johnnydan9
06-18-2012, 15:22
Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng liên quan đến biển Đông bằng các biện pháp ḥa b́nh, trên tinh thần b́nh đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước luật Biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc.
Ngày 8/6/2012, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York (Mỹ), lễ kỷ niệm 30 năm ngày kư kết Công ước luật Biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS 1982) đă diễn ra trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 22 các quốc gia thành viên công ước này. Dưới đây là bài viết của tác giả Hạnh Duy, chuyên gia luật pháp quốc tế, về những nội dung cơ bản của Công ước luật Biển năm 1982.
Kể từ khi được thành lập cho đến nay, Liên Hiệp Quốc (LHQ) đă dành sự ưu tiên đặc biệt cho hoạt động pháp điển hóa và phát triển tiến bộ các quy phạm và nguyên tắc của ngành luật biển quốc tế. Bằng chứng là LHQ đă tổ chức 3 hội nghị lớn và quan trọng về luật biển. Hội nghị luật Biển lần thứ I được tổ chức tại Geneva vào năm 1958 và thông qua 4 công ước, cụ thể là Công ước về lănh hải và vùng tiếp giáp, Công ước về biển cả, Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật ở biển cả và Công ước về thềm lục địa.
Tiếp đó, Hội nghị luật Biển lần thứ II cũng được tổ chức tại Geneva năm 1960 với mục đích thống nhất về chiều rộng của lănh hải. Do lập trường của các nhóm nước khác nhau nên hội nghị không đạt được mục tiêu đề ra. Hội nghị luật Biển lần thứ III chủ yếu được tổ chức tại New York và Geneva với hai giai đoạn khác nhau: giai đoạn trù bị (năm 1967-1973) và giai đoạn chính thức (năm 1973-1982).
<table class="image center" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="440"> <tbody> <tr><td>http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/bd/84/b7/Dao-Da-Dong-B.jpg</td> </tr> <tr><td class="Image">Đảo ch́m Đá Đông B - quần đảo Trường Sa.</td> </tr> </tbody> </table> Thành công lớn của Hội nghị luật Biển lần thứ III là đă thông qua Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ với 320 điều và 9 phụ lục. Công ước được mở ra cho các quốc gia kư vào ngày 10/12/1982. Cũng ngay trong ngày đó, Fiji trở thành thành viên đầu tiên của công ước. Đến ngày 5/6/2012, công ước có 162 thành viên từ khắp châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ và châu Đại dương. Trong số các nước ven biển Đông đă có 8 nước tham gia Công ước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei và Thái Lan.
Công ước luật Biển năm 1982 được coi là hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương bởi v́ đă xác định một cách toàn diện quy chế pháp lư của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lư của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế. Đồng thời công ước cũng quy định thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến hoạt động ở biển và đại dương như Ṭa án quốc tế về luật Biển, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và Hội nghị các quốc gia thành viên công ước.
Đặc biệt liên quan đến các tranh chấp có thể nảy sinh giữa các thành viên, Công ước luật Biển năm 1982 đ̣i hỏi các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước bằng các biện pháp ḥa b́nh theo đúng quy định của Hiến chương LHQ, đồng thời nêu rơ các cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính triệt để. Đáng chú ư, công ước được thông qua như một giải pháp cả gói, cho nên các quốc gia không được phép bảo lưu khi tham gia công ước.
1. Quy chế pháp lư của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển theo Công ước luật Biển năm 1982
Theo Công ước luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lănh hải của quốc gia ven biển. Nội thủy là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở của quốc gia ven biển. Trong vùng nội thủy của ḿnh, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lănh thổ đất liền của ḿnh.
Lănh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở của quốc gia ven biển. Theo luật biển vào những năm 50 của thế kỷ 20 trở về trước, lănh hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải lư, tức khoảng 5,7 km. Tại Hội nghị luật Biển lần thứ II của LHQ, một số nước tiếp tục ủng hộ quan điểm lănh hải 3 hải lư, nhưng một số nước khác chủ trương mở rộng lănh hải đến 12 hải lư. Tại Hội nghị luật Biển lần thứ III các nước đă đạt nhận thức chung, do đó Công ước luật Biển năm 1982 đă xác định chiều rộng của lănh hải là 12 hải lư. Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lănh hải của ḿnh cũng như đối với vùng trời ở trên lănh hải, đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển của lănh hải.
