vuitoichat
06-11-2012, 08:55
Quan hệ Mỹ-Việt được tổng thống Bill Clintơn và đặc biệt là công lao to lớn của Ngài John Mc Cain, người đă cống hiến không mệt mỏi cho sự đặt nền móng của quan hệ này bằng sự mở đầu là Tháng 11 năm 2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân Hillary Clinton thăm chính thức Việt Nam. Sau 6 năm, cũng vào tháng 11, Tổng thống Mỹ George W.Bush và phu nhân Laura Bush đến Việt Nam và sau đó là các chuyến thăm của lănh đạo Việt nam cố thủ tướng Vơ Văn Kiệt và cố chủ tịch Nguyễn Minh Triết, cũng như các chuyến thăm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Hoa kỳ đă mở ra một chương mới trong quan hệ Mỹ Việt. Người ta rất ngạc nhiên là mới chỉ 12 năm mà quan hệ hai nước đă chuyển ḿnh đáng phấn khởi, từ quan hệ thù địch nay chuyển thành bạn khiến thế giới phải ngạc nhiên.
Người ta đặt câu hỏi rằng tại sao lại có bước ngoặt vĩ đại như thế? Người ta nói đến nguyên nhân lớn nhất đó là:
1, Quan hệ Mỹ Việt đáp ứng được quyền lợi vô cùng to lớn của hai quốc gia ở hai bên bờ Đại Tây dương và Thái b́nh dương.
Trước tiên phải nói đến giá trị to lớn của biển Đông đối với nền kinh tế hàng đầu thế giới này. Hoa kỳ đă có mặt và là cường quốc về hàng hải có thâm niên hiện hữu tại khu vực này nhất là từ những năm 1954 trở lại đây và mỗi năm có đến 1340 tỷ hàng hóa Hoa kỳ qua lại đây để đến Nhật bản, Nam Triều tiên, Hồng kong, Đài loan và Nga. Trung quốc hiện nay đă ngang nhiên vẽ đường lưỡi ḅ và cho rằng chủ quyền của họ kéo từ đảo Hải Nam, nuốt trọn gần như toàn bộ Hoàng sa, Trường sa của Việt nam và đầu lưỡi đó nuốt cả vùng biển Philipine cùng một phần biển đảo của Indonexia, Malaixia. Như vậy các phương tiện hàng hải của Hoa kỳ và các quốc gia từ xưa đến nay vẫn tự do đi lại khi vực này nay phải được phép của nhà cầm quyền Trung quốc. Việc làm đó Trung quốc là sự thách thức sức mạnh của Hoa kỳ một cuờng quốc luôn hiện diện ở khu vực truyền thống này, họ ngang nhiên biến vùng biển quốc tế thành ao nhà của ḿnh. Cái đường lưỡi ḅ oan nghiệt này đă không chỉ liếm hết phần lớn vùng biển quốc tế mà nuốt đi phần lớn cả vùng lănh hải trong phạm vi 200 hải lư mà quốc tế đă công nhận của Việt nam và Philipine. Bởi thế, đây là lúc Hoa kỳ cần phải tỏ rơ uy lực và sức mạnh hơn hẳn của ḿnh. Đúng như nhận định của các báo chí Mỹ như tờ Washington Post hôm 3/6 cho rằng với Chính quyền Obama vốn đang có kế hoạch định hướng lại chính sách ngoại giao và quân sự về phía châu Á, Việt Nam “đang đem lại một cơ hội trọng yếu” (key opportunity) va Họ thực sự có quyền lợi quan trọng tại đây.
Nhiều nhà quân sự quốc tế và nhất là các nhà quân sự Hoa kỳ đều đă nói rơ: “ Không có một quốc gia nào có thể thay thế được Việt Nam v́ những đặc trứng mà không có bất kỳ quốc gia nào có được đó là một dải bờ biển dài 3200 km chạy suốt từ Mũi ngọc phía Bắc đến mũi Hà tiên cực Nam. Ngoài ra cao nguyên Ban mê thuột với độ cao hàng cây số có thể quan ssát toàn bộ vùng biển này va các Vịnh chui sâu vào đất liền là những nơi đóng trú của các tầu hải quân rất lư tưởng. Hoa kỳ muốn thực hiện được sức mạnh chiến lược của ḿnh th́ không ǵ hơn là phải quan hệ mật thiết và gắn bó với Việt Nam v́ lẽ Việt Nam có dải bờ biển chạy dài 3200 km mà ai có nó trong tay có thể phong tỏa toàn bộ biển Đông. Cho nên ngay từ xa xưa Vịnh Nha trang đă được cả Hoa kỳ và Nga đều đặt trọng tâm ở đây để thực thi sức mạnh của ḿnh. Chuyến đi của ngài Bộ trưởng Hoa kỳ lần này đă nói lên điều đó. Như BBC Tiếng Việt điểm qua một số góc nh́n trên báo Mỹ và Anh về chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc pḥng Leon Panetta được cho là ‘mang tính biểu tượng’ tới Vịnh Cam Ranh và Hà Nội.
