vuitoichat
06-03-2012, 09:30
On The Net - Cuốn sách «Các Thế Kỷ» (Les-Centuries) của nhà tiên tri nổi tiếng người Pháp Nostradamus, trong số rất nhiều dự ngôn về tương lai của lịch sử nhân loại, tựa như một viên ngọc minh châu tỏa sáng lấp lánh. Trong suốt lịch sử 400 năm sau khi Nostradamus qua đời, «Các Thế Kỷ» đă tiên tri rất nhiều sự kiện trong các thời kỳ khác nhau trên toàn thế giới mà không hề gián đoạn, đồng thời vô cùng ứng nghiệm: từ thế kỷ 16 khi Nostradamus c̣n sống, Vua Henry II của Pháp đă chết như thế nào, số phận của Hoàng Hậu và con cái ông ra sao; cho tới tận thế kỷ 21, từ vụ khủng bố ngày 11/9 tại Trung tâm Thương mại Thế giới ở Hoa Kỳ, cho tới cái chết của Saddam Hussein ở Iraq; các sự kiện trung gian như các vị Vua Pháp sau thế kỷ 16, đại cách mạng Pháp, tên của Napoleon và Hitler, cho tới vụ ném bom nguyên tử tại Hiroshima, v.v. với độ chuẩn xác đến kinh người.
Trong lịch sử, các dự ngôn Tây phương có thể so sánh với «Các Thế Kỷ» quả thực không nhiều, trong cả một biển sách đă được nhân loại xuất bản, ngoại trừ «Thánh Kinh» ra, e rằng chỉ có «Các Thế Kỷ» của Nostradamus mới được người ta gọi là “Tân Thánh Kinh”. Tuy nhiên tại Đông phương, nhất là trong lịch sử Trung Quốc, đă từng có một vài dự ngôn khiến người ta kinh ngạc, ví như «Mă Tiền Khóa» của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, «Thôi Bối Đồ» của Lư Thuần Phong và Viên Thiên Cang triều Đường, «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn triều Minh, v.v Những dự ngôn này so với «Các Thế Kỷ» th́ cổ xưa hơn, cũng rất ứng nghiệm với lịch sử, về cơ bản đều là được sắp xếp theo tŕnh tự thời gian, ngoại trừ một bộ phận bị làm xáo trộn, và có thể được đọc như một cuốn sách lịch sử.
«Các Thế Kỷ» được viết theo thể thơ tứ tuyệt, tổng cộng 10 cuốn, mỗi cuốn gồm 100 bài thơ, duy chỉ có cuốn số 7 là chỉ có 42 bài, tổng cộng có 942 bài thơ tiên tri, tuy nhiên nội dung dự ngôn lại không theo tŕnh tự thời gian, là do «Các Thế Kỷ» có một bộ phận bị làm xáo trộn. Chuyên gia giải mă «Các Thế Kỷ» thành công nhất trong lịch sử là Charles A. Ward, tác giả cuốn sách «Oracles of Nostradamus» xuất bản năm 1891, đă phá giải được 15% các bài thơ trong «Các Thế Kỷ», tức 145 bài. Sau đó cũng có một số học giả xuất bản tác phẩm nghiên cứu «Các Thế Kỷ», nhưng tự họ phá giải được th́ chỉ từ 20-30 bài, mà một bộ phận trong đó là hiểu nhầm. Sự hiểu sai phổ biến nhất chính là Khổ 72 của Các Thế Kỷ IX, trong đó nói rằng “Năm 1999, tháng 7; Một Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,…” Người ta đều cho rằng Nostradamus nói về “ngày tận thế” vào năm 1999, nhưng cuối cùng điều này lại không xảy ra, từ đó rất nhiều người theo chủ nghĩa vô thần bắt đầu phê phán «Các Thế Kỷ», khiến nhiều người hoài nghi về lời tiên tri của Nostradamus; thực ra, đây là sự hiểu sai của người đời sau đối với «Các Thế Kỷ» mà tạo thành vậy.
Trên thực tế, trong 942 bài thơ tiên tri của «Các Thế Kỷ», lượng thông tin bao hàm là cực lớn, miêu tả chi tiết và sinh động rất nhiều sự kiện lịch sử, đồng thời cùng một sự kiện lịch sử lớn có nhiều bài tiên tri khác nhau, từ các giác độ, thậm chí các tầng thứ khác nhau để tiến hành miêu tả, do đó chúng có sức hấp dẫn đặc biệt mà các dự ngôn khác không có. Từ khía cạnh địa lư mà nói, «Các Thế Kỷ» bao hàm phạm vi toàn thế giới, và mặc dù vào thời đại của Nostradamus, châu Mỹ vẫn chưa được phát hiện, nhưng ông vẫn có thể dùng các địa danh châu Âu với lịch sử và địa lư tương tự để ám chỉ các địa phương khác nhau trên toàn thế giới. Nếu bạn thực sự có thể đọc hiểu «Các Thế Kỷ», bạn sẽ phát hiện rằng đó không chỉ là một cuốn sách tiên tri vĩ đại, mà c̣n là một bộ sử thi huy hoàng, một tuyển tập những áng thơ cứu thế thần thánh.
Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi luận giải các sự kiện liên quan đến việc thảm sát tại Thiên an môn năm 1989
Năm 1989, cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn
Các Thế Kỷ I, Khổ 80
Nguyên văn tiếng Pháp:
De la fixiesme claire splendeur celeste,
Viendra tonner si fort eu la Bourgongne :
Puis naistra monstre de tres-hydeuse beste,
Mars, Auril, May, Iuin, grand charpin & rongne
Tiếng Anh:
From the sixth bright celestial light
it will come to thunder very strongly in Burgundy.
Then a monster will be born of a very hideous beast:
In March, April, May and June great wounding and worrying.
Tiếng Việt:
Từ luồng sáng thứ sáu xuất hiện trên bầu trời
Sẽ có tiếng sấm nổ rất lớn tại Burgundy.
Rồi một con quái vật sinh ra từ con thú rất gớm ghiếc:
Nỗi đau và lo lắng khôn nguôi trong tháng Ba, tháng Tư, tháng Năm và tháng Sáu.
Câu đầu tiên trong bài thơ mang theo mật mă thời gian, chỉ thời gian phát sinh sự kiện. “Luồng sáng thứ sáu xuất hiện trên bầu trời” đại biểu cho Thiên can thứ 6, tức là “Kỷ”; “luồng sáng” và “sấm nổ” ám chỉ Địa chi thuộc Hỏa; do đó năm này chính là năm “Kỷ Tỵ”; năm 1989 là năm “Kỷ Tỵ”. Trong lời mở đầu tôi đă nói qua: Những lời tiên tri trong «Các Thế Kỷ» bao quát phạm vi toàn thế giới, và mặc dù vào thời đại của Nostradamus Châu Mỹ vẫn chưa được phát hiện, nhưng ông vẫn có thể dùng các địa danh châu Âu với lịch sử và địa lư tương tự để ám chỉ các địa phương khác nhau trên toàn thế giới. Ở bề mặt mà xét, bài thơ tiên tri có thể chỉ sự kiện phát sinh tại thị trấn nhỏ nào đó ở Pháp hoặc Ư, nhưng thực ra lại để chỉ địa phương ở Châu Á hoặc Châu Mỹ vốn không thuộc phạm vi Đế chế La Mă. Burgundy là chỉ một địa khu tại Pháp hồi thế kỷ 14 và 15; Vương quốc Burgundy từng chế ngự một vùng nay là Hà Lan, Bỉ và Đông Bắc nước Pháp. Như vậy câu thứ hai bài thơ này chỉ thủ phủ thuộc vùng Đông Bắc của một quốc gia sẽ phát sinh một sự kiện lớn chấn động thế giới, đồng thời có liên quan đến con ác thú. Năm 1989, trên thế giới có một sự kiện “ác tính”, chính là thủ đô Bắc Kinh nằm ở Đông Bắc Trung Quốc phát sinh cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn. Câu thơ thứ ba, “Rồi một con yêu quái sinh ra với h́nh thù gớm ghiếc”, là chỉ tại sự kiện ngày 4 tháng 6 năm 1989, bản tính khát máu của con thú tà ác “rất gớm ghiếc” ĐCSTQ đă biểu hiện xuất lai; đồng thời từ con thú tà ác này sinh ra cái đầu của tà ác—”Giang quỷ”. Đương nhiên, con yêu quái được sinh ra từ bụng của con ác thú, cho nên gọi là “Giang quỷ” th́ cũng không sai.
Câu thứ tư của bài thơ miêu tả diễn biến sự kiện “Lục Tứ” (ngày 4/6): Tháng Ba, ĐCSTQ ban hành thiết quân luật tại Lhasa, gây ra cuộc thảm sát nhân dân Tây Tạng. Tháng Tư, Hồ Diệu Bang từ trần; sinh viên Bắc Kinh đến Thiên An Môn cử hành hoạt động tưởng niệm, tuần hành, sau đó phát triển thành phong trào sinh viên yêu nước đ̣i tự do dân chủ. Thế lực tà ác ĐCSTQ đă xuất bản bài xă luận ngày 26 tháng 4 với tiêu đề «Phải kiên quyết phản đối động loạn», trong đó gọi cuộc vận động ái quốc của sinh viên là “động loạn”, dẫn tới các cuộc tuần hành băi khóa quy mô ngày càng lớn của sinh viên. Tháng Năm, Triệu Tử Dương phát biểu bài nói chuyện “Ngũ Tứ”, khẳng định ḷng nhiệt t́nh ái quốc của sinh viên, nhấn mạnh cần duy tŕ ổn định. Tuy nhiên, ông không thể giải quyết vấn đề định tính “động loạn” trong nội bộ đảng; sinh viên tại Thiên An Môn bắt đầu tuyệt thực yêu cầu phủ định cách định tính “động loạn”; quần chúng các giới Bắc Kinh lên tiếng ủng hộ sinh viên tuyệt thực. Ngày 18, 19 tháng Năm, Triệu Tử Dương thăm hỏi sinh viên, thực tế là cáo biệt chính trị; sinh viên từ tuyệt thực trở thành biểu t́nh ngồi; ĐCSTQ tuyên bố lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh. Sau đó, thị dân và sinh viên Bắc Kinh bắt đầu chạy trên phố cản trở quân đội tiến vào; cả trăm vạn người trên quảng trường Thiên An Môn và Đại lộ Đông-Tây Trường An đồng loạt tiến hành hoạt động tuần hành thị uy. Tháng Sáu, quân đội ĐCSTQ dùng vũ lực cưỡng chế xâm nhập Bắc Kinh, bắt giết sinh viên và dân thường, gây ra thảm án ngày 4/6 đẫm máu.