Tuy nhiên, tính chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi v́ trong lănh hải của quốc gia ven biển tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền đi qua không gây hại (tàu bay bay trên vùng trời vẫn phải xin phép). Công ước cũng đề ra những quy định rất cụ thể đối với việc đi qua không gây hại như không được đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển, hoặc dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đă được nêu trong Hiến chương LHQ; hoặc tuyên truyền, thu thập thông tin gây hại cho quốc pḥng, an ninh của quốc gia ven biển…
Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc đi qua trong lănh hải của ḿnh trong một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công tŕnh, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, xuất, nhập cảnh, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.
Vùng tiếp giáp lănh hải là vùng biển đặc thù nằm ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển. Vùng này cũng có chiều rộng 12 hải lư kể từ ranh giới ngoài của lănh hải. Có thể nói, vùng này như là một vùng đệm mà ở đó, các quốc gia ven biển có quyền thực hiện sự kiểm soát cần thiết nhằm mục đich ngăn ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lănh hải của quốc gia đó. Ngoài khía cạnh này ra, quy chế của vùng này hoàn toàn như phần c̣n lại của vùng đặc quyền kinh tế.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài lănh hải và có chiều rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở (v́ lănh hải 12 hải lư, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lư). Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lư hoàn toàn mới. Măi cho đến những năm 50 của thế kỷ 20 hoàn toàn không có chế định này. Lúc đó các quốc gia ven biển chỉ có lănh hải 3 hải lư. Ngoài lănh hải 3 hải lư là vùng biển quốc tế. Với việc ra đời của vùng đặc quyền kinh tế, vùng biển của quốc gia ven biển được mở rộng và vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng kể.
Khác với nội thủy và lănh hải, quốc gia ven biển không có chủ quyền mà chỉ có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó cũng như đối với các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Hiện nay, tài nguyên thiên nhiên chính trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang quan tâm và đẩy mạnh thăm ḍ, khai thác là tôm, cá. Đối với số lượng tôm, cá mà quốc gia ven biển không đánh bắt hết th́ có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt (nhưng họ phải trả lệ phí và tuân thủ các quy định của quốc gia ven biển). Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công tŕnh; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ ǵn môi trường biển.
Bên cạnh đó, Công ước luật Biển năm 1982 cũng quy định rơ ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có một số quyền như quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Thềm lục địa là đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển bên ngoài lănh hải của quốc gia ven biển với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lư kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lănh hải. Theo công ước, quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của ḿnh đến tối đa 350 hải lư kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lư kể từ đường đẳng sâu 2.500 m (đường nối liền các điểm có độ sâu 2.500 m). Điều kiện để có thể mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lư là quốc gia ven biển phải tŕnh Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Thực hiện quyền này, các quốc gia ven biển đă tŕnh lên LHQ 60 báo cáo quốc gia khác nhau, trong đó có 5 báo cáo chung - do 2 hoặc 3, 4 nước cùng làm báo cáo đối với một khu vực cụ thể. Ngày 6.5.2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ cùng với Đại diện thường trực Malaysia tŕnh LHQ báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia về xác định ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lư ở nam biển Đông. Tiếp đó, ngày 7.5.2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ đă tŕnh tiếp báo cáo riêng của Việt Nam về xác định thềm lục địa ngoài 200 hải lư ở khu vực phía Bắc.
Công ước luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của ḿnh, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm ḍ, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó. Hiện nay, các nước ven biển tập trung thăm ḍ, khai thác nguồn lợi dầu khí để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Trong tương lai, ngoài dầu và khí, các nước sẽ thăm ḍ và khai thác các tài nguyên khác như quặng sắt, đồng, ch́, thiếc… Đặc biệt, khoản 2, điều 77 của công ước nhấn mạnh quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia ven biển không thăm ḍ, khai thác th́ cũng không ai có quyền khai thác tại đây, nếu không được sự đồng ư của quốc gia ven biển.
Như vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 về phạm vi cũng như quy chế pháp lư các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển rất rơ ràng và minh bạch. Phù hợp với quy định của Công ước, các quốc gia ven biển có các quyền hợp pháp và chính đáng đối với mỗi vùng biển của ḿnh. Khi thực hiện các quyền đó của ḿnh, mỗi quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền tương tự của các quốc gia ven biển khác. Đó là yêu cầu khách quan của trật tự pháp lư trên biển mà cộng đồng quốc tế đă cùng nhau xây dựng nên. Các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết quốc tế luôn luôn phải song hành.
