vuitoichat
07-10-2012, 11:42
Trương Nhân Tuấn - Trong một bài viết trước đây liên quan đến chiến lược biển Đông và chủ quyền của VN ở các quần đảo HS và TS, tác giả có nêu vấn đề về tính liên tục quốc gia và sự kế thừa giữa các chính phủ và hai miền VN sau 1975. Những ư kiến đó hôm nay được bàn rộng thêm.
Trước hết là quan niệm quốc gia (và nhà nước) theo công pháp quốc tế. Với quan niệm quốc gia này, từ năm 1945 đến nay hiện hữu bao nhiêu quốc gia Việt Nam ? Quốc gia nào đại diện nước Việt Nam duy nhứt trước các định chế quốc tế ? Tính liên tục và kế thừa về lănh thổ giữa các quốc gia này từ các biến cố 1954, hay năm 1975 đến nay đă được thực hiện như thế nào ? Trường hợp đặc biệt, do các tuyên bố và những hành vi mặc nhiên công nhận của nhà nước VNDCCH trong các thập niên 50, 60 và 70 về chủ quyền của TQ ở hai quần đảo HS và TS, các tuyên bố này có giá trị ràng buộc cho nước VN thống nhứt hay không ?
Bài viết này lần lượt tŕnh bày sơ lược quan điểm của tác giả về các vấn đề này.
1. Quốc gia và các nguyên tắc về công pháp quốc tế:
Trước hết nên hiểu thế nào về thuật ngữ « quốc gia » theo quan niệm Công pháp quốc tế.
« Quốc gia – l’Etat » được cấu thành do ba yếu tố : người dân, lănh thổ và một chính phủ. Yếu tố người dân đặt vấn đề về « quốc tịch – nationalité ». Yếu tố « lănh thổ » đặt vấn đề « chủ quyền – souveraineté », đưa đến việc phân định biên giới (trên đất liền và trên biển) giữa các quốc gia láng giềng. Yếu tố « chính phủ – gouvernement », tức một tổ chức chính trị có khả năng tổ chức hành chính và thiết lập trật tự và an ninh xă hội cho cộng đồng dân chúng trong quốc gia đó. Yếu tố Chính phủ đặt ra vấn đề « độc lập ». Tức chính phủ này không bị lệ thuộc vào một thế lực nước ngoài.
Công pháp quốc tế hiện nay c̣n đặt ra tiêu chí xứng đáng về một nhà nước (chính phủ), tức « tư cách – dignité », để có thể công nhận hay không một chính phủ. Một nhà nước « xứng đáng » được đánh giá trên việc có đem lại an ninh và hạnh phúc cho người dân trong nước hay không. Một nhà nước hung tàn, bạo ngược, như nhà nước cộng sản Khmer (Khmer đỏ), nhà nước cộng sản bắc Triều Tiên, nhà nước cộng sản Việt Nam sau 75 (cho đến thập niên 90), Irak dưới thời Sadam Hussein, Serbie dưới thời Milosevic, Lybye dưới thời Khadafi hay Iran và Syrie hiện nay v.v… là các nhà nước không « xứng đáng », thường bị cộng đồng quốc tế (ONU) « lên án », hay cắt đứt ngoại giao, thậm chí c̣n có bổn phận can thiệp để chấm dứt sự đau khổ của người dân ở các nước này.
Trong quan hệ quốc tế, việc công nhận một quốc gia là hành vi theo đó một quốc gia thiết lập bang giao với một quốc gia khác. Việc công nhận quốc gia là chấp nhận các yếu tố đặc thù về công dân, lănh thổ và chính phủ của quốc gia đó. Giả sử, khi nước Pháp công nhận nhà cầm quyền Bắc Kinh là chính thống lănh đạo nước TQ th́ Pháp mặc nhiên công nhận một nước Trung Hoa duy nhứt (tức công nhận Bắc Kinh th́ không công nhận Đài Bắc) và Tây Tạng là lănh thổ của TQ.
Việc công nhận quốc gia là quan trọng v́ nó xác định sự hiện hữu của một quốc gia trên sân khấu quốc tế. Thủ tục công nhận thể hiện qua các việc trao đổi lănh sự, kư kết các hiệp ước, hay bằng một tuyên bố đơn phương giữa các quốc gia. Việc công nhận có thể mang tính pháp lư « de jure », tức công nhận quốc gia như là chủ thể duy nhất, b́nh đẳng về độc lập và chủ quyền trước Công pháp quốc tế. Hoặc « de facto », tức một h́nh thức công nhận tạm thời cho những quốc gia đang thành h́nh.
Về nguyên tắc một quốc gia duy nhứt, đại diện quốc gia ở các định chế quốc tế là duy nhứt. Trường hợp một quốc gia bị phân chia, tức có hai vùng lănh thổ khác biệt, có hai nhóm dân chúng khác biệt (mặc dầu có cùng quốc tịch), do hai chính phủ khác biệt lănh đạo, th́ chỉ có một vùng duy nhứt