20 năm đă mau chóng đi qua, thế nhưng thảm án ngày 4/6 vẫn c̣n y nguyên trong tâm trí những người Trung Quốc có lương tri như một “nỗi đau lớn”. Chính quyền của con thú tà ác ĐCSTQ chừng nào chưa sụp đổ, lương lai của Trung Quốc c̣n khiến người ta “lo lắng khôn nguôi”.
Triệu Tử Dương bị mưu sát chính trị; Giang Trạch Dân bức hại tín ngưỡng tôn giáo, bán rẻ lănh thổ phương Bắc
Các Thế Kỷ I, Khổ 52
Nguyên văn tiếng Pháp:
Les deux malins de Scorpion conioint,
Le grand Seigneur meurtry de dans ƒa ƒalle :
Peƒte à l’Egliƒe par le nouueau Roy ioint.
L’Europe baƒƒe, & Septentrionale.
Tiếng Anh:
Two evil influences in conjunction in Scorpio.
The great lord is murdered in his room.
A newly appointed king persecutes the Church,
the lower (parts of) Europe and in the North.
Tiếng Việt:
Hai thế lực tà ác gặp nhau tại cḥm sao Bọ Cạp.
Đại vương bị mưu sát trong căn pḥng của ông.
Quốc vương mới được chọn bức hại Giáo hội,
Vùng thấp của Châu Âu và tại phương Bắc.
Câu đầu tiên bài thơ này hàm chứa mật mă thời gian. Trong chiêm tinh học, cḥm sao Bọ Cạp (Scorpio) có sao bảo vệ là Diêm Vương tinh, thần bảo vệ là Vua Địa Ngục; do vậy bản thân cḥm sao Bọ Cạp chính là ngôi vị của Diêm Vương và thế lực tà ác. Quỹ đạo của Diêm Vương tinh có h́nh e-líp rất dẹt, điểm xa Mặt trời nhất là 7,4 tỷ km2, điểm gần Mặt trời nhất chỉ có 4,4 tỷ km2, chu kỳ hành tinh là 248 năm; Diêm Vương tinh vào năm 1989 chính là ở điểm gần Mặt trời nhất, thậm chí c̣n gần Mặt trời hơn cả Hải Vương tinh. Cụ thể vào tháng 9, mỗi năm nó lại gần Mặt trời và cḥm sao Bọ Cạp hơn vào tháng 10; Diêm Vương tinh vào năm 1989 là gần cḥm sao Bọ Cạp nhất trong chu kỳ 248 năm, cũng tương đương thế lực tà ác của Diêm Vương quay trở lại ngai. “Hai thế lực tà ác gặp nhau tại cḥm sao Bọ Cạp” do vậy chỉ năm 1989. Từ một góc độ khác, con bọ cạp có hai cái càng tựa như “hai thế lực tà ác”; năm 1989 Diêm Vương tinh gần cḥm sao Bọ Cạp nhất, hai thế lực tà ác gặp nhau. Sự kiện ngày 4 tháng 6 năm 1989 tại tháng 6, thuộc cḥm sao Song Tử (Gemini); “Song Tử” cũng hàm ư có hai lực lượng tà ác.
“Đại vương bị mưu sát trong căn pḥng của ông” là chỉ sau sự kiện ngày 4/6, Triệu Tử Dương bị giam lỏng tại tư gia, đồng thời bị ĐCSTQ tà ác “kết thúc sự nghiệp chính trị”, hay “mưu sát chính trị”. “Quốc vương mới được chọn” là chỉ ĐCSTQ độc tài không thông qua tuyển cử mà “chỉ định” Giang Trạch Dân làm người đứng đầu quốc gia. “Bức hại Giáo hội” là chỉ Giang Trạch Dân sau khi nắm quyền đă bức hại Pháp Luân Công, Cơ Đốc giáo cũng như các tín ngưỡng tôn giáo khác.