2. Quy chế pháp lư của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế theo Công ước luật Biển năm 1982
Vùng biển quốc tế: Theo luật biển quốc tế trước đây th́ vùng biển quốc tế rất rộng, tức là toàn bộ các khu vực biển nằm ngoài lănh hải 3 hải lư của quốc gia ven biển. Với sự ra đời của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư, phạm vi vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng kể. Theo Công ước luật Biển năm 1982, vùng biển quốc tế là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư của các quốc gia ven biển. Ở vùng biển quốc tế, mọi quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống ngầm, tự do đánh bắt cá và tự do nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền tự do này, các quốc gia phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như phải tuân thủ các quy định liên quan của Công ước luật Biển năm 1982 như bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, an toàn hàng hải, hợp tác trấn áp cướp biển... Công ước quy định vùng biển quốc tế được sử dụng v́ mục đích ḥa b́nh và không nước nào được phép đ̣i một khu vực nào đó của vùng biển quốc tế thuộc chủ quyền của ḿnh.
Đáy biển quốc tế (hay c̣n gọi là đáy đại dương) là vùng đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển. Công ước luật Biển năm 1982 quy định đáy biển quốc tế là di sản chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đ̣i hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó. Đây cũng là những quy định mới trong luật biển quốc tế hiện đại. Công ước luật Biển năm 1982 quy định: khác với vùng biển quốc tế, ở đáy biển quốc tế các quốc gia không có quyền tự do khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến đáy biển quốc tế, Công ước luật Biển năm 1982 đă quy định thành lập một tổ chức quốc tế mới là Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương.
Quy chế nói trên về đáy biển quốc tế là kết quả đấu tranh kiên tŕ của các nước đang phát triển. Theo luật biển quốc tế trước đây quy chế pháp lư của đáy biển cũng là quy chế tự do, tương tự như vùng biển quốc tế. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, các nước đang phát triển đă nỗ lực để cộng đồng quốc tế đi tới quy chế pháp lư này. Trong khi đó, một số nước nước công nghiệp phát triển, hoàn toàn không ủng hộ việc có một quy chế pháp lư như vậy. Do đó, vào những năm 90 của thế kỷ 20, trong khuôn khổ tham khảo không chính thức dưới sự chủ tŕ của Tổng thư kư LHQ, các nước đă tiến hành thương lượng về nội dung của phần XI. Kết quả thương lượng đó dẫn đến sự ra đời của Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của công ước. Theo đó, một số điều khoản của Công ước luật Biển năm 1982 liên quan quy chế pháp lư của đáy biển quốc tế đă có thay đổi nhất định để đáp ứng yêu cầu của các nước phát triển.
3. Các cơ chế quốc tế để thực thi các quy định của Công ước luật Biển năm 1982
a) Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 họp thường niên để thảo luận việc thực hiện công ước, bầu các cơ chế liên quan như Ṭa án quốc tế về luật Biển, Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, xem xét và đánh giá hoạt động của các cơ chế đó. Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 được tổ chức tại trụ sở LHQ ở New York vào khoảng tháng 6 hằng năm. Các quyết định được hội nghị thông qua bằng đa số phiếu.
b) Ṭa án quốc tế về luật Biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan giải thích và thực hiện Công ước luật Biển năm 1982. Trụ sở của ṭa án đặt tại Hamburg (Đức). Ṭa có 21 thẩm phán với nhiệm kỳ 9 năm (có thể được bầu lại). Các thẩm phán của ṭa án được Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 bầu bằng bỏ phiếu kín. Cho đến nay các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đă tŕnh 19 vụ việc lên Ṭa án quốc tế về luật Biển, trong đó 18 vụ liên quan tranh chấp giữa các quốc gia và 1 vụ Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương xin ư kiến tư vấn của ṭa. Dư luận cho rằng về lâu về dài các quốc gia sẽ đưa nhiều vụ việc tranh chấp ra ṭa nhiều hơn v́ ṭa án này có một số ưu thế nhất định so với các cơ chế tư pháp quốc tế khác.
c) Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương có chức năng thay mặt toàn thể cộng đồng quốc tế quản lư đáy biển quốc tế (cấp phép thăm ḍ tài nguyên ở đó, định ra các chính sách thăm ḍ khai thác, phân chia thu nhập từ việc khai thác tài nguyên ở đáy biển quốc tế cho cộng đồng quốc tế…). Các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 là thành viên đương nhiên của Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương. Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương đóng tại Kingston (Jamaica). Các cơ quan chính của Cơ quan Quyền lực bao gồm Đại hội đồng với đại diện tất cả các quốc gia thành viên (tương tự như Đại hội đồng LHQ), Hội đồng với 36 thành viên (nhiệm kỳ 4 năm) và Ban Thư kư do Tổng thư kư đứng đầu.
