vuitoichat
06-19-2012, 15:05
Để đối phó với các hành động của Trung Quốc, Hoa Kỳ cần phải tiến tới việc thành lập một tổ chức gồm các liên minh ngầm giữa các nước Đông Nam Á, cũng như tăng cường hợp tác để đương đầu với đối thủ hiếu chiến tiềm tàng.
http://younhac.com/forum/attachment.php?attac hmentid=61462&stc=1&d=1340118240
Tranh chấp gây nhiều chú ư giữa Trung Quốc và Philippin tại băi Scarborough trong những tuần vừa qua một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo về căng thẳng đang diễn ra ở Biển Đông. Sự việc bắt đầu khi lực lượng hải quân Philippines được trang bị một tàu tuần duyên cũ của Mỹ cố bắt giữ ngư dân Trung Quốc ở băi cạn. T́nh h́nh trở nên căng thẳng khi xuất hiện hai tàu Hải giám Trung Quốc, h́nh thành một cục diện đối đầu hai ngày. Cuối cùng hải quân Philippines đă rút lui nhưng hai bên vẫn tiếp tục chĩa mũi nhọn chính trị vào nhau.
Hoa Kỳ cam kết theo dơi sát t́nh h́nh, và hiện tại dường như Philippines và Trung Quốc cũng đă có những động thái hạ nhiệt không để xung đột leo thang. Nhưng cuộc tranh căi này nêu bật một số khó khăn mà Mỹ sẽ phải đối mặt khi nước này nỗ lực tái can dự vào khu vực.
Cuộc chiến ở I-rắc đă kết thúc. Các hoạt động của Nato và việc triển khai quân đội Mỹ ở Áp-ga-ni-xtan do thu hẹp đă dừng sớm hơn dự tính. Mặc dù I-ran và Syria tiếp tục là mối quan ngại đối với Washington, chính quyền Obama thực sự đang cố gắng thực hiện chính sách ngoại giao “trọng tâm” đối với Đông Nam Á được đưa ra hồi cuối năm ngoái. Chiến lược trục xoay này thể hiện sự dịch chuyển về trọng tâm hơn là sự tái điều chỉnh về nguồn lực hoặc nhân lực. Thượng nghị sĩ James Webb (D-Va.), chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện về các vấn đề Đông Nam Á và Thái B́nh Dương nói rằng: “Tôi thực sự không coi đây là sự xoay trục. Điều tôi thấy hiện nay là việc quay trở lại một trạng thái b́nh thường cần thiết.”
Nhưng chiến lược trục xoay vẫn tạo ra một số thách thức. Việc kêu gọi tăng cường các hoạt động hải quân hay triển khai quân đội, trong khi không trực tiếp gây bất ổn cho khu vực, có thể sẽ khiến Trung Quốc bất b́nh hơn và tạo ra nguy cơ bùng nổ xung đột lớn hơn. Thêm nữa, những nỗ lực của Mỹ nhằm duy tŕ sự can dự ở các khu vực khác trên thế giới dường như phải đương đầu với những liên kết kinh tế hiện nay.
Đằng sau chiến lược trọng tâm Thái B́nh Dương là động cơ về kinh tế. Gần 1,2 tỷ đô-la trao đổi mậu dịch của Mỹ đi qua Tây Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương. Về thương mại toàn cầu, 90% toàn bộ hàng hóa thương mại được chuyên chở từ lục địa này tới lục địa khác. Gần phân nửa trong toàn bộ tổng trọng tải hàng hóa và một phần ba toàn bộ giá trị tiền tệ được lưu thông qua Biển Đông. Thêm nữa, vùng biển này rất phong phú về khoáng sản, nguồn cá, khí đốt tự nhiên và dự trữ dầu. Mỹ không tích cực hướng tới quyền tiếp cận trực tiếp những nguồn tài nguyên này. Nhưng những nguồn lợi đó có vai tṛ quan trọng mang tính sống c̣n đối với nhiều đối tác chiến lược và đồng minh của Mỹ trong khu vực.
Trung Quốc và Biển Đông
Trong những năm gần đây, đă có hàng loạt cuộc tranh luận xung quanh yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông và “đường chín đoạn” hay được nhắc đến của nước này. Mặc dù điều không rơ ràng vẫn chỉ xoay quanh câu hỏi đường chín đoạn này biểu thị điều ǵ, đường đứt đoạn tượng trưng cho những vùng biển mà Trung Quốc yêu sách. Trung Quốc cố gắng thực thi yêu sách lănh thổ trên cả vùng biển nằm trong đường đứt đoạn này, bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông, kể cả Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa. Kiểm soát được khu vực này cho phép Trung Quốc quản lư hiệu quả các tuyến đường biển trọng yếu cũng như những nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng đầy tiềm năng.