http://tindachieu.com/news/wp-content/uploads/2011/05/Tiananm012.jpg
Câu cuối cùng của bài thơ là nói tên giặc bán nước Giang Trạch Dân đem hơn 100 vạn km2 lănh thổ phía Bắc Trung Quốc bán cho Nga; phần lănh thổ này tương đương tổng diện tích ba tỉnh Đông Bắc và rộng gấp 10 lần Đài Loan. Ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 12 năm 1999 tại Bắc Kinh, Giang Trạch Dân và Tổng thống Nga Boris Yeltsin đă kư kết “Nghị định thư về phân hai đoạn giới tuyến Đông Tây giữa Liên bang Nga và nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa”, đem 100 vạn km2 lănh thổ phía Bắc biếu không cho Nga, đoạn đứt con đường rút lui cho sự sinh tồn và phát triển của dân tộc Trung Hoa. Cửa sông Đồ Môn Giang cũng bị Giang Trạch Dân cấp cho Nga, bịt cứng con đường truyền thống thông ra biển Nhật Bản tại Đông Bắc Trung Quốc. Phần lănh thổ phía Bắc này về mặt địa lư là thuộc vùng thấp phía Nam của b́nh nguyên Siberia. Siberia tại Châu Á là bộ phận b́nh nguyên thấp nhất trên thế giới, đây chính là một phần trong bản đồ h́nh lá hải đường của Trung Hoa Dân Quốc; tuy nhiên v́ bị Giang Trạch Dân bán rẻ, nó từ lănh thổ phương Bắc của Trung Quốc tại Châu Á trở thành “vùng thấp” của nước Nga tại Châu Âu.
Giới nghiêm tại Bắc Kinh
Các Thế Kỷ VI, Khổ 96
Nguyên văn tiếng Pháp:
Grand cité à soldats abandonnée,
Onc ny eut mortel tumult si proche,
O qu’elle hideuse calamité s’approche,
Fors vne offense n’y sera pardonnée.
Tiếng Anh:
Great city abandoned to the soldiers,
Never was mortal tumult so close to it:
Oh, what a hideous calamity draws near,
Except one offense nothing will be spared it.
Tiếng Việt:
Thành phố vĩ đại bị bỏ rơi cho các binh lính,
Chưa bao giờ sự hỗn loạn chết người gần đến như vậy:
Ô, một tai họa ghê tởm sắp đến,
Ngoại trừ kẻ hoàn toàn vô can sẽ tránh được nó.
Câu đầu tiên bài thơ này là nói về lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh. Từ 400 năm trước đây, vào thời đại của Nostradamus vẫn chưa có từ “giới nghiêm” (Martial law), do đó ông đă dùng cách nói “bị bỏ rơi cho các binh lính”. Trong t́nh trạng thiết quân luật được ban bố tại Bắc Kinh, nó đă châm ng̣i cho “sự hỗn loạn chết người” và “tai họa ghê tởm”. Ngày 19 tháng 5 năm 1989, ĐCSTQ ban bố lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh, kích thích ḷng căm phẫn của gần như toàn bộ nhân dân Bắc Kinh; rất nhiều thị dân và sinh viên đồng loạt xuống đường ngăn cản quân đội tiến vào thành phố. Ngày 23 tháng 5, hàng trăm vạn người đồng loạt tiến hành đợt tuần hành thị uy lần thứ 2 tại quảng trường Thiên An Môn và Đại lộ Đông-Tây Trường An. Tuy nhiên, ư nguyện của quảng đại nhân dân vẫn không mảy may cải biến được bản tính khát máu của ĐCSTQ tà ác; huyết án ngày 4/6 khiến cả người và Trời cùng căm phẫn bắt đầu. Câu cuối bài thơ nói về lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh, cuộc thảm sát ngày 4/6 đi kèm với thanh tra đại quy mô để t́m ra những người có liên can, với đại bộ phận đều chịu ảnh hưởng và xung kích: “Ngoại trừ kẻ hoàn toàn vô can sẽ tránh được nó.”
http://tindachieu.com/news/wp-content/uploads/2011/05/Tiananm013.jpg
Bộ đội giới nghiêm lúc đầu bị ngăn trở
Các Thế Kỷ X, Khổ 68
Nguyên văn tiếng Pháp:
L’armée de mer deuant cité tiendra,
Puis partira sans faire longue allée :
Citoyens grande proye enterre prendra,
Retourner classe reprendre grande emblée.
Tiếng Anh:
The army of the sea will stand before the city,
Then it will leave without making a long passage:
A great flock of citizens will be seized on land,
Fleet to return to seize it great robbery.
Tiếng Việt:
Quân đội của biển sẽ đứng trước thành phố,
Và nó sẽ rời đi mà không xếp thành hàng dài:
Một đám đông dân chúng sẽ bị bắt trên đất liền,
Đoàn xe trở lại giành lấy thành phố như ăn cướp.