d) Ủy ban Ranh giới thềm lục địa được trao chức năng xem xét các báo cáo quốc gia về ranh giới ngoài thềm lục địa quá 200 hải lư, sau đó ra khuyến nghị đối với các báo cáo. Ủy ban có 21 thành viên được Hội nghị các thành viên công ước bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Sau khi Ủy ban có khuyến nghị, các quốc gia ven biển ấn định ranh giới thềm lục địa ngoài phạm vi 200 hải lư của ḿnh. Tính đến ngày 5.6.2012, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa đă nhận được 60 báo cáo quốc gia về thềm lục địa quá 200 hải lư, trong đó có Báo cáo chung giữa Việt Nam và Malaysia về khu vực thềm lục địa phía nam biển Đông và Báo cáo riêng của Việt Nam về thềm lục địa phía Bắc. Hằng năm Ủy ban tiến hành các kỳ họp tại trụ sở LHQ ở New York. Do nội dung các báo cáo phức tạp và công việc xem xét các báo cáo thuộc dạng mới, nên đến nay mặc dù đă rất cố gắng, nhưng Ủy ban mới ra khuyến nghị đối với 17 báo cáo. Với tiến độ như vậy, dự kiến phải khoảng hai chục năm nữa Ủy ban mới ra được kết luận về tất cả các báo cáo quốc gia. V́ thế, trong mấy năm gần đây các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đang cố gắng thương lượng để t́m các biện pháp thúc đẩy tiến độ công việc của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa.
4. Việt Nam và Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ
a. Là một quốc gia ven biển, Việt Nam đă tích cực tham gia vào quá tŕnh thương lượng về dự thảo Công ước luật Biển năm 1982. Việt Nam đánh giá cao việc hội nghị lần thứ III của LHQ về luật Biển thông qua Công ước luật Biển năm 1982. Trong quá tŕnh thương lượng tại hội nghị, sự tập hợp lực lượng và sự đấu tranh về nội dung của dự thảo công ước diễn ra từ góc độ các nhóm nước khác nhau: nhóm nước ven biển và nhóm nước không có biển, nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển, nhóm nước nghèo và nhóm nước có tiềm lực hải quân hùng mạnh… Lợi ích và quan tâm của các nhóm nước đối với quy chế pháp lư các vùng biển rất khác nhau và nhiều lúc rất mâu thuẫn. V́ vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 không thể thỏa măn tất cả các yêu sách mà các nhóm nước đặt ra, nhưng về tổng thể đă dung ḥa yêu cầu và quan tâm của các nhóm.
Sau khi Công ước luật Biển năm 1982 được thông qua, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên kư công ước và ngày 23.6.1994, Quốc hội nước ta đă quyết định phê chuẩn văn kiện pháp lư quan trọng này. Từ khi trở thành thành viên của Công ước luật Biển năm 1982, nước ta đă tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế theo công ước. Việt Nam đă được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương và thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực. Tại các diễn đàn liên quan, Nhà nước ta luôn khẳng định trong hoạt động sử dụng biển các quốc gia phải tuân thủ đúng các quy định trong công ước, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo công ước. Là một quốc gia ven biển Đông, Nhà nước ta triển khai nhiều hoạt động khai thác các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của ḿnh để xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi tiến hành các hoạt động ở biển Đông, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của công ước, tôn trọng quyền của các quốc gia khác ven biển Đông cũng như các quốc gia khác theo đúng các quy định của công ước. Đồng thời Nhà nước ta cũng yêu cầu các quốc gia ven biển Đông và các quốc gia khác tôn trọng các quyền lợi chính đáng của Việt Nam ở biển Đông. Trong thực tế, có lúc đă xảy ra một số vụ việc xâm hại nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh. Nhà nước ta đă kiên quyết đấu tranh ở các cấp qua đường ngoại giao và dư luận cũng như trên thực địa để bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
b.Việt Nam nhận thức rơ ràng rằng trong việc sử dụng biển và áp dụng Công ước luật Biển năm 1982 việc nảy sinh các bất đồng và tranh chấp giữa các quốc gia là điều khó tránh. Cách thức duy nhất để giải quyết những sự khác biệt và các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến giải thích và thực hiện các quy định của công ước chính là sử dụng các biện pháp ḥa b́nh theo pháp luật quốc tế quy định. Giải quyết các tranh chấp biển bằng các biện pháp ḥa b́nh vừa là nghĩa vụ của các thành viên LHQ theo quy định của Hiến chương và vừa là nghĩa vụ theo Công ước luật Biển năm 1982.