Trung Quốc che giấu phần lớn chính sách của nước này ở khu vực thông qua cách tiếp cận “vừa đàm phán vừa chiếm.” Điều đó nói lên rằng, Trung Quốc nh́n chung duy tŕ cách tiếp cận cơ bản nhằm thực thi yêu sách của ḿnh đối với Biển Đông trong khi tiến hành các điều chỉnh chiến thuật khi những hành động của nước này bị đặt nghi vấn. Ví dụ, sau khi đối mặt với những phản ứng ngoại giao v́ việc liệt kê khu vực này vào nhóm “lợi ích cốt lơi” cùng với Đài Loan và Tây Tạng, PRC đă hạn chế sử dụng cụm từ này.
Mặc dù tranh chấp hàng hải đang tăng lên giữa các bên có lợi ích thương mại và các cơ quan chấp pháp hàng hải dân sự được thành lập gần đây của Trung Quốc dẫn đến việc tất cả các quốc gia trong khu vực đều tăng cường hiện đại hóa quân đội, phần lớn những tranh chấp này ít bất ổn hơn so với trong quá khứ. Ngoài ra, Trung Quốc cơ bản trong những thập kỷ qua đều duy tŕ những yêu sách lănh thổ tương tự ở khu vực, sự dịch chuyển trong những năm gần đây chỉ là khẳng định tầm ảnh hưởng hơn nữa đối với những vùng biển tranh chấp và làm gián đoạn hoạt động kinh tế của các quốc gia. Điều này hàm ư rằng, ít nhất ở thời điểm hiện tại, Trung Quốc ít quan tâm đến việc mở rộng quá những khu vực mà nước này yêu sách, mặc dù hành động phá hỏng tàu khảo sát địa chấn đang thăm ḍ trữ lượng dầu khí trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Philippines đă cho thấy sự thay đổi tiềm tàng trong chính sách
Vai tṛ của Luật pháp Quốc tế
Vấn đề thứ hai liên quan đến mâu thuẫn ngày càng tăng của PRC đối với luật hàng hải quốc tế hiện nay. Những yêu sách của PRC đối với vùng biển rộng lớn này có ít hoặc không hề có cơ sở pháp lư, đồng thời mâu thuẫn trực tiếp với những yêu sách hợp pháp của các quốc gia khác. Thay vào đó, những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc chủ yếu có xu hướng lặp lại các yêu sách lịch sử lâu đời. Lần đầu tiên kể từ Triều đại Minh vào thế kỷ 16, Trung Quốc bắt đầu bước vào thời kỳ ổn định lâu dài và nước này hướng tới việc thực thi yêu sách chủ quyền ở những vùng xa xôi. Trung Quốc lập luận rằng các đảo ở Biển Đông được phát hiện lần đầu tiên vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên vào thời nhà Hán, sau đó cũng được đề cập đến trong một chuyến đi của phái bộ Trung Quốc vào thế kỷ thứ ba sau Công nguyên. Tuy nhiên, những lập luận như vậy không có cơ sở pháp lư trong trật tự luật pháp quốc tế hiện nay được quy định theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Trong những điều khoản chung, UNCLOS đưa ra cách thức để các quốc gia xác định vùng biển thuộc phạm vi bảo vệ trong khu vực hàng hải hay Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của một quốc gia. Những vùng biển này xác định bằng cách kéo dài từ đường cơ sở đă được thiết lập, theo điều 5 và điều 7 của UNCLOS đường cơ sở này được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc bờ biển. EEZ cho phép các quốc gia quy định các hoạt động kinh tế diễn ra trong những vùng biển đó, nhưng phải tôn trọng quyền qua lại của tàu thuyền nước ngoài ở vùng biển nói trên. Được củng cố bởi đặc tính giao ước của UNCLOS, EEZs có vị trí quan trọng trong hệ thống luật pháp chung quốc tế.