Blog của William Wan trên trang mạng của báo cùng ngày, theo giờ Mỹ, cũng ghi nhận “có những dấu hiệu Việt Nam có thể đă chín muồi cho một sự dàn xếp như vậy trong các năm tới, v́ từ 2003, đă có 20 tàu của Hải quân Mỹ được phép cập vào Việt Nam” và “dù Trung Quốc nỗ lực từ lâu nhằm thắt chặt quan hệ với chính quyền cộng sản tại Việt Nam, các nhà lănh đạo Hà Nội ngày càng quay đi phía khác t́m các đối tác mới, và điều ghi nhận rơ là với Hoa Kỳ,” tác giả William Wan viết.
Bài cũng trích lời ông Ernie Bower, một chuyên gia về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Center for Strategic and International Studies) ở Washington nói về Việt Nam:
“Đây là quốc gia có tư duy rơ về chiến lược với Trung Quốc, và về vị trí của ḿnh ở châu Á. “Việt Nam hóa ra lại là một trong số nước nói thẳng nhất. Họ thấy thế nào th́ nói thế khi bàn về Trung Quốc, và đây là điều hấp dẫn người Mỹ.
” Ngài Bộ trưởng Leon Panetta đă khẳng định khi đặt chân đến Vịnh Cam ranh: “Chúng ta cần xây đắp một quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa hai nước để nh́n tới tương lai”
Tờ American Forces Press Service trang web của Quân lực Hoa Kỳ có phóng viên Jim Garamone đi cùng Bộ trưởng Leon Panetta tới Vịnh Cam Ranh th́ nhắc nhiều hơn đến khía cạnh lịch sử của chuyến đi. Tờ báo đă nhắc đến: “ Ông Leon Panetta, người mang hàm trung úy quân báo thời gian Mỹ tham chiến ở Việt Nam đă có nhiều bạn cùng học hy sinh tại chiến trường này dù ông không phục vụ tại Việt Nam, và chuyến thăm đến Cam Ranh là dịp để ông nhắc lại sự hy sinh: “Chúng ta đều nhớ tới máu hai bên đă đổ xuống bởi mọi bên của cuộc chiến – bởi người Mỹ và người Việt Nam,” Nhưng ông nói dù có nhiều câu hỏi v́ sao lại có cuộc chiến đó, điều cần làm là từ những hy sinh đấy, “chúng ta xây đắp một quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa hai nước để nh́n tới tương lai”. Bản thông điệp đó đến cả với nước chủ nhà Việt Nam, ông Panetta được trích lời trong bản tin của Quân lực Hoa Kỳ nói rằng “Chúng ta có thể không chỉ bắt đầu hàn gắn vết thương của quá khứ mà cần xây dựng một tương lai tốt hơn cho nhân dân mọi nước ở vùng châu Á – Thái B́nh Dương”.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc xoay quanh cuộc tranh luận rằng liệu cán cân quyền lực toàn cầu có đang chuyển đổi hay không. Với Trung Quốc, một ngôi sao đang lên, đồng nghĩa rằng đây sẽ là đầu máy tăng trưởng và thịnh vượng của nền kinh tế khu vực. Gắn kết vào nền kinh tế có 1,34 tỉ dân này là xu thế tất yếu, để tận dụng nguồn tài nguyên, giá thành nhân công, thị trường nội địa khổng lồ và xung lực tăng trưởng dồi dào. Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế – quân sự làm thay đổi tương đối cán cân quyền lực của các nước trong vùng Thái B́nh Dương. Công bố về ngân sách quốc pḥng từ Bắc Kinh trong năm 2011, theo phát ngôn viên chính phủ nước này, đă đạt 601 tỉ nhân dân tệ (91,5 tỉ USD), tăng 12,7%. Kế hoạch hiện đại hóa hạm đội tàu ngầm đạt bước tiến tương đối trong ṿng bảy năm trở lại đây: trong năm 2002, chỉ có bảy trong 69 chiếc tàu ngầm đáp ứng tiêu chuẩn hiện đại, năm 2009 tỷ lệ này tăng lên 31 trên 65 chiếc, trong đó bao gồm 12 tàu ngầm hạng Kilo. Một xu hướng tương tự như thế cũng có thể quan sát từ kế hoạch phát triển kho vũ khí hạt nhân với việc thiết lập các loại tên lửa xuyên lục địa Dong Feng-31 và Dong Feng-31A với phạm vi tấn công khoảng từ 7.200km đến 11.200km rơ rang nó đang đe dọa đến sức mạnh tiềm tàng của Hoa kỳ và Thế giới ở khu vực trọng yếu này. Bây giờ hoặc không bao giờ để Mỹ tỏ rơ sức mạnh cường quốc số một của ḿnh. Cho nên Hoa kỳ và Việt Nam tất phải gặp nhau và cần đến nhau.