Ngày 8/6/2012, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York (Mỹ), lễ kỷ niệm 30 năm ngày kư kết Công ước luật Biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS 1982) đă diễn ra trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 22 các quốc gia thành viên công ước này. Dưới đây là bài viết của tác giả Hạnh Duy, chuyên gia luật pháp quốc tế, về những nội dung cơ bản của Công ước luật Biển năm 1982.
Kể từ khi được thành lập cho đến nay, Liên Hiệp Quốc (LHQ) đă dành sự ưu tiên đặc biệt cho hoạt động pháp điển hóa và phát triển tiến bộ các quy phạm và nguyên tắc của ngành luật biển quốc tế. Bằng chứng là LHQ đă tổ chức 3 hội nghị lớn và quan trọng về luật biển. Hội nghị luật Biển lần thứ I được tổ chức tại Geneva vào năm 1958 và thông qua 4 công ước, cụ thể là Công ước về lănh hải và vùng tiếp giáp, Công ước về biển cả, Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật ở biển cả và Công ước về thềm lục địa.
Tiếp đó, Hội nghị luật Biển lần thứ II cũng được tổ chức tại Geneva năm 1960 với mục đích thống nhất về chiều rộng của lănh hải. Do lập trường của các nhóm nước khác nhau nên hội nghị không đạt được mục tiêu đề ra. Hội nghị luật Biển lần thứ III chủ yếu được tổ chức tại New York và Geneva với hai giai đoạn khác nhau: giai đoạn trù bị (năm 1967-1973) và giai đoạn chính thức (năm 1973-1982).
<table class="image center" align="center" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="440"> <tbody> <tr><td>http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/bd/84/b7/Dao-Da-Dong-B.jpg</td> </tr> <tr><td class="Image">Đảo ch́m Đá Đông B - quần đảo Trường Sa.</td> </tr> </tbody> </table> Thành công lớn của Hội nghị luật Biển lần thứ III là đă thông qua Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ với 320 điều và 9 phụ lục. Công ước được mở ra cho các quốc gia kư vào ngày 10/12/1982. Cũng ngay trong ngày đó, Fiji trở thành thành viên đầu tiên của công ước. Đến ngày 5/6/2012, công ước có 162 thành viên từ khắp châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ và châu Đại dương. Trong số các nước ven biển Đông đă có 8 nước tham gia Công ước là Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei và Thái Lan.
Công ước luật Biển năm 1982 được coi là hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương bởi v́ đă xác định một cách toàn diện quy chế pháp lư của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lư của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế. Đồng thời công ước cũng quy định thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến hoạt động ở biển và đại dương như Ṭa án quốc tế về luật Biển, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và Hội nghị các quốc gia thành viên công ước.
Đặc biệt liên quan đến các tranh chấp có thể nảy sinh giữa các thành viên, Công ước luật Biển năm 1982 đ̣i hỏi các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước bằng các biện pháp ḥa b́nh theo đúng quy định của Hiến chương LHQ, đồng thời nêu rơ các cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính triệt để. Đáng chú ư, công ước được thông qua như một giải pháp cả gói, cho nên các quốc gia không được phép bảo lưu khi tham gia công ước.
1. Quy chế pháp lư của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển theo Công ước luật Biển năm 1982
Theo Công ước luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lănh hải của quốc gia ven biển. Nội thủy là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở của quốc gia ven biển. Trong vùng nội thủy của ḿnh, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lănh thổ đất liền của ḿnh.
Lănh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở của quốc gia ven biển. Theo luật biển vào những năm 50 của thế kỷ 20 trở về trước, lănh hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải lư, tức khoảng 5,7 km. Tại Hội nghị luật Biển lần thứ II của LHQ, một số nước tiếp tục ủng hộ quan điểm lănh hải 3 hải lư, nhưng một số nước khác chủ trương mở rộng lănh hải đến 12 hải lư. Tại Hội nghị luật Biển lần thứ III các nước đă đạt nhận thức chung, do đó Công ước luật Biển năm 1982 đă xác định chiều rộng của lănh hải là 12 hải lư. Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lănh hải của ḿnh cũng như đối với vùng trời ở trên lănh hải, đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển của lănh hải.
Tuy nhiên, tính chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi v́ trong lănh hải của quốc gia ven biển tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền đi qua không gây hại (tàu bay bay trên vùng trời vẫn phải xin phép). Công ước cũng đề ra những quy định rất cụ thể đối với việc đi qua không gây hại như không được đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển, hoặc dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đă được nêu trong Hiến chương LHQ; hoặc tuyên truyền, thu thập thông tin gây hại cho quốc pḥng, an ninh của quốc gia ven biển…
Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc đi qua trong lănh hải của ḿnh trong một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các thiết bị, công tŕnh, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, xuất, nhập cảnh, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua.