Đối lập với những nguyên tắc này, PRC có xu hướng khẳng định những yêu sách hàng hải và EEZ của ḿnh từ đường cơ sở vượt quá giới hạn quy định theo điều 5 và 7, và dựa vào những yêu sách lịch sử đă đề cập ở trên. Mặc dù Việt Nam cũng gặp vấn đề tương tự nhưng đă nỗ lực đưa ra đường cơ sở mới theo đúng với UNCLOS. Ngoài ra, Trung Quốc hướng tới thực thi EEZs từ các đảo tranh chấp ở Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với Trường Sa, do chỉ chiếm giữ một phần nhỏ của quần đảo cho nên Trung Quốc không có quyền đ̣i hỏi nhiều tại đây. Hơn nữa, do đặc điểm địa lư của Quần đảo Trường Sa nên nó không đủ điều kiện để có được một Vùng Đặc quyền Kinh tế dựa theo tiêu chí được nêu trong điều 121 (3) của UNCLOS, điều khoản quy định về điều kiện để một đảo có thể có một Vùng Đặc quyền Kinh tế. Ngoài ra, tiền lệ án về vấn đề này cũng có thể được rút ra từ trường hợp giữa Ucraina và Rumani trong vấn đề Đảo Rắn (Snake Island), đây là khu vực đảo có rất nhiều đặc điểm giống với Quần đảo Trường Sa. Vùng Đặc quyền Kinh tế của đảo Rắn vẫn là một vấn đề cần phải làm rơ và được nh́n nhận là không phù hợp theo UNCLOS do đảo này không đáp ứng được tiêu chí đă được nêu tại điều 121 (3). Ngay cả khi Trung Quốc có được chủ quyền tại Quần đảo Trường Sa, th́ Vùng Đặc quyền Kinh tế mà Trung Quốc có được từ quần đảo này cũng có nhiều khả năng sẽ không có hiệu lực. Ngoài ra, hầu hết phạm vi đ̣i hỏi của “đường chín đoạn” – yêu sách được biết đến nhiều của phía Trung Quốc - sẽ thách thức trật tự pháp lư quốc tế và thách thức các Vùng Đặc quyền Kinh tế của các nước khác trong khu vực.
http://laodong.com.vn/Image.aspx?id=65509&ts=425&lm=63474564438387000 0
Lợi ích của Mỹ
Hoa Kỳ đă bị cuốn vào cuộc tranh căi pháp lư giữa các quốc gia chủ yếu là v́ những lư do an ninh. Trung Quốc đang duy tŕ một chính sách chống tiếp cận tới phạm vi lănh hải của họ, ngay cả trong những khu vực đang tranh chấp cùng các quốc gia khác. Một trong những nhân tố quan trọng của toàn cầu hóa và thương mại hàng hải là khả năng duy tŕ việc tiếp cận tự do đến các tuyến đường biển và có được một khuôn khổ pháp lư để duy tŕ tự do hàng hải, đây là một quyền được nêu tại điều 58 của UNCLOS. Tuy nhiên, Trung Quốc đă công khai chỉ trích nguyên tắc pháp lư này và đă từ chối việc các tàu nước ngoài tiếp cận tới Vùng Đặc quyền Kinh tế của họ. Điều này bao gồm sự cố cắt cáp vào tháng 5 năm 2011 tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Phi-líp-pin và vụ đối đầu tháng 5 năm 2009 với tàu USNS Implacable, 75 dặm ngoài khơi bờ biển của Trung Quốc.
Tuy nhiêu, như rất nhiều yếu tố khác của luật pháp quốc tế, Hoa Kỳ cần phải thận trọng với những lời chỉ trích của chính nước này. Mặc dù Trung Quốc đă thông qua UNCLOS và do đó bị ràng buộc về mặt kỹ thuật để duy tŕ và thực thi UNCLOS, th́ Hoa Kỳ vẫn chưa thể kư kết công ước này. Như vậy, Trung Quốc coi lập luận của Mỹ dựa trên luật pháp quốc tế liên quan đến các yêu sách hàng hải của Trung Quốc là không hợp lí. Ngoài ra, nếu Trung Quốc tiếp tục không coi trọng UNCLOS, nước này có thể sử dụng một cách lư giải pháp lư tương tự để làm gián đoạn các tuyến đường biển giao thương quan trọng đối với không chỉ nền kinh tế Mỹ mà c̣n của rất nhiều các thị trường Đông Á khác, động lực cho việc duy tŕ sự thịnh vượng của Mỹ.
Để đối phó với các hành động của Trung Quốc, Hoa Kỳ cần phải tiến tới việc thành lập một tổ chức gồm các liên minh ngầm giữa các nước Đông Nam Á, cũng như tăng cường hợp tác để đương đầu với những đối thủ hung hăng trong-tương-lai tại khu vực. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ chuyển hướng các cấu trúc liên minh trước đây như với NATO hay như các liên minh đă được h́nh thành trước đây với Nhật, Úc và Hàn Quốc. Những cấu trúc như vậy tỏ ra không thực tế trong bối cảnh khu vực Đông Nam Á đang ngày càng phức tạp, cạnh tranh giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng cũng như những nguy cơ làm gián đoạn mối quan hệ Mỹ-Trung đang xuất hiện. Thay vào đó, Hoa Kỳ đă hỗ trợ các nỗ lực như hoạt động thường niên Hợp tác sẵn sàng và huấn luyện trên biển (CARAT) và Sáng kiến phổ biến an ninh (PSI). Trong khi đó, tổ chức ASEAN, hội nghị Bộ trưởng quốc pḥng ASEAN và Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương của Mỹ cũng đă góp phần vào việc h́nh thành hợp tác liên khu vực bất chấp sự nghi ngại lẫn nhau có thể có giữa các quốc gia thuộc các khu vực khác nhau.