Một số bài thơ tiên tri trong «Các Thế Kỷ» có đề cập tới chữ “biển” (the sea); đây là một kiểu đố chữ về địa danh, do vậy nếu không lư giải được hàm nghĩa th́ sẽ phá giải không nổi. Thực ra chữ “biển” ở đây là ám chỉ “Trung Nam Hải”, và “quân đội của biển” (The army of the sea) thực ra là quân đội ĐCSTQ. Bài thơ này miêu tả ngay sau khi ĐCSTQ tuyên bố giới nghiêm th́ thị dân và sinh viên Bắc Kinh đă ngăn cản quân đội tiến vào thành phố; họ đă thiết lập rất nhiều vật chướng ngại tại nhiều nút giao thông then chốt vào nội thành Bắc Kinh, và với vật chướng ngại trước mặt, xe quân đội phải xếp thành hàng dài để tiến vào. Tuy nhiên, đoàn xe lại lọt vào ṿng bao vây của thị dân và sinh viên Bắc Kinh nên buộc ḷng phải rút lui. Đây chính là “Quân đội của biển sẽ đứng trước thành phố, Và nó sẽ rời đi mà không xếp thành hàng dài”.
Trong lịch sử, các dự ngôn Tây phương có thể so sánh với «Các Thế Kỷ» quả thực không nhiều, trong cả một biển sách đă được nhân loại xuất bản, ngoại trừ «Thánh Kinh» ra, e rằng chỉ có «Các Thế Kỷ» của Nostradamus mới được người ta gọi là “Tân Thánh Kinh”. Tuy nhiên tại Đông phương, nhất là trong lịch sử Trung Quốc, đă từng có một vài dự ngôn khiến người ta kinh ngạc, ví như «Mă Tiền Khóa» của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, «Thôi Bối Đồ» của Lư Thuần Phong và Viên Thiên Cang triều Đường, «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn triều Minh, v.v Những dự ngôn này so với «Các Thế Kỷ» th́ cổ xưa hơn, cũng rất ứng nghiệm với lịch sử, về cơ bản đều là được sắp xếp theo tŕnh tự thời gian, ngoại trừ một bộ phận bị làm xáo trộn, và có thể được đọc như một cuốn sách lịch sử.
«Các Thế Kỷ» được viết theo thể thơ tứ tuyệt, tổng cộng 10 cuốn, mỗi cuốn gồm 100 bài thơ, duy chỉ có cuốn số 7 là chỉ có 42 bài, tổng cộng có 942 bài thơ tiên tri, tuy nhiên nội dung dự ngôn lại không theo tŕnh tự thời gian, là do «Các Thế Kỷ» có một bộ phận bị làm xáo trộn. Chuyên gia giải mă «Các Thế Kỷ» thành công nhất trong lịch sử là Charles A. Ward, tác giả cuốn sách «Oracles of Nostradamus» xuất bản năm 1891, đă phá giải được 15% các bài thơ trong «Các Thế Kỷ», tức 145 bài. Sau đó cũng có một số học giả xuất bản tác phẩm nghiên cứu «Các Thế Kỷ», nhưng tự họ phá giải được th́ chỉ từ 20-30 bài, mà một bộ phận trong đó là hiểu nhầm. Sự hiểu sai phổ biến nhất chính là Khổ 72 của Các Thế Kỷ IX, trong đó nói rằng “Năm 1999, tháng 7; Một Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,…” Người ta đều cho rằng Nostradamus nói về “ngày tận thế” vào năm 1999, nhưng cuối cùng điều này lại không xảy ra, từ đó rất nhiều người theo chủ nghĩa vô thần bắt đầu phê phán «Các Thế Kỷ», khiến nhiều người hoài nghi về lời tiên tri của Nostradamus; thực ra, đây là sự hiểu sai của người đời sau đối với «Các Thế Kỷ» mà tạo thành vậy.
Trên thực tế, trong 942 bài thơ tiên tri của «Các Thế Kỷ», lượng thông tin bao hàm là cực lớn, miêu tả chi tiết và sinh động rất nhiều sự kiện lịch sử, đồng thời cùng một sự kiện lịch sử lớn có nhiều bài tiên tri khác nhau, từ các giác độ, thậm chí các tầng thứ khác nhau để tiến hành miêu tả, do đó chúng có sức hấp dẫn đặc biệt mà các dự ngôn khác không có. Từ khía cạnh địa lư mà nói, «Các Thế Kỷ» bao hàm phạm vi toàn thế giới, và mặc dù vào thời đại của Nostradamus, châu Mỹ vẫn chưa được phát hiện, nhưng ông vẫn có thể dùng các địa danh châu Âu với lịch sử và địa lư tương tự để ám chỉ các địa phương khác nhau trên toàn thế giới. Nếu bạn thực sự có thể đọc hiểu «Các Thế Kỷ», bạn sẽ phát hiện rằng đó không chỉ là một cuốn sách tiên tri vĩ đại, mà c̣n là một bộ sử thi huy hoàng, một tuyển tập những áng thơ cứu thế thần thánh.
Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi luận giải các sự kiện liên quan đến việc thảm sát tại Thiên an môn năm 1989
Năm 1989, cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn
Các Thế Kỷ I, Khổ 80
Nguyên văn tiếng Pháp:
De la fixiesme claire splendeur celeste,
Viendra tonner si fort eu la Bourgongne :
Puis naistra monstre de tres-hydeuse beste,
Mars, Auril, May, Iuin, grand charpin & rongne
Tiếng Anh:
From the sixth bright celestial light
it will come to thunder very strongly in Burgundy.