Trong chuyến đi vừa qua của ông Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ mặc dù kết quả về cuộc gặp mà hai nước vẫn giấu kín th́ các báo chí Hoa kỳ, Việt nam và thế giới vẫn cứ đăng tải một cách rầm rộ và chi tiết chuyến đi của ngài Bộ trưởng quốc pḥng Hoa kỳ và cho rằng chuyến đi này đă thành công tốt đẹp đẩy quan hệ hai nước mà trước nhất là quốc pḥng lên tầm cao mới tạo điều kiện để ngăn chặn sự bành trướng của Trung quốc tại biển Đông, bảo vệ cho ḥa b́nh của khu vực trọng yếu này và thế giới.
2, Với Việt nam: Báo chí đă nhắc lại những tham vọng bá quyền của Bắc kinh đă nung nấu có từ rất lâu xa nhưng phải chờ cơ hội nó mới có thể bộc lộ. Họ muốn chiếm các đảo biển của Việt nam không chỉ v́ các đặc điểm rất lợi hại về mặt địa lư và quân sự mà càng thôi thúc họ ghê đó là khi phát hiện tại đây tàng chứa rất nhiều tài nguyên khoáng sản đặc biệt là dầu hỏa. V́ thế họ đă phục binh chờ thời và cao điểm là lúc Việt nam đang có chiến tranh ở giai đoạn ác liệt nhất với Hoa kỳ, ngay lập tức Trung quốc đă phát động cuộc chiếm đóng, trước tiên họ cho hải quân tấn công vào tầu chiến của Quân lực Việt nam Cộng ḥa và sau đó đă không ngần ngại đem tầu chiến đối đầu trực tiếp với hải quân nhân dân Việt nam và nuốt đi gần như trọn vẹn Hoàng sa và một phần của Trường sa. Từ đó đến nay Trung quốc đă không mệt mỏi để mở rộng vùng kiểm soát của ḿnh bằng sức mạnh của Hải quân như đưa tầu chiến và lính ra đồn trú, xây dựng hải cảng lớn ở các đảo đă chiếm được của Việt nam, bắt bớ đánh đập cả ngư phủ hiền lành Việt nam khi họ đang làm ăn ở vùng biển của chính quốc gia ḿnh. Cùng với việc làm phi lư đó th́ Trung quốc đă tăng cường năng lực quốc pḥng của ḿnh, nước này đă có nhiều hành động xác quyết chủ quyền của ḿnh tại vùng tranh chấp ở Biển Đông mà gần đây nhất qua hai vụ cắt cáp vụ tàu B́nh Minh và tàu Viking trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam và gây sức ép buộc các công ty lớn của nước ngoài không giám kư kết khai thác. Trước những diễn biến ngày càng xấu đi trong quan hệ hai nước, biết được phía Việt nam có khả năng phải liên minh với nước ngoài, nhất là Mỹ, để ngăn chặn sự xâm chiếm biển đảo của Trung quốc, Bắc kinh đă lợi dụng mối bang giao Trung Việt đă bị bức tử năm 1979 khi họ đem quân gây chiến ở biên giới phía nam gây ra đổ máu nhiều như suối. Họ cố t́nh vẽ vời nào là t́nh hữu nghị truyền thống “môi hở răng lạnh” hay “” mối t́nh hữu nghị Việt Trung, vừa là đồng chí, vừa là an hem” rồi như muốn trói buộc Việt nam bằng khẩu hiệu bốn tốt mười mấy chữ vàng v.v…và vân vân. Tất cả các cuộc đàm phán giữa hai nước gần 30 năm qua liên tiếp về đảo biển hầu như không hề có tác dụng mà chỉ tốn thời gian tiền của, giấy tờ cho các cuộc tổ chức đi lại. Người ta nhớ tới h́nh ảnh Lăo Tiều câu cá trên sông mà không hề có mồi trong lưỡi câu. Đây là thứ câu giờ, Binh pháp của Trung quốc chính là như vậy và đúng như mục tiêu của họ đă đề ra là tận dụng kéo dài thời gian để tân trang vũ khí, tầu chiến máy bay cho quân đội, nhất là với Hải quân và đợi phục thời gian chín muồi để là họ biểu dương sức mạnh. Họ sờ nắn gân cả Mỹ, đồng thời ngạo mạn răn đe cả Việt nam và Philippine và những quốc gia có thái độ kiên quyết không nhân nhượng và sẵn sàng chặn đứng bàn tay của họ khi vươn ra xâm chiếm biển Đông và đảo biển của ḿnh.