Phần lớn công việc tập trung vào việc xây dựng các chiến thuật chống cướp biển cũng như các hoạt động t́m kiếm, cứu nạn, ứng phó thiên tai, không phổ biến vũ khí và chống buôn lậu. Thực ra, những vấn đề như vậy cũng là một trong những mối quan tâm của Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề cướp biển tại vịnh A-đen. Điều này, sau đó cũng có thể được sử dụng như một sự khởi đầu tích cực cho phía Trung Quốc và có thể giúp nước này tham gia vào các hoạt động như vậy. Sự tăng cường hợp tác trong một phạm vi hạn chế, sau đó có thể tạo nền tảng cho các giải pháp ngoại giao các cuộc khủng hoảng tiềm tàng, cũng như tạo điều kiện thận lợi cho sự giao thiệp cũng như hiểu nhau hơn giữa các nước. Sự tham gia tích cực như vậy, đặc biệt là sự tham gia của Trung Quốc, sẽ giúp Mỹ duy tŕ được mục tiêu hiện tại trong chính sách của nước này tại khu vực. Điều này sẽ cho phép Hoa Kỳ giải quyết các mối quan tâm an ninh pháp lư trong khu vực, trấn an các đồng minh về sự tiếp tục can dự của Mỹ cũng như làm yên ḷng Trung Quốc về các ư định của ḿnh.
Trong khi đó, Hoa Kỳ cần phải tránh việc quay trở lại với mô h́nh “tăng cường hiện diện” về việc đầu tư cũng như xây dựng các căn cứ quân sự. Việt Nam và Phi-líp-pin cần tránh việc đầu tư quá mức vào quân sự để làm dịu đi mối lo ngại của Trung Quốc trong khu vực và tránh việc tạo ra một lư do cho sự bành trướng của Trung Quốc. Hơn nữa, không có một chiến lược thực sự nào tồn tại dành cho việc thực hiện xây dựng lực lượng Hoa Kỳ. Cho dù đă có nhiều cuộc bàn thảo xung quanh khái niệm mới về Chiến tranh trên biển-trên không, th́ vẫn chưa tồn tại một chiến lược gắn kết nào cho việc thực hiện khái niệm này – một vấn đề được nêu lên bởi T.X.Hammes, một cựu sĩ quan thủy quân lục chiến và cũng là một nghiên cứu sinh tại Đại học Quốc pḥng quốc gia. Cùng với việc nêu bật những thiếu sót này, Hammes lập luận rằng Hoa Kỳ nên từ bỏ lập trường đe dọa và tập trung vào tăng cường các mối quan hệ trong khu vực, điều hoàn toàn manh tính pḥng thủ. Thay v́ đẩy mạnh phát triển các năng lực dùng cho mục đích đe dọa của ḿnh, Hoa Kỳ nên sử dụng các lợi thế địa lư của chuỗi đảo đầu tiên gồm Nhật, Đài Loan và Phi-líp-pin cũng như duy tŕ khả năng pḥng thủ ít đe dọa đến Trung Quốc.
Lập luận này hoàn toàn trái ngược so với những ǵ mà nhiều người Mỹ bảo vệ, cụ thể là duy tŕ lực lượng có sức tấn công mạnh mẽ trong khu vực, có khả năng tấn công các thiết bị quân sự chống tiếp cận và các cứ điểm quân sự trên đất liền của Trung Quốc trong trường hợp xung đột nổ ra. Dĩ nhiên là phương án thứ hai sẽ đ̣i hỏi nguồn lực đáng kể và sẽ ép buộc các nước đồng minh công khai phản đối Trung Quốc thông qua việc liên kết mạnh mẽ với Hoa Kỳ. Cách tiếp cận mang t́nh pḥng thủ sẽ không cần nhiều chi phí. Cách tiếp cận này sẽ tập trung vào việc hợp tác với các nước đồng minh hơn là ép họ phải đứng về phía chống lại Trung Quốc, và sẽ ít đe dọa hơn nhiều tới Trung Quốc.
Theo đó, Hoa Kỳ phải thận trọng không vượt ra ngoài ranh giới của các diễn đàn khu vực để tránh việc phải cô lập Trung Quốc. Hoa Kỳ cần phải nhận ra rằng nước này không thể đóng vai tṛ lănh đạo trong các nỗ lực như vậy và phải hợp tác với tất cả các quốc gia trong khu vực. Washington phải tập trung vào việc giúp đỡ các nước ASEAN và các nước khác cũng phải tự thiết lập hệ thống an ninh cho chính họ.