Then a monster will be born of a very hideous beast:
In March, April, May and June great wounding and worrying.
Tiếng Việt:
Từ luồng sáng thứ sáu xuất hiện trên bầu trời
Sẽ có tiếng sấm nổ rất lớn tại Burgundy.
Rồi một con quái vật sinh ra từ con thú rất gớm ghiếc:
Nỗi đau và lo lắng khôn nguôi trong tháng Ba, tháng Tư, tháng Năm và tháng Sáu.
Câu đầu tiên trong bài thơ mang theo mật mă thời gian, chỉ thời gian phát sinh sự kiện. “Luồng sáng thứ sáu xuất hiện trên bầu trời” đại biểu cho Thiên can thứ 6, tức là “Kỷ”; “luồng sáng” và “sấm nổ” ám chỉ Địa chi thuộc Hỏa; do đó năm này chính là năm “Kỷ Tỵ”; năm 1989 là năm “Kỷ Tỵ”. Trong lời mở đầu tôi đă nói qua: Những lời tiên tri trong «Các Thế Kỷ» bao quát phạm vi toàn thế giới, và mặc dù vào thời đại của Nostradamus Châu Mỹ vẫn chưa được phát hiện, nhưng ông vẫn có thể dùng các địa danh châu Âu với lịch sử và địa lư tương tự để ám chỉ các địa phương khác nhau trên toàn thế giới. Ở bề mặt mà xét, bài thơ tiên tri có thể chỉ sự kiện phát sinh tại thị trấn nhỏ nào đó ở Pháp hoặc Ư, nhưng thực ra lại để chỉ địa phương ở Châu Á hoặc Châu Mỹ vốn không thuộc phạm vi Đế chế La Mă. Burgundy là chỉ một địa khu tại Pháp hồi thế kỷ 14 và 15; Vương quốc Burgundy từng chế ngự một vùng nay là Hà Lan, Bỉ và Đông Bắc nước Pháp. Như vậy câu thứ hai bài thơ này chỉ thủ phủ thuộc vùng Đông Bắc của một quốc gia sẽ phát sinh một sự kiện lớn chấn động thế giới, đồng thời có liên quan đến con ác thú. Năm 1989, trên thế giới có một sự kiện “ác tính”, chính là thủ đô Bắc Kinh nằm ở Đông Bắc Trung Quốc phát sinh cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn. Câu thơ thứ ba, “Rồi một con yêu quái sinh ra với h́nh thù gớm ghiếc”, là chỉ tại sự kiện ngày 4 tháng 6 năm 1989, bản tính khát máu của con thú tà ác “rất gớm ghiếc” ĐCSTQ đă biểu hiện xuất lai; đồng thời từ con thú tà ác này sinh ra cái đầu của tà ác—”Giang quỷ”. Đương nhiên, con yêu quái được sinh ra từ bụng của con ác thú, cho nên gọi là “Giang quỷ” th́ cũng không sai.
Câu thứ tư của bài thơ miêu tả diễn biến sự kiện “Lục Tứ” (ngày 4/6): Tháng Ba, ĐCSTQ ban hành thiết quân luật tại Lhasa, gây ra cuộc thảm sát nhân dân Tây Tạng. Tháng Tư, Hồ Diệu Bang từ trần; sinh viên Bắc Kinh đến Thiên An Môn cử hành hoạt động tưởng niệm, tuần hành, sau đó phát triển thành phong trào sinh viên yêu nước đ̣i tự do dân chủ. Thế lực tà ác ĐCSTQ đă xuất bản bài xă luận ngày 26 tháng 4 với tiêu đề «Phải kiên quyết phản đối động loạn», trong đó gọi cuộc vận động ái quốc của sinh viên là “động loạn”, dẫn tới các cuộc tuần hành băi khóa quy mô ngày càng lớn của sinh viên. Tháng Năm, Triệu Tử Dương phát biểu bài nói chuyện “Ngũ Tứ”, khẳng định ḷng nhiệt t́nh ái quốc của sinh viên, nhấn mạnh cần duy tŕ ổn định. Tuy nhiên, ông không thể giải quyết vấn đề định tính “động loạn” trong nội bộ đảng; sinh viên tại Thiên An Môn bắt đầu tuyệt thực yêu cầu phủ định cách định tính “động loạn”; quần chúng các giới Bắc Kinh lên tiếng ủng hộ sinh viên tuyệt thực. Ngày 18, 19 tháng Năm, Triệu Tử Dương thăm hỏi sinh viên, thực tế là cáo biệt chính trị; sinh viên từ tuyệt thực trở thành biểu t́nh ngồi; ĐCSTQ tuyên bố lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh. Sau đó, thị dân và sinh viên Bắc Kinh bắt đầu chạy trên phố cản trở quân đội tiến vào; cả trăm vạn người trên quảng trường Thiên An Môn và Đại lộ Đông-Tây Trường An đồng loạt tiến hành hoạt động tuần hành thị uy. Tháng Sáu, quân đội ĐCSTQ dùng vũ lực cưỡng chế xâm nhập Bắc Kinh, bắt giết sinh viên và dân thường, gây ra thảm án ngày 4/6 đẫm máu.