Mặt khác, Trung quốc luôn luôn không chịu chấp nhận đàm phán song phương về vấn đề tranh chấp biển Đông, nguợc lại họ luôn t́m cách phá hoại sự đoàn kết của nội bộ các nước Asian, t́m cách bỏ tiền mua chuộc thong qua viện trợ không hoàn lại hay cho vay vốn để loại chủ đề an ninh và chủ quyền biển Đông trong các diễn đàn Đông Nám Á và quốc tế v́ luôn đuối lư không có cơ sở pháp lư về chủ quyền của ḿnh trên các khu vực đang tranh chấp. Họ t́m mọi cách mọi cách dụ dỗ các quốc gia có tranh chấp lănh hải chấp nhận ngồi riêng để đàm phán trên thế thượng phong, nhưng trớ trêu thay, ngay cả các cuộc đàm phán song phương giữa Việt nam và Trung quốc cũng đă không đạt được mảy may giá trị nào, nó đă và đang bị bức tử khi thái độ của Bắc kinh luôn tỏ trịch thượng kiểu nước lớn, họ phớt lờ những đ̣i hỏi chính đáng về lănh hải đảo biển của phía bên kia. Họ luôn lại đi lặp lại câu nói cửa miệng đă học thuộc ḷng là: “ chúng tôi có đầy đủ bằng chứng và lịch sử khẳng định đó là lănh hải và đảo của ḿnh” và thêm vào đó họ lại càng gia tăng nhanh việc cho xây dựng các cảng quân sự tại các đảo đă chiếm để đưa lực lượng quân ra chiếm đóng thuận lợi cho tầu chiến ra vào hành tung tự tác khắp một vùng rộng lớn coi biển Đông là ao nhà của chính ḿnh. Đây là lúc các khẩu hiệu “hữu nghị và truyền thống” đă rách khống thể vá lại được nữa. Rơ ràng phía Việt nam không thể c̣n hy vọng vào đàm phán song phương kiểu “ anh em, đồng chí, nội bộ Đảng cộng sản anh em…đóng cửa bảo nhau, rỉ tai nhau” được nữa mà đă đến lúc nếu không nói là quá muộn để thay vào bằng đàm phán đa phương hay đưa vấn đề này ra ṭa án quốc tế về vấn đề chủ quyền và biển. Dư luận quốc tế và Việt nam ở trong và ngoài nước đều ủng hộ xu thế này và cho rằng không nên để mất thời giờ vàng ngọc, khi cơ hội đang đến có lợi cho các phía có tranh chấp chủ quyền với Bắc kinh, không nên để họ hợp thức hóa việc chiếm đóng coi như một việc đă rồi khó có thể đ̣i và lấy lại được.
3, Nhân tố quyết định mà cả hai phái Mỹ Việt chính là phải xây dựng ḷng tin cậy lẫn nhau và phá đi những rào cản c̣n lại đang ngăn cản lối đi trong quan hệ hai nước.
Điều đầu tiên cả hai phía đều muốn nói tới đó là phải thay đổi cách nghĩ cách làm. Đó là nhận thức quan hệ gắn bó hai quốc gia đều có lợi cho cả hai phía và cho nền hoàn b́nh và an ninh ở khu vực này cũng như trên thế giới.
Dư luận Mỹ và người Việt nam trong và ngoài nước đều cho rằng nhà nước Việt nam đă đến lúc cần để nhân dân của ḿnh được bầy tỏ thái độ của ḿnh trước sự hung hăng và tham lam ngạo măn của Trung quốc. Điều này lịch sử đă chứng minh, ngay cả thời kỳ ban đầu của cuộc dựng nước và giữ nước hay ngay cả những thời kỳ vàng son nhất như thời Trần các vua chuá Việt nam trước mối đe dọa của ngoại xâm c̣n phải mở Hội nghị Diêm Hồng, lấy ư dân huống hồ là nay đất nước đang đứng trước một thách thức lớn hơn, một kẻ thù truyền thống nhưng có sức mạnh đă gấp trăm ngàn lần xưa kia và tham vọng và sự nhạm hiểm lại cũng lớn hơn. Một cá nhân nào đó hay một số người nào đó không thể bằng trí tuệ và sức mạnh của toàn dân. Nếu nói Nhà nước và quân đội là của nhân dân th́ không thể nói một số người có thể thay thế trí tuệ sức mạnh của 80 triệu người? V́ thế thử thách lớn nhất là phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong đó phải nói cả đến sự tham gia của người Việt nam đang sống ở nước ngoài. Vấn đề tính dân chủ trong nhân dân cần phải được đề cao và nó đâu phải chỉ có từ các học thuyết sang tạo của chủ nghĩa Cộng sản mà nó đă có từ ngày đầu dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Thời Bà Trưng Bà Triệu các vị cũng phải có sự tham gia của các bộ tộc người Việt khắp nơi hưởng ứng tham gia và thời chống Pháp nếu không có sự đóng góp và hy sinh của các dân tộc anh em trên cả nước th́ sao có thể tạo ra chiến thắng làm nên nhà nước Việt nam dân chủ Cộng ḥa?
Người ta đặt câu hỏi rằng tại sao lại có bước ngoặt vĩ đại như thế? Người ta nói đến nguyên nhân lớn nhất đó là:
1, Quan hệ Mỹ Việt đáp ứng được quyền lợi vô cùng to lớn của hai quốc gia ở hai bên bờ Đại Tây dương và Thái b́nh dương.
Trước tiên phải nói đến giá trị to lớn của biển Đông đối với nền kinh tế hàng đầu thế giới này. Hoa kỳ đă có mặt và là cường quốc về hàng hải có thâm niên hiện hữu tại khu vực này nhất là từ những năm 1954 trở lại đây và mỗi năm có đến 1340 tỷ hàng hóa Hoa kỳ qua lại đây để đến Nhật bản, Nam Triều tiên, Hồng kong, Đài loan và Nga. Trung quốc hiện nay đă ngang nhiên vẽ đường lưỡi ḅ và cho rằng chủ quyền của họ kéo từ đảo Hải Nam, nuốt trọn gần như toàn bộ Hoàng sa, Trường sa của Việt nam và đầu lưỡi đó nuốt cả vùng biển Philipine cùng một phần biển đảo của Indonexia, Malaixia. Như vậy các phương tiện hàng hải của Hoa kỳ và các quốc gia từ xưa đến nay vẫn tự do đi lại khi vực này nay phải được phép của nhà cầm quyền Trung quốc. Việc làm đó Trung quốc là sự thách thức sức mạnh của Hoa kỳ một cuờng quốc luôn hiện diện ở khu vực truyền thống này, họ ngang nhiên biến vùng biển quốc tế thành ao nhà của ḿnh. Cái đường lưỡi ḅ oan nghiệt này đă không chỉ liếm hết phần lớn vùng biển quốc tế mà nuốt đi phần lớn cả vùng lănh hải trong phạm vi 200 hải lư mà quốc tế đă công nhận của Việt nam và Philipine. Bởi thế, đây là lúc Hoa kỳ cần phải tỏ rơ uy lực và sức mạnh hơn hẳn của ḿnh. Đúng như nhận định của các báo chí Mỹ như tờ Washington Post hôm 3/6 cho rằng với Chính quyền Obama vốn đang có kế hoạch định hướng lại chính sách ngoại giao và quân sự về phía châu Á, Việt Nam “đang đem lại một cơ hội trọng yếu” (key opportunity) va Họ thực sự có quyền lợi quan trọng tại đây.
Nhiều nhà quân sự quốc tế và nhất là các nhà quân sự Hoa kỳ đều đă nói rơ: “ Không có một quốc gia nào có thể thay thế được Việt Nam v́ những đặc trứng mà không có bất kỳ quốc gia nào có được đó là một dải bờ biển dài 3200 km chạy suốt từ Mũi ngọc phía Bắc đến mũi Hà tiên cực Nam. Ngoài ra cao nguyên Ban mê thuột với độ cao hàng cây số có thể quan ssát toàn bộ vùng biển này va các Vịnh chui sâu vào đất liền là những nơi đóng trú của các tầu hải quân rất lư tưởng. Hoa kỳ muốn thực hiện được sức mạnh chiến lược của ḿnh th́ không ǵ hơn là phải quan hệ mật thiết và gắn bó với Việt Nam v́ lẽ Việt Nam có dải bờ biển chạy dài 3200 km mà ai có nó trong tay có thể phong tỏa toàn bộ biển Đông. Cho nên ngay từ xa xưa Vịnh Nha trang đă được cả Hoa kỳ và Nga đều đặt trọng tâm ở đây để thực thi sức mạnh của ḿnh. Chuyến đi của ngài Bộ trưởng Hoa kỳ lần này đă nói lên điều đó. Như BBC Tiếng Việt điểm qua một số góc nh́n trên báo Mỹ và Anh về chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc pḥng Leon Panetta được cho là ‘mang tính biểu tượng’ tới Vịnh Cam Ranh và Hà Nội.