Nguồn: Foreign Policy in Focus/ NCBD
http://younhac.com/forum/attachment.php?attac hmentid=61462&stc=1&d=1340118240
Tranh chấp gây nhiều chú ư giữa Trung Quốc và Philippin tại băi Scarborough trong những tuần vừa qua một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo về căng thẳng đang diễn ra ở Biển Đông. Sự việc bắt đầu khi lực lượng hải quân Philippines được trang bị một tàu tuần duyên cũ của Mỹ cố bắt giữ ngư dân Trung Quốc ở băi cạn. T́nh h́nh trở nên căng thẳng khi xuất hiện hai tàu Hải giám Trung Quốc, h́nh thành một cục diện đối đầu hai ngày. Cuối cùng hải quân Philippines đă rút lui nhưng hai bên vẫn tiếp tục chĩa mũi nhọn chính trị vào nhau.
Hoa Kỳ cam kết theo dơi sát t́nh h́nh, và hiện tại dường như Philippines và Trung Quốc cũng đă có những động thái hạ nhiệt không để xung đột leo thang. Nhưng cuộc tranh căi này nêu bật một số khó khăn mà Mỹ sẽ phải đối mặt khi nước này nỗ lực tái can dự vào khu vực.
Cuộc chiến ở I-rắc đă kết thúc. Các hoạt động của Nato và việc triển khai quân đội Mỹ ở Áp-ga-ni-xtan do thu hẹp đă dừng sớm hơn dự tính. Mặc dù I-ran và Syria tiếp tục là mối quan ngại đối với Washington, chính quyền Obama thực sự đang cố gắng thực hiện chính sách ngoại giao “trọng tâm” đối với Đông Nam Á được đưa ra hồi cuối năm ngoái. Chiến lược trục xoay này thể hiện sự dịch chuyển về trọng tâm hơn là sự tái điều chỉnh về nguồn lực hoặc nhân lực. Thượng nghị sĩ James Webb (D-Va.), chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện về các vấn đề Đông Nam Á và Thái B́nh Dương nói rằng: “Tôi thực sự không coi đây là sự xoay trục. Điều tôi thấy hiện nay là việc quay trở lại một trạng thái b́nh thường cần thiết.”
Nhưng chiến lược trục xoay vẫn tạo ra một số thách thức. Việc kêu gọi tăng cường các hoạt động hải quân hay triển khai quân đội, trong khi không trực tiếp gây bất ổn cho khu vực, có thể sẽ khiến Trung Quốc bất b́nh hơn và tạo ra nguy cơ bùng nổ xung đột lớn hơn. Thêm nữa, những nỗ lực của Mỹ nhằm duy tŕ sự can dự ở các khu vực khác trên thế giới dường như phải đương đầu với những liên kết kinh tế hiện nay.
Đằng sau chiến lược trọng tâm Thái B́nh Dương là động cơ về kinh tế. Gần 1,2 tỷ đô-la trao đổi mậu dịch của Mỹ đi qua Tây Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương. Về thương mại toàn cầu, 90% toàn bộ hàng hóa thương mại được chuyên chở từ lục địa này tới lục địa khác. Gần phân nửa trong toàn bộ tổng trọng tải hàng hóa và một phần ba toàn bộ giá trị tiền tệ được lưu thông qua Biển Đông. Thêm nữa, vùng biển này rất phong phú về khoáng sản, nguồn cá, khí đốt tự nhiên và dự trữ dầu. Mỹ không tích cực hướng tới quyền tiếp cận trực tiếp những nguồn tài nguyên này. Nhưng những nguồn lợi đó có vai tṛ quan trọng mang tính sống c̣n đối với nhiều đối tác chiến lược và đồng minh của Mỹ trong khu vực.
Trung Quốc và Biển Đông
Trong những năm gần đây, đă có hàng loạt cuộc tranh luận xung quanh yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông và “đường chín đoạn” hay được nhắc đến của nước này. Mặc dù điều không rơ ràng vẫn chỉ xoay quanh câu hỏi đường chín đoạn này biểu thị điều ǵ, đường đứt đoạn tượng trưng cho những vùng biển mà Trung Quốc yêu sách. Trung Quốc cố gắng thực thi yêu sách lănh thổ trên cả vùng biển nằm trong đường đứt đoạn này, bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông, kể cả Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa. Kiểm soát được khu vực này cho phép Trung Quốc quản lư hiệu quả các tuyến đường biển trọng yếu cũng như những nguồn tài nguyên năng lượng quan trọng đầy tiềm năng.