Vùng tiếp giáp lănh hải là vùng biển đặc thù nằm ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển. Vùng này cũng có chiều rộng 12 hải lư kể từ ranh giới ngoài của lănh hải. Có thể nói, vùng này như là một vùng đệm mà ở đó, các quốc gia ven biển có quyền thực hiện sự kiểm soát cần thiết nhằm mục đich ngăn ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lănh hải của quốc gia đó. Ngoài khía cạnh này ra, quy chế của vùng này hoàn toàn như phần c̣n lại của vùng đặc quyền kinh tế.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài lănh hải và có chiều rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở (v́ lănh hải 12 hải lư, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lư). Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lư hoàn toàn mới. Măi cho đến những năm 50 của thế kỷ 20 hoàn toàn không có chế định này. Lúc đó các quốc gia ven biển chỉ có lănh hải 3 hải lư. Ngoài lănh hải 3 hải lư là vùng biển quốc tế. Với việc ra đời của vùng đặc quyền kinh tế, vùng biển của quốc gia ven biển được mở rộng và vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng kể.
Khác với nội thủy và lănh hải, quốc gia ven biển không có chủ quyền mà chỉ có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó cũng như đối với các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Hiện nay, tài nguyên thiên nhiên chính trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang quan tâm và đẩy mạnh thăm ḍ, khai thác là tôm, cá. Đối với số lượng tôm, cá mà quốc gia ven biển không đánh bắt hết th́ có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt (nhưng họ phải trả lệ phí và tuân thủ các quy định của quốc gia ven biển). Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công tŕnh; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ ǵn môi trường biển.
Bên cạnh đó, Công ước luật Biển năm 1982 cũng quy định rơ ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có một số quyền như quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không ở vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Thềm lục địa là đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển bên ngoài lănh hải của quốc gia ven biển với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lư kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lănh hải. Theo công ước, quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của ḿnh đến tối đa 350 hải lư kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lư kể từ đường đẳng sâu 2.500 m (đường nối liền các điểm có độ sâu 2.500 m). Điều kiện để có thể mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lư là quốc gia ven biển phải tŕnh Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Thực hiện quyền này, các quốc gia ven biển đă tŕnh lên LHQ 60 báo cáo quốc gia khác nhau, trong đó có 5 báo cáo chung - do 2 hoặc 3, 4 nước cùng làm báo cáo đối với một khu vực cụ thể. Ngày 6.5.2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ cùng với Đại diện thường trực Malaysia tŕnh LHQ báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia về xác định ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lư ở nam biển Đông. Tiếp đó, ngày 7.5.2009, Đại diện thường trực nước ta tại LHQ đă tŕnh tiếp báo cáo riêng của Việt Nam về xác định thềm lục địa ngoài 200 hải lư ở khu vực phía Bắc.
Công ước luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của ḿnh, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm ḍ, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đó. Hiện nay, các nước ven biển tập trung thăm ḍ, khai thác nguồn lợi dầu khí để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Trong tương lai, ngoài dầu và khí, các nước sẽ thăm ḍ và khai thác các tài nguyên khác như quặng sắt, đồng, ch́, thiếc… Đặc biệt, khoản 2, điều 77 của công ước nhấn mạnh quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia ven biển không thăm ḍ, khai thác th́ cũng không ai có quyền khai thác tại đây, nếu không được sự đồng ư của quốc gia ven biển.
Như vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 về phạm vi cũng như quy chế pháp lư các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển rất rơ ràng và minh bạch. Phù hợp với quy định của Công ước, các quốc gia ven biển có các quyền hợp pháp và chính đáng đối với mỗi vùng biển của ḿnh. Khi thực hiện các quyền đó của ḿnh, mỗi quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền tương tự của các quốc gia ven biển khác. Đó là yêu cầu khách quan của trật tự pháp lư trên biển mà cộng đồng quốc tế đă cùng nhau xây dựng nên. Các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết quốc tế luôn luôn phải song hành.