20 năm đă mau chóng đi qua, thế nhưng thảm án ngày 4/6 vẫn c̣n y nguyên trong tâm trí những người Trung Quốc có lương tri như một “nỗi đau lớn”. Chính quyền của con thú tà ác ĐCSTQ chừng nào chưa sụp đổ, lương lai của Trung Quốc c̣n khiến người ta “lo lắng khôn nguôi”.
Triệu Tử Dương bị mưu sát chính trị; Giang Trạch Dân bức hại tín ngưỡng tôn giáo, bán rẻ lănh thổ phương Bắc
Các Thế Kỷ I, Khổ 52
Nguyên văn tiếng Pháp:
Les deux malins de Scorpion conioint,
Le grand Seigneur meurtry de dans ƒa ƒalle :
Peƒte à l’Egliƒe par le nouueau Roy ioint.
L’Europe baƒƒe, & Septentrionale.
Tiếng Anh:
Two evil influences in conjunction in Scorpio.
The great lord is murdered in his room.
A newly appointed king persecutes the Church,
the lower (parts of) Europe and in the North.
Tiếng Việt:
Hai thế lực tà ác gặp nhau tại cḥm sao Bọ Cạp.
Đại vương bị mưu sát trong căn pḥng của ông.
Quốc vương mới được chọn bức hại Giáo hội,
Vùng thấp của Châu Âu và tại phương Bắc.
Câu đầu tiên bài thơ này hàm chứa mật mă thời gian. Trong chiêm tinh học, cḥm sao Bọ Cạp (Scorpio) có sao bảo vệ là Diêm Vương tinh, thần bảo vệ là Vua Địa Ngục; do vậy bản thân cḥm sao Bọ Cạp chính là ngôi vị của Diêm Vương và thế lực tà ác. Quỹ đạo của Diêm Vương tinh có h́nh e-líp rất dẹt, điểm xa Mặt trời nhất là 7,4 tỷ km2, điểm gần Mặt trời nhất chỉ có 4,4 tỷ km2, chu kỳ hành tinh là 248 năm; Diêm Vương tinh vào năm 1989 chính là ở điểm gần Mặt trời nhất, thậm chí c̣n gần Mặt trời hơn cả Hải Vương tinh. Cụ thể vào tháng 9, mỗi năm nó lại gần Mặt trời và cḥm sao Bọ Cạp hơn vào tháng 10; Diêm Vương tinh vào năm 1989 là gần cḥm sao Bọ Cạp nhất trong chu kỳ 248 năm, cũng tương đương thế lực tà ác của Diêm Vương quay trở lại ngai. “Hai thế lực tà ác gặp nhau tại cḥm sao Bọ Cạp” do vậy chỉ năm 1989. Từ một góc độ khác, con bọ cạp có hai cái càng tựa như “hai thế lực tà ác”; năm 1989 Diêm Vương tinh gần cḥm sao Bọ Cạp nhất, hai thế lực tà ác gặp nhau. Sự kiện ngày 4 tháng 6 năm 1989 tại tháng 6, thuộc cḥm sao Song Tử (Gemini); “Song Tử” cũng hàm ư có hai lực lượng tà ác.
“Đại vương bị mưu sát trong căn pḥng của ông” là chỉ sau sự kiện ngày 4/6, Triệu Tử Dương bị giam lỏng tại tư gia, đồng thời bị ĐCSTQ tà ác “kết thúc sự nghiệp chính trị”, hay “mưu sát chính trị”. “Quốc vương mới được chọn” là chỉ ĐCSTQ độc tài không thông qua tuyển cử mà “chỉ định” Giang Trạch Dân làm người đứng đầu quốc gia. “Bức hại Giáo hội” là chỉ Giang Trạch Dân sau khi nắm quyền đă bức hại Pháp Luân Công, Cơ Đốc giáo cũng như các tín ngưỡng tôn giáo khác.
http://tindachieu.com/news/wp-content/uploads/2011/05/Tiananm012.jpg
Câu cuối cùng của bài thơ là nói tên giặc bán nước Giang Trạch Dân đem hơn 100 vạn km2 lănh thổ phía Bắc Trung Quốc bán cho Nga; phần lănh thổ này tương đương tổng diện tích ba tỉnh Đông Bắc và rộng gấp 10 lần Đài Loan. Ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 12 năm 1999 tại Bắc Kinh, Giang Trạch Dân và Tổng thống Nga Boris Yeltsin đă kư kết “Nghị định thư về phân hai đoạn giới tuyến Đông Tây giữa Liên bang Nga và nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa”, đem 100 vạn km2 lănh thổ phía Bắc biếu không cho Nga, đoạn đứt con đường rút lui cho sự sinh tồn và phát triển của dân tộc Trung Hoa. Cửa sông Đồ Môn Giang cũng bị Giang Trạch Dân cấp cho Nga, bịt cứng con đường truyền thống thông ra biển Nhật Bản tại Đông Bắc Trung Quốc. Phần lănh thổ phía Bắc này về mặt địa lư là thuộc vùng thấp phía Nam của b́nh nguyên Siberia. Siberia tại Châu Á là bộ phận b́nh nguyên thấp nhất trên thế giới, đây chính là một phần trong bản đồ h́nh lá hải đường của Trung Hoa Dân Quốc; tuy nhiên v́ bị Giang Trạch Dân bán rẻ, nó từ lănh thổ phương Bắc của Trung Quốc tại Châu Á trở thành “vùng thấp” của nước Nga tại Châu Âu.