Trung Quốc che giấu phần lớn chính sách của nước này ở khu vực thông qua cách tiếp cận “vừa đàm phán vừa chiếm.” Điều đó nói lên rằng, Trung Quốc nh́n chung duy tŕ cách tiếp cận cơ bản nhằm thực thi yêu sách của ḿnh đối với Biển Đông trong khi tiến hành các điều chỉnh chiến thuật khi những hành động của nước này bị đặt nghi vấn. Ví dụ, sau khi đối mặt với những phản ứng ngoại giao v́ việc liệt kê khu vực này vào nhóm “lợi ích cốt lơi” cùng với Đài Loan và Tây Tạng, PRC đă hạn chế sử dụng cụm từ này.
Mặc dù tranh chấp hàng hải đang tăng lên giữa các bên có lợi ích thương mại và các cơ quan chấp pháp hàng hải dân sự được thành lập gần đây của Trung Quốc dẫn đến việc tất cả các quốc gia trong khu vực đều tăng cường hiện đại hóa quân đội, phần lớn những tranh chấp này ít bất ổn hơn so với trong quá khứ. Ngoài ra, Trung Quốc cơ bản trong những thập kỷ qua đều duy tŕ những yêu sách lănh thổ tương tự ở khu vực, sự dịch chuyển trong những năm gần đây chỉ là khẳng định tầm ảnh hưởng hơn nữa đối với những vùng biển tranh chấp và làm gián đoạn hoạt động kinh tế của các quốc gia. Điều này hàm ư rằng, ít nhất ở thời điểm hiện tại, Trung Quốc ít quan tâm đến việc mở rộng quá những khu vực mà nước này yêu sách, mặc dù hành động phá hỏng tàu khảo sát địa chấn đang thăm ḍ trữ lượng dầu khí trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Philippines đă cho thấy sự thay đổi tiềm tàng trong chính sách
Vai tṛ của Luật pháp Quốc tế
Vấn đề thứ hai liên quan đến mâu thuẫn ngày càng tăng của PRC đối với luật hàng hải quốc tế hiện nay. Những yêu sách của PRC đối với vùng biển rộng lớn này có ít hoặc không hề có cơ sở pháp lư, đồng thời mâu thuẫn trực tiếp với những yêu sách hợp pháp của các quốc gia khác. Thay vào đó, những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc chủ yếu có xu hướng lặp lại các yêu sách lịch sử lâu đời. Lần đầu tiên kể từ Triều đại Minh vào thế kỷ 16, Trung Quốc bắt đầu bước vào thời kỳ ổn định lâu dài và nước này hướng tới việc thực thi yêu sách chủ quyền ở những vùng xa xôi. Trung Quốc lập luận rằng các đảo ở Biển Đông được phát hiện lần đầu tiên vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên vào thời nhà Hán, sau đó cũng được đề cập đến trong một chuyến đi của phái bộ Trung Quốc vào thế kỷ thứ ba sau Công nguyên. Tuy nhiên, những lập luận như vậy không có cơ sở pháp lư trong trật tự luật pháp quốc tế hiện nay được quy định theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Trong những điều khoản chung, UNCLOS đưa ra cách thức để các quốc gia xác định vùng biển thuộc phạm vi bảo vệ trong khu vực hàng hải hay Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của một quốc gia. Những vùng biển này xác định bằng cách kéo dài từ đường cơ sở đă được thiết lập, theo điều 5 và điều 7 của UNCLOS đường cơ sở này được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc bờ biển. EEZ cho phép các quốc gia quy định các hoạt động kinh tế diễn ra trong những vùng biển đó, nhưng phải tôn trọng quyền qua lại của tàu thuyền nước ngoài ở vùng biển nói trên. Được củng cố bởi đặc tính giao ước của UNCLOS, EEZs có vị trí quan trọng trong hệ thống luật pháp chung quốc tế.