2. Quy chế pháp lư của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế theo Công ước luật Biển năm 1982
Vùng biển quốc tế: Theo luật biển quốc tế trước đây th́ vùng biển quốc tế rất rộng, tức là toàn bộ các khu vực biển nằm ngoài lănh hải 3 hải lư của quốc gia ven biển. Với sự ra đời của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư, phạm vi vùng biển quốc tế bị thu hẹp đáng kể. Theo Công ước luật Biển năm 1982, vùng biển quốc tế là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư của các quốc gia ven biển. Ở vùng biển quốc tế, mọi quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống ngầm, tự do đánh bắt cá và tự do nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền tự do này, các quốc gia phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như phải tuân thủ các quy định liên quan của Công ước luật Biển năm 1982 như bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, an toàn hàng hải, hợp tác trấn áp cướp biển... Công ước quy định vùng biển quốc tế được sử dụng v́ mục đích ḥa b́nh và không nước nào được phép đ̣i một khu vực nào đó của vùng biển quốc tế thuộc chủ quyền của ḿnh.
Đáy biển quốc tế (hay c̣n gọi là đáy đại dương) là vùng đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển. Công ước luật Biển năm 1982 quy định đáy biển quốc tế là di sản chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đ̣i hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó. Đây cũng là những quy định mới trong luật biển quốc tế hiện đại. Công ước luật Biển năm 1982 quy định: khác với vùng biển quốc tế, ở đáy biển quốc tế các quốc gia không có quyền tự do khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để điều chỉnh mọi hoạt động liên quan đến đáy biển quốc tế, Công ước luật Biển năm 1982 đă quy định thành lập một tổ chức quốc tế mới là Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương.
Quy chế nói trên về đáy biển quốc tế là kết quả đấu tranh kiên tŕ của các nước đang phát triển. Theo luật biển quốc tế trước đây quy chế pháp lư của đáy biển cũng là quy chế tự do, tương tự như vùng biển quốc tế. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, các nước đang phát triển đă nỗ lực để cộng đồng quốc tế đi tới quy chế pháp lư này. Trong khi đó, một số nước nước công nghiệp phát triển, hoàn toàn không ủng hộ việc có một quy chế pháp lư như vậy. Do đó, vào những năm 90 của thế kỷ 20, trong khuôn khổ tham khảo không chính thức dưới sự chủ tŕ của Tổng thư kư LHQ, các nước đă tiến hành thương lượng về nội dung của phần XI. Kết quả thương lượng đó dẫn đến sự ra đời của Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của công ước. Theo đó, một số điều khoản của Công ước luật Biển năm 1982 liên quan quy chế pháp lư của đáy biển quốc tế đă có thay đổi nhất định để đáp ứng yêu cầu của các nước phát triển.
3. Các cơ chế quốc tế để thực thi các quy định của Công ước luật Biển năm 1982
a) Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 họp thường niên để thảo luận việc thực hiện công ước, bầu các cơ chế liên quan như Ṭa án quốc tế về luật Biển, Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, xem xét và đánh giá hoạt động của các cơ chế đó. Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 được tổ chức tại trụ sở LHQ ở New York vào khoảng tháng 6 hằng năm. Các quyết định được hội nghị thông qua bằng đa số phiếu.
b) Ṭa án quốc tế về luật Biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan giải thích và thực hiện Công ước luật Biển năm 1982. Trụ sở của ṭa án đặt tại Hamburg (Đức). Ṭa có 21 thẩm phán với nhiệm kỳ 9 năm (có thể được bầu lại). Các thẩm phán của ṭa án được Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 bầu bằng bỏ phiếu kín. Cho đến nay các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đă tŕnh 19 vụ việc lên Ṭa án quốc tế về luật Biển, trong đó 18 vụ liên quan tranh chấp giữa các quốc gia và 1 vụ Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương xin ư kiến tư vấn của ṭa. Dư luận cho rằng về lâu về dài các quốc gia sẽ đưa nhiều vụ việc tranh chấp ra ṭa nhiều hơn v́ ṭa án này có một số ưu thế nhất định so với các cơ chế tư pháp quốc tế khác.
c) Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương có chức năng thay mặt toàn thể cộng đồng quốc tế quản lư đáy biển quốc tế (cấp phép thăm ḍ tài nguyên ở đó, định ra các chính sách thăm ḍ khai thác, phân chia thu nhập từ việc khai thác tài nguyên ở đáy biển quốc tế cho cộng đồng quốc tế…). Các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 là thành viên đương nhiên của Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương. Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương đóng tại Kingston (Jamaica). Các cơ quan chính của Cơ quan Quyền lực bao gồm Đại hội đồng với đại diện tất cả các quốc gia thành viên (tương tự như Đại hội đồng LHQ), Hội đồng với 36 thành viên (nhiệm kỳ 4 năm) và Ban Thư kư do Tổng thư kư đứng đầu.
