyền lănh đạo đó đă trở thành siêu quyền lực, ( có nơi có lúc là Đảng trị cộng với sùng bái cá nhân) đặt lên trên dân quyền và pháp quyền. Sự hiện hữu của siêu quyền lực như vậy, không phù hợp với tinh thần đề cao dân chủ và thượng tôn pháp luật. Tập trung thái quá quyền lănh đạo của Đảng làm cho Đảng bị tha hóa và cũng làm cho các bộ phận quyền lực khác của hệ thống chính trị nói riêng và toàn xă hội nói chung (bao gồm quyền của người dân và công dân) bị vô hiệu hóa, trở thành hữu danh vô thực. Hệ lụy đă và đang đến là, đă mất quyền th́ cũng mất luôn trách nhiệm xă hội, khiến cho xă hội không có người làm chủ đích thực và trở thành chỗ dung thân hợp pháp cho thói vô trách nhiệm và vô cảm.
Mô thức tổ chức vận hành xă hội XHCN với những đặc trưng vốn hàm chứa nhiều khuyết tật gây bất ổn cho giải pháp phát triển và hoàn thiện xă hội như vậy thực sự không c̣n đáng được tồn tại trong sự lựa chọn thể chế chính trị mà Hiến pháp cần có.
Mô thức tổ chức vận hành xă hội XHCN như vậy, cũng có khoảng cách khác biệt quá xa với tinh thần của nền cộng ḥa theo tư duy Hồ Chí Minh. Do vậy, cũng không thể ghép “XHCN” đó với “cộng ḥa” trong cụm từ “Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa” để giữ lại cái tên nước Việt Nam là nước “Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam” như đă ghi trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992.
Hiến pháp năm 1992 so với Hiến pháp năm 1946 là một bước thụt lụi. Không có những đột phá về cải cách thể chế trong sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khó có thể có được kết quả lập hiến ngang tầm với giai đoạn phát triển mới.
Mấy kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Xin nêu mấy vấn đề, cũng có thể coi là những ư tưởng muốn góp vào Hiến pháp sửa đổi:
- Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Các dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất, đều b́nh đẳng, không phân biệt ṇi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, đảng phái.
- Chế độ chính trị mà Việt Nam lựa chọn đưa vào Hiến pháp là Cộng ḥa (hoặc Cộng ḥa – Dân chủ hay Cộng ḥa – Dân chủ - Nhân dân). Sứ mệnh với tầm nh́n xa của chính thể Cộng ḥa là bảo vệ nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lănh thổ, dân giàu nước mạnh, xă hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Lợi quyền lớn nhất, cao nhất kể cả quyền sửa Hiến pháp là của toàn dân. Nghiêm cấm bất kỳ sự áp đặt lợi quyền nào khác lên trên lợi quyền của dân, do dân, v́ dân.
- Nhà nước của nước Cộng ḥa Việt Nam (hoặc Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa hay Cộng ḥa Dân chủ Nhân dân Việt nam) là Nhà nước pháp quyền tam quyền phân lập, của dân, do dân, v́ dân chứ không thể chỉ phân công ba quyền dưới sự lănh đạo thống nhất của Đảng như hiện nay.
- Điều 4 của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định Đảng Cộng sản Việt nam là lực lượng duy nhất lănh đạo Nhà nước và lănh đạo xă hội Việt Nam. Thiết nghĩ, trong Hiến pháp sửa đổi, điều này nên dành cho những quy định của Hiến pháp về Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền phải trung thành với Hiến pháp và tuân thủ pháp luật, được nhân dân lựa chọn với những giới hạn thời gian nhất định, chịu sự giám sát, phán xét và xử lư của nhân dân theo Luật định.
- Với tầm của Hiến pháp, cần có quyết sách đúng và rơ về chủ quyền và quyền sở hữu về đất đai.
Đất đai là tài nguyên và môi trường tự nhiên, như tài nguyên khoáng sản trong ḷng đất, tài nguyên nước, thời tiết khí hậu và đa dạng sinh học, vùng trời, vùng biển và hải đảo . . . thuộc chủ quyền quốc gia, Nhà nước được trao quyền quản lư, ai khai thác sử dụng phải được Nhà nước cho phép, chịu sự chế tài của pháp luật và phải nộp thuế cho Nhà nước.
Đất được đưa vào sử dụng, trở thành sản phẩm của lao động (thậm chí cả lao động cha truyền con nối), là tài sản của chủ thể sản xuất kinh doanh nhất định. Trong sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất, là yếu tố của sản xuất, như các yếu tố công cụ khác là vật sở hữu của nông dân, không có lư ǵ đất ở đây không phải là vật sở hữu của nhà nông. Đất là yếu tố cấu thành tài sản trong bất động sản, vốn là một thể thống nhất không thể chia cắt được, tất yếu phải là tài sản, là vật sở hữu của chủ thể kinh doanh bất động sản.
V́ thế với tầm Hiến pháp, lần sửa đổi này, cần có quyết sách đúng về chủ quyền quốc gia về tài nguyên và môi trường tự nhiên, trong đó có tài nguyên đất. Và cần có sự thừa nhận quyền sở hữu của các chủ thể sử dụng đất với tư cách là tài sản, là tư liệu sản xuất, là yếu tố của sản xuất như bao nhiêu yếu tố khác vốn đă là sở hữu của họ, trong đó có chủ thể là tư nhân (là chủ sở hữu tư nhân), có chủ thể là tổ chức xă hội (là sở hữu tập thể) và có chủ thể là Nhà nước (là sở hữu Nhà nước).
Đất đai là tài sản có chủ sở hữu rơ ràng, trong kinh tế thị trường việc dịch chuyển quyền sở hữu dưới h́nh thức mua bán đất là tất yếu. Nhà nước khi có nhu cầu v́ quốc kế dân sinh thường phải trưng mua theo cơ chế và giá cả thị trường.
- Mô h́nh kinh tế tổng quát bị chi phối bởi thể chế kinh tế nặng về công hữu là nền tảng, kinh tế Nhà nước là chủ đạo, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp đă không c̣n phù hợp, thiết nghĩ phải thay đổi trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Mô h́nh kinh tế được lựa chọn, thay thế có những đặc trưng cơ bản là: (1) Kinh tế thị trường hiện đại; (2) Hai loại h́nh – công hữu và tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; ba khu vực - kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp; với đa dạng các chủ thể kinh doanh b́nh đẳng trước pháp luật, cùng phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, không coi công hữu là nền tảng và cũng không coi kinh tế Nhà nước là chủ đạo, mà chỉ xác định đúng mức vai tṛ của Nhà nước pháp quyền đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam; (3) Thực thi dân chủ trong kinh tế, mà vấn đề cốt lơi là quyền của người dân và thực quyền kinh doanh của doanh nghiệp; (4) Liên kết hợp tác và hội nhập quốc tế.
PGS. Đào Công Tiến
Nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế VN