Đối lập với những nguyên tắc này, PRC có xu hướng khẳng định những yêu sách hàng hải và EEZ của ḿnh từ đường cơ sở vượt quá giới hạn quy định theo điều 5 và 7, và dựa vào những yêu sách lịch sử đă đề cập ở trên. Mặc dù Việt Nam cũng gặp vấn đề tương tự nhưng đă nỗ lực đưa ra đường cơ sở mới theo đúng với UNCLOS. Ngoài ra, Trung Quốc hướng tới thực thi EEZs từ các đảo tranh chấp ở Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với Trường Sa, do chỉ chiếm giữ một phần nhỏ của quần đảo cho nên Trung Quốc không có quyền đ̣i hỏi nhiều tại đây. Hơn nữa, do đặc điểm địa lư của Quần đảo Trường Sa nên nó không đủ điều kiện để có được một Vùng Đặc quyền Kinh tế dựa theo tiêu chí được nêu trong điều 121 (3) của UNCLOS, điều khoản quy định về điều kiện để một đảo có thể có một Vùng Đặc quyền Kinh tế. Ngoài ra, tiền lệ án về vấn đề này cũng có thể được rút ra từ trường hợp giữa Ucraina và Rumani trong vấn đề Đảo Rắn (Snake Island), đây là khu vực đảo có rất nhiều đặc điểm giống với Quần đảo Trường Sa. Vùng Đặc quyền Kinh tế của đảo Rắn vẫn là một vấn đề cần phải làm rơ và được nh́n nhận là không phù hợp theo UNCLOS do đảo này không đáp ứng được tiêu chí đă được nêu tại điều 121 (3). Ngay cả khi Trung Quốc có được chủ quyền tại Quần đảo Trường Sa, th́ Vùng Đặc quyền Kinh tế mà Trung Quốc có được từ quần đảo này cũng có nhiều khả năng sẽ không có hiệu lực. Ngoài ra, hầu hết phạm vi đ̣i hỏi của “đường chín đoạn” – yêu sách được biết đến nhiều của phía Trung Quốc - sẽ thách thức trật tự pháp lư quốc tế và thách thức các Vùng Đặc quyền Kinh tế của các nước khác trong khu vực.
http://laodong.com.vn/Image.aspx?id=65509&ts=425&lm=63474564438387000 0
Lợi ích của Mỹ
Hoa Kỳ đă bị cuốn vào cuộc tranh căi pháp lư giữa các quốc gia chủ yếu là v́ những lư do an ninh. Trung Quốc đang duy tŕ một chính sách chống tiếp cận tới phạm vi lănh hải của họ, ngay cả trong những khu vực đang tranh chấp cùng các quốc gia khác. Một trong những nhân tố quan trọng của toàn cầu hóa và thương mại hàng hải là khả năng duy tŕ việc tiếp cận tự do đến các tuyến đường biển và có được một khuôn khổ pháp lư để duy tŕ tự do hàng hải, đây là một quyền được nêu tại điều 58 của UNCLOS. Tuy nhiên, Trung Quốc đă công khai chỉ trích nguyên tắc pháp lư này và đă từ chối việc các tàu nước ngoài tiếp cận tới Vùng Đặc quyền Kinh tế của họ. Điều này bao gồm sự cố cắt cáp vào tháng 5 năm 2011 tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Phi-líp-pin và vụ đối đầu tháng 5 năm 2009 với tàu USNS Implacable, 75 dặm ngoài khơi bờ biển của Trung Quốc.
Tuy nhiêu, như rất nhiều yếu tố khác của luật pháp quốc tế, Hoa Kỳ cần phải thận trọng với những lời chỉ trích của chính nước này. Mặc dù Trung Quốc đă thông qua UNCLOS và do đó bị ràng buộc về mặt kỹ thuật để duy tŕ và thực thi UNCLOS, th́ Hoa Kỳ vẫn chưa thể kư kết công ước này. Như vậy, Trung Quốc coi lập luận của Mỹ dựa trên luật pháp quốc tế liên quan đến các yêu sách hàng hải của Trung Quốc là không hợp lí. Ngoài ra, nếu Trung Quốc tiếp tục không coi trọng UNCLOS, nước này có thể sử dụng một cách lư giải pháp lư tương tự để làm gián đoạn các tuyến đường biển giao thương quan trọng đối với không chỉ nền kinh tế Mỹ mà c̣n của rất nhiều các thị trường Đông Á khác, động lực cho việc duy tŕ sự thịnh vượng của Mỹ.
Để đối phó với các hành động của Trung Quốc, Hoa Kỳ cần phải tiến tới việc thành lập một tổ chức gồm các liên minh ngầm giữa các nước Đông Nam Á, cũng như tăng cường hợp tác để đương đầu với những đối thủ hung hăng trong-tương-lai tại khu vực. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ chuyển hướng các cấu trúc liên minh trước đây như với NATO hay như các liên minh đă được h́nh thành trước đây với Nhật, Úc và Hàn Quốc. Những cấu trúc như vậy tỏ ra không thực tế trong bối cảnh khu vực Đông Nam Á đang ngày càng phức tạp, cạnh tranh giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng cũng như những nguy cơ làm gián đoạn mối quan hệ Mỹ-Trung đang xuất hiện. Thay vào đó, Hoa Kỳ đă hỗ trợ các nỗ lực như hoạt động thường niên Hợp tác sẵn sàng và huấn luyện trên biển (CARAT) và Sáng kiến phổ biến an ninh (PSI). Trong khi đó, tổ chức ASEAN, hội nghị Bộ trưởng quốc pḥng ASEAN và Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương của Mỹ cũng đă góp phần vào việc h́nh thành hợp tác liên khu vực bất chấp sự nghi ngại lẫn nhau có thể có giữa các quốc gia thuộc các khu vực khác nhau.