d) Ủy ban Ranh giới thềm lục địa được trao chức năng xem xét các báo cáo quốc gia về ranh giới ngoài thềm lục địa quá 200 hải lư, sau đó ra khuyến nghị đối với các báo cáo. Ủy ban có 21 thành viên được Hội nghị các thành viên công ước bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Sau khi Ủy ban có khuyến nghị, các quốc gia ven biển ấn định ranh giới thềm lục địa ngoài phạm vi 200 hải lư của ḿnh. Tính đến ngày 5.6.2012, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa đă nhận được 60 báo cáo quốc gia về thềm lục địa quá 200 hải lư, trong đó có Báo cáo chung giữa Việt Nam và Malaysia về khu vực thềm lục địa phía nam biển Đông và Báo cáo riêng của Việt Nam về thềm lục địa phía Bắc. Hằng năm Ủy ban tiến hành các kỳ họp tại trụ sở LHQ ở New York. Do nội dung các báo cáo phức tạp và công việc xem xét các báo cáo thuộc dạng mới, nên đến nay mặc dù đă rất cố gắng, nhưng Ủy ban mới ra khuyến nghị đối với 17 báo cáo. Với tiến độ như vậy, dự kiến phải khoảng hai chục năm nữa Ủy ban mới ra được kết luận về tất cả các báo cáo quốc gia. V́ thế, trong mấy năm gần đây các quốc gia thành viên Công ước luật Biển năm 1982 đang cố gắng thương lượng để t́m các biện pháp thúc đẩy tiến độ công việc của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa.
4. Việt Nam và Công ước luật Biển năm 1982 của LHQ
a. Là một quốc gia ven biển, Việt Nam đă tích cực tham gia vào quá tŕnh thương lượng về dự thảo Công ước luật Biển năm 1982. Việt Nam đánh giá cao việc hội nghị lần thứ III của LHQ về luật Biển thông qua Công ước luật Biển năm 1982. Trong quá tŕnh thương lượng tại hội nghị, sự tập hợp lực lượng và sự đấu tranh về nội dung của dự thảo công ước diễn ra từ góc độ các nhóm nước khác nhau: nhóm nước ven biển và nhóm nước không có biển, nhóm nước đang phát triển và nhóm nước phát triển, nhóm nước nghèo và nhóm nước có tiềm lực hải quân hùng mạnh… Lợi ích và quan tâm của các nhóm nước đối với quy chế pháp lư các vùng biển rất khác nhau và nhiều lúc rất mâu thuẫn. V́ vậy, các quy định của Công ước luật Biển năm 1982 không thể thỏa măn tất cả các yêu sách mà các nhóm nước đặt ra, nhưng về tổng thể đă dung ḥa yêu cầu và quan tâm của các nhóm.
Sau khi Công ước luật Biển năm 1982 được thông qua, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên kư công ước và ngày 23.6.1994, Quốc hội nước ta đă quyết định phê chuẩn văn kiện pháp lư quan trọng này. Từ khi trở thành thành viên của Công ước luật Biển năm 1982, nước ta đă tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế theo công ước. Việt Nam đă được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương và thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực. Tại các diễn đàn liên quan, Nhà nước ta luôn khẳng định trong hoạt động sử dụng biển các quốc gia phải tuân thủ đúng các quy định trong công ước, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo công ước. Là một quốc gia ven biển Đông, Nhà nước ta triển khai nhiều hoạt động khai thác các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của ḿnh để xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi tiến hành các hoạt động ở biển Đông, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của công ước, tôn trọng quyền của các quốc gia khác ven biển Đông cũng như các quốc gia khác theo đúng các quy định của công ước. Đồng thời Nhà nước ta cũng yêu cầu các quốc gia ven biển Đông và các quốc gia khác tôn trọng các quyền lợi chính đáng của Việt Nam ở biển Đông. Trong thực tế, có lúc đă xảy ra một số vụ việc xâm hại nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh. Nhà nước ta đă kiên quyết đấu tranh ở các cấp qua đường ngoại giao và dư luận cũng như trên thực địa để bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
b.Việt Nam nhận thức rơ ràng rằng trong việc sử dụng biển và áp dụng Công ước luật Biển năm 1982 việc nảy sinh các bất đồng và tranh chấp giữa các quốc gia là điều khó tránh. Cách thức duy nhất để giải quyết những sự khác biệt và các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến giải thích và thực hiện các quy định của công ước chính là sử dụng các biện pháp ḥa b́nh theo pháp luật quốc tế quy định. Giải quyết các tranh chấp biển bằng các biện pháp ḥa b́nh vừa là nghĩa vụ của các thành viên LHQ theo quy định của Hiến chương và vừa là nghĩa vụ theo Công ước luật Biển năm 1982.