Blog của William Wan trên trang mạng của báo cùng ngày, theo giờ Mỹ, cũng ghi nhận “có những dấu hiệu Việt Nam có thể đă chín muồi cho một sự dàn xếp như vậy trong các năm tới, v́ từ 2003, đă có 20 tàu của Hải quân Mỹ được phép cập vào Việt Nam” và “dù Trung Quốc nỗ lực từ lâu nhằm thắt chặt quan hệ với chính quyền cộng sản tại Việt Nam, các nhà lănh đạo Hà Nội ngày càng quay đi phía khác t́m các đối tác mới, và điều ghi nhận rơ là với Hoa Kỳ,” tác giả William Wan viết.
Bài cũng trích lời ông Ernie Bower, một chuyên gia về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Center for Strategic and International Studies) ở Washington nói về Việt Nam:
“Đây là quốc gia có tư duy rơ về chiến lược với Trung Quốc, và về vị trí của ḿnh ở châu Á. “Việt Nam hóa ra lại là một trong số nước nói thẳng nhất. Họ thấy thế nào th́ nói thế khi bàn về Trung Quốc, và đây là điều hấp dẫn người Mỹ.
” Ngài Bộ trưởng Leon Panetta đă khẳng định khi đặt chân đến Vịnh Cam ranh: “Chúng ta cần xây đắp một quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa hai nước để nh́n tới tương lai”
Tờ American Forces Press Service trang web của Quân lực Hoa Kỳ có phóng viên Jim Garamone đi cùng Bộ trưởng Leon Panetta tới Vịnh Cam Ranh th́ nhắc nhiều hơn đến khía cạnh lịch sử của chuyến đi. Tờ báo đă nhắc đến: “ Ông Leon Panetta, người mang hàm trung úy quân báo thời gian Mỹ tham chiến ở Việt Nam đă có nhiều bạn cùng học hy sinh tại chiến trường này dù ông không phục vụ tại Việt Nam, và chuyến thăm đến Cam Ranh là dịp để ông nhắc lại sự hy sinh: “Chúng ta đều nhớ tới máu hai bên đă đổ xuống bởi mọi bên của cuộc chiến – bởi người Mỹ và người Việt Nam,” Nhưng ông nói dù có nhiều câu hỏi v́ sao lại có cuộc chiến đó, điều cần làm là từ những hy sinh đấy, “chúng ta xây đắp một quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa hai nước để nh́n tới tương lai”. Bản thông điệp đó đến cả với nước chủ nhà Việt Nam, ông Panetta được trích lời trong bản tin của Quân lực Hoa Kỳ nói rằng “Chúng ta có thể không chỉ bắt đầu hàn gắn vết thương của quá khứ mà cần xây dựng một tương lai tốt hơn cho nhân dân mọi nước ở vùng châu Á – Thái B́nh Dương”.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc xoay quanh cuộc tranh luận rằng liệu cán cân quyền lực toàn cầu có đang chuyển đổi hay không. Với Trung Quốc, một ngôi sao đang lên, đồng nghĩa rằng đây sẽ là đầu máy tăng trưởng và thịnh vượng của nền kinh tế khu vực. Gắn kết vào nền kinh tế có 1,34 tỉ dân này là xu thế tất yếu, để tận dụng nguồn tài nguyên, giá thành nhân công, thị trường nội địa khổng lồ và xung lực tăng trưởng dồi dào. Sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế – quân sự làm thay đổi tương đối cán cân quyền lực của các nước trong vùng Thái B́nh Dương. Công bố về ngân sách quốc pḥng từ Bắc Kinh trong năm 2011, theo phát ngôn viên chính phủ nước này, đă đạt 601 tỉ nhân dân tệ (91,5 tỉ USD), tăng 12,7%. Kế hoạch hiện đại hóa hạm đội tàu ngầm đạt bước tiến tương đối trong ṿng bảy năm trở lại đây: trong năm 2002, chỉ có bảy trong 69 chiếc tàu ngầm đáp ứng tiêu chuẩn hiện đại, năm 2009 tỷ lệ này tăng lên 31 trên 65 chiếc, trong đó bao gồm 12 tàu ngầm hạng Kilo. Một xu hướng tương tự như thế cũng có thể quan sát từ kế hoạch phát triển kho vũ khí hạt nhân với việc thiết lập các loại tên lửa xuyên lục địa Dong Feng-31 và Dong Feng-31A với phạm vi tấn công khoảng từ 7.200km đến 11.200km rơ rang nó đang đe dọa đến sức mạnh tiềm tàng của Hoa kỳ và Thế giới ở khu vực trọng yếu này. Bây giờ hoặc không bao giờ để Mỹ tỏ rơ sức mạnh cường quốc số một của ḿnh. Cho nên Hoa kỳ và Việt Nam tất phải gặp nhau và cần đến nhau.
Trong chuyến đi vừa qua của ông Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ mặc dù kết quả về cuộc gặp mà hai nước vẫn giấu kín th́ các báo chí Hoa kỳ, Việt nam và thế giới vẫn cứ đăng tải một cách rầm rộ và chi tiết chuyến đi của ngài Bộ trưởng quốc pḥng Hoa kỳ và cho rằng chuyến đi này đă thành công tốt đẹp đẩy quan hệ hai nước mà trước nhất là quốc pḥng lên tầm cao mới tạo điều kiện để ngăn chặn sự bành trướng của Trung quốc tại biển Đông, bảo vệ cho ḥa b́nh của khu vực trọng yếu này và thế giới.
2, Với Việt nam: Báo chí đă nhắc lại những tham vọng bá quyền của Bắc kinh đă nung nấu có từ rất lâu xa nhưng phải chờ cơ hội nó mới có thể bộc lộ. Họ muốn chiếm các đảo biển của Việt nam không chỉ v́ các đặc điểm rất lợi hại về mặt địa lư và quân sự mà càng thôi thúc họ ghê đó là khi phát hiện tại đây tàng chứa rất nhiều tài nguyên khoáng sản đặc biệt là dầu hỏa. V́ thế họ đă phục binh chờ thời và cao điểm là lúc Việt nam đang có chiến tranh ở giai đoạn ác liệt nhất với Hoa kỳ, ngay lập tức Trung quốc đă phát động cuộc chiếm đóng, trước tiên họ cho hải quân tấn công vào tầu chiến của Quân lực Việt nam Cộng ḥa và sau đó đă không ngần ngại đem tầu chiến đối đầu trực tiếp với hải quân nhân dân Việt nam và nuốt đi gần như trọn vẹn Hoàng sa và một phần của Trường sa. Từ đó đến nay Trung quốc đă không mệt mỏi để mở rộng vùng kiểm soát của ḿnh bằng sức mạnh của Hải quân như đưa tầu chiến và lính ra đồn trú, xây dựng hải cảng lớn ở các đảo đă chiếm được của Việt nam, bắt bớ đánh đập cả ngư phủ hiền lành Việt nam khi họ đang làm ăn ở vùng biển của chính quốc gia ḿnh. Cùng với việc làm phi lư đó th́ Trung quốc đă tăng cường năng lực quốc pḥng của ḿnh, nước này đă có nhiều hành động xác quyết chủ quyền của ḿnh tại vùng tranh chấp ở Biển Đông mà gần đây nhất qua hai vụ cắt cáp vụ tàu B́nh Minh và tàu Viking trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam và gây sức ép buộc các công ty lớn của nước ngoài không giám kư kết khai thác. Trước những diễn biến ngày càng xấu đi trong quan hệ hai nước, biết được phía Việt nam có khả năng phải liên minh với nước ngoài, nhất là Mỹ, để ngăn chặn sự xâm chiếm biển đảo của Trung quốc, Bắc kinh đă lợi dụng mối bang giao Trung Việt đă bị bức tử năm 1979 khi họ đem quân gây chiến ở biên giới phía nam gây ra đổ máu nhiều như suối. Họ cố t́nh vẽ vời nào là t́nh hữu nghị truyền thống “môi hở răng lạnh” hay “” mối t́nh hữu nghị Việt Trung, vừa là đồng chí, vừa là an hem” rồi như muốn trói buộc Việt nam bằng khẩu hiệu bốn tốt mười mấy chữ vàng v.v…và vân vân. Tất cả các cuộc đàm phán giữa hai nước gần 30 năm qua liên tiếp về đảo biển hầu như không hề có tác dụng mà chỉ tốn thời gian tiền của, giấy tờ cho các cuộc tổ chức đi lại. Người ta nhớ tới h́nh ảnh Lăo Tiều câu cá trên sông mà không hề có mồi trong lưỡi câu. Đây là thứ câu giờ, Binh pháp của Trung quốc chính là như vậy và đúng như mục tiêu của họ đă đề ra là tận dụng kéo dài thời gian để tân trang vũ khí, tầu chiến máy bay cho quân đội, nhất là với Hải quân và đợi phục thời gian chín muồi để là họ biểu dương sức mạnh. Họ sờ nắn gân cả Mỹ, đồng thời ngạo mạn răn đe cả Việt nam và Philippine và những quốc gia có thái độ kiên quyết không nhân nhượng và sẵn sàng chặn đứng bàn tay của họ khi vươn ra xâm chiếm biển Đông và đảo biển của ḿnh.