Phần lớn công việc tập trung vào việc xây dựng các chiến thuật chống cướp biển cũng như các hoạt động t́m kiếm, cứu nạn, ứng phó thiên tai, không phổ biến vũ khí và chống buôn lậu. Thực ra, những vấn đề như vậy cũng là một trong những mối quan tâm của Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề cướp biển tại vịnh A-đen. Điều này, sau đó cũng có thể được sử dụng như một sự khởi đầu tích cực cho phía Trung Quốc và có thể giúp nước này tham gia vào các hoạt động như vậy. Sự tăng cường hợp tác trong một phạm vi hạn chế, sau đó có thể tạo nền tảng cho các giải pháp ngoại giao các cuộc khủng hoảng tiềm tàng, cũng như tạo điều kiện thận lợi cho sự giao thiệp cũng như hiểu nhau hơn giữa các nước. Sự tham gia tích cực như vậy, đặc biệt là sự tham gia của Trung Quốc, sẽ giúp Mỹ duy tŕ được mục tiêu hiện tại trong chính sách của nước này tại khu vực. Điều này sẽ cho phép Hoa Kỳ giải quyết các mối quan tâm an ninh pháp lư trong khu vực, trấn an các đồng minh về sự tiếp tục can dự của Mỹ cũng như làm yên ḷng Trung Quốc về các ư định của ḿnh.
Trong khi đó, Hoa Kỳ cần phải tránh việc quay trở lại với mô h́nh “tăng cường hiện diện” về việc đầu tư cũng như xây dựng các căn cứ quân sự. Việt Nam và Phi-líp-pin cần tránh việc đầu tư quá mức vào quân sự để làm dịu đi mối lo ngại của Trung Quốc trong khu vực và tránh việc tạo ra một lư do cho sự bành trướng của Trung Quốc. Hơn nữa, không có một chiến lược thực sự nào tồn tại dành cho việc thực hiện xây dựng lực lượng Hoa Kỳ. Cho dù đă có nhiều cuộc bàn thảo xung quanh khái niệm mới về Chiến tranh trên biển-trên không, th́ vẫn chưa tồn tại một chiến lược gắn kết nào cho việc thực hiện khái niệm này – một vấn đề được nêu lên bởi T.X.Hammes, một cựu sĩ quan thủy quân lục chiến và cũng là một nghiên cứu sinh tại Đại học Quốc pḥng quốc gia. Cùng với việc nêu bật những thiếu sót này, Hammes lập luận rằng Hoa Kỳ nên từ bỏ lập trường đe dọa và tập trung vào tăng cường các mối quan hệ trong khu vực, điều hoàn toàn manh tính pḥng thủ. Thay v́ đẩy mạnh phát triển các năng lực dùng cho mục đích đe dọa của ḿnh, Hoa Kỳ nên sử dụng các lợi thế địa lư của chuỗi đảo đầu tiên gồm Nhật, Đài Loan và Phi-líp-pin cũng như duy tŕ khả năng pḥng thủ ít đe dọa đến Trung Quốc.
Lập luận này hoàn toàn trái ngược so với những ǵ mà nhiều người Mỹ bảo vệ, cụ thể là duy tŕ lực lượng có sức tấn công mạnh mẽ trong khu vực, có khả năng tấn công các thiết bị quân sự chống tiếp cận và các cứ điểm quân sự trên đất liền của Trung Quốc trong trường hợp xung đột nổ ra. Dĩ nhiên là phương án thứ hai sẽ đ̣i hỏi nguồn lực đáng kể và sẽ ép buộc các nước đồng minh công khai phản đối Trung Quốc thông qua việc liên kết mạnh mẽ với Hoa Kỳ. Cách tiếp cận mang t́nh pḥng thủ sẽ không cần nhiều chi phí. Cách tiếp cận này sẽ tập trung vào việc hợp tác với các nước đồng minh hơn là ép họ phải đứng về phía chống lại Trung Quốc, và sẽ ít đe dọa hơn nhiều tới Trung Quốc.
Theo đó, Hoa Kỳ phải thận trọng không vượt ra ngoài ranh giới của các diễn đàn khu vực để tránh việc phải cô lập Trung Quốc. Hoa Kỳ cần phải nhận ra rằng nước này không thể đóng vai tṛ lănh đạo trong các nỗ lực như vậy và phải hợp tác với tất cả các quốc gia trong khu vực. Washington phải tập trung vào việc giúp đỡ các nước ASEAN và các nước khác cũng phải tự thiết lập hệ thống an ninh cho chính họ.
Nguồn: Foreign Policy in Focus/ NCBD