Giới nghiêm tại Bắc Kinh
Các Thế Kỷ VI, Khổ 96
Nguyên văn tiếng Pháp:
Grand cité à soldats abandonnée,
Onc ny eut mortel tumult si proche,
O qu’elle hideuse calamité s’approche,
Fors vne offense n’y sera pardonnée.
Tiếng Anh:
Great city abandoned to the soldiers,
Never was mortal tumult so close to it:
Oh, what a hideous calamity draws near,
Except one offense nothing will be spared it.
Tiếng Việt:
Thành phố vĩ đại bị bỏ rơi cho các binh lính,
Chưa bao giờ sự hỗn loạn chết người gần đến như vậy:
Ô, một tai họa ghê tởm sắp đến,
Ngoại trừ kẻ hoàn toàn vô can sẽ tránh được nó.
Câu đầu tiên bài thơ này là nói về lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh. Từ 400 năm trước đây, vào thời đại của Nostradamus vẫn chưa có từ “giới nghiêm” (Martial law), do đó ông đă dùng cách nói “bị bỏ rơi cho các binh lính”. Trong t́nh trạng thiết quân luật được ban bố tại Bắc Kinh, nó đă châm ng̣i cho “sự hỗn loạn chết người” và “tai họa ghê tởm”. Ngày 19 tháng 5 năm 1989, ĐCSTQ ban bố lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh, kích thích ḷng căm phẫn của gần như toàn bộ nhân dân Bắc Kinh; rất nhiều thị dân và sinh viên đồng loạt xuống đường ngăn cản quân đội tiến vào thành phố. Ngày 23 tháng 5, hàng trăm vạn người đồng loạt tiến hành đợt tuần hành thị uy lần thứ 2 tại quảng trường Thiên An Môn và Đại lộ Đông-Tây Trường An. Tuy nhiên, ư nguyện của quảng đại nhân dân vẫn không mảy may cải biến được bản tính khát máu của ĐCSTQ tà ác; huyết án ngày 4/6 khiến cả người và Trời cùng căm phẫn bắt đầu. Câu cuối bài thơ nói về lệnh giới nghiêm tại Bắc Kinh, cuộc thảm sát ngày 4/6 đi kèm với thanh tra đại quy mô để t́m ra những người có liên can, với đại bộ phận đều chịu ảnh hưởng và xung kích: “Ngoại trừ kẻ hoàn toàn vô can sẽ tránh được nó.”
http://tindachieu.com/news/wp-content/uploads/2011/05/Tiananm013.jpg
Bộ đội giới nghiêm lúc đầu bị ngăn trở
Các Thế Kỷ X, Khổ 68
Nguyên văn tiếng Pháp:
L’armée de mer deuant cité tiendra,
Puis partira sans faire longue allée :
Citoyens grande proye enterre prendra,
Retourner classe reprendre grande emblée.
Tiếng Anh:
The army of the sea will stand before the city,
Then it will leave without making a long passage:
A great flock of citizens will be seized on land,
Fleet to return to seize it great robbery.
Tiếng Việt:
Quân đội của biển sẽ đứng trước thành phố,
Và nó sẽ rời đi mà không xếp thành hàng dài:
Một đám đông dân chúng sẽ bị bắt trên đất liền,
Đoàn xe trở lại giành lấy thành phố như ăn cướp.
Một số bài thơ tiên tri trong «Các Thế Kỷ» có đề cập tới chữ “biển” (the sea); đây là một kiểu đố chữ về địa danh, do vậy nếu không lư giải được hàm nghĩa th́ sẽ phá giải không nổi. Thực ra chữ “biển” ở đây là ám chỉ “Trung Nam Hải”, và “quân đội của biển” (The army of the sea) thực ra là quân đội ĐCSTQ. Bài thơ này miêu tả ngay sau khi ĐCSTQ tuyên bố giới nghiêm th́ thị dân và sinh viên Bắc Kinh đă ngăn cản quân đội tiến vào thành phố; họ đă thiết lập rất nhiều vật chướng ngại tại nhiều nút giao thông then chốt vào nội thành Bắc Kinh, và với vật chướng ngại trước mặt, xe quân đội phải xếp thành hàng dài để tiến vào. Tuy nhiên, đoàn xe lại lọt vào ṿng bao vây của thị dân và sinh viên Bắc Kinh nên buộc ḷng phải rút lui. Đây chính là “Quân đội của biển sẽ đứng trước thành phố, Và nó sẽ rời đi mà không xếp thành hàng dài”.