Mặt khác, Trung quốc luôn luôn không chịu chấp nhận đàm phán song phương về vấn đề tranh chấp biển Đông, nguợc lại họ luôn t́m cách phá hoại sự đoàn kết của nội bộ các nước Asian, t́m cách bỏ tiền mua chuộc thong qua viện trợ không hoàn lại hay cho vay vốn để loại chủ đề an ninh và chủ quyền biển Đông trong các diễn đàn Đông Nám Á và quốc tế v́ luôn đuối lư không có cơ sở pháp lư về chủ quyền của ḿnh trên các khu vực đang tranh chấp. Họ t́m mọi cách mọi cách dụ dỗ các quốc gia có tranh chấp lănh hải chấp nhận ngồi riêng để đàm phán trên thế thượng phong, nhưng trớ trêu thay, ngay cả các cuộc đàm phán song phương giữa Việt nam và Trung quốc cũng đă không đạt được mảy may giá trị nào, nó đă và đang bị bức tử khi thái độ của Bắc kinh luôn tỏ trịch thượng kiểu nước lớn, họ phớt lờ những đ̣i hỏi chính đáng về lănh hải đảo biển của phía bên kia. Họ luôn lại đi lặp lại câu nói cửa miệng đă học thuộc ḷng là: “ chúng tôi có đầy đủ bằng chứng và lịch sử khẳng định đó là lănh hải và đảo của ḿnh” và thêm vào đó họ lại càng gia tăng nhanh việc cho xây dựng các cảng quân sự tại các đảo đă chiếm để đưa lực lượng quân ra chiếm đóng thuận lợi cho tầu chiến ra vào hành tung tự tác khắp một vùng rộng lớn coi biển Đông là ao nhà của chính ḿnh. Đây là lúc các khẩu hiệu “hữu nghị và truyền thống” đă rách khống thể vá lại được nữa. Rơ ràng phía Việt nam không thể c̣n hy vọng vào đàm phán song phương kiểu “ anh em, đồng chí, nội bộ Đảng cộng sản anh em…đóng cửa bảo nhau, rỉ tai nhau” được nữa mà đă đến lúc nếu không nói là quá muộn để thay vào bằng đàm phán đa phương hay đưa vấn đề này ra ṭa án quốc tế về vấn đề chủ quyền và biển. Dư luận quốc tế và Việt nam ở trong và ngoài nước đều ủng hộ xu thế này và cho rằng không nên để mất thời giờ vàng ngọc, khi cơ hội đang đến có lợi cho các phía có tranh chấp chủ quyền với Bắc kinh, không nên để họ hợp thức hóa việc chiếm đóng coi như một việc đă rồi khó có thể đ̣i và lấy lại được.
3, Nhân tố quyết định mà cả hai phái Mỹ Việt chính là phải xây dựng ḷng tin cậy lẫn nhau và phá đi những rào cản c̣n lại đang ngăn cản lối đi trong quan hệ hai nước.
Điều đầu tiên cả hai phía đều muốn nói tới đó là phải thay đổi cách nghĩ cách làm. Đó là nhận thức quan hệ gắn bó hai quốc gia đều có lợi cho cả hai phía và cho nền hoàn b́nh và an ninh ở khu vực này cũng như trên thế giới.
Dư luận Mỹ và người Việt nam trong và ngoài nước đều cho rằng nhà nước Việt nam đă đến lúc cần để nhân dân của ḿnh được bầy tỏ thái độ của ḿnh trước sự hung hăng và tham lam ngạo măn của Trung quốc. Điều này lịch sử đă chứng minh, ngay cả thời kỳ ban đầu của cuộc dựng nước và giữ nước hay ngay cả những thời kỳ vàng son nhất như thời Trần các vua chuá Việt nam trước mối đe dọa của ngoại xâm c̣n phải mở Hội nghị Diêm Hồng, lấy ư dân huống hồ là nay đất nước đang đứng trước một thách thức lớn hơn, một kẻ thù truyền thống nhưng có sức mạnh đă gấp trăm ngàn lần xưa kia và tham vọng và sự nhạm hiểm lại cũng lớn hơn. Một cá nhân nào đó hay một số người nào đó không thể bằng trí tuệ và sức mạnh của toàn dân. Nếu nói Nhà nước và quân đội là của nhân dân th́ không thể nói một số người có thể thay thế trí tuệ sức mạnh của 80 triệu người? V́ thế thử thách lớn nhất là phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong đó phải nói cả đến sự tham gia của người Việt nam đang sống ở nước ngoài. Vấn đề tính dân chủ trong nhân dân cần phải được đề cao và nó đâu phải chỉ có từ các học thuyết sang tạo của chủ nghĩa Cộng sản mà nó đă có từ ngày đầu dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Thời Bà Trưng Bà Triệu các vị cũng phải có sự tham gia của các bộ tộc người Việt khắp nơi hưởng ứng tham gia và thời chống Pháp nếu không có sự đóng góp và hy sinh của các dân tộc anh em trên cả nước th́ sao có thể tạo ra chiến thắng làm nên nhà nước Việt nam dân chủ Cộng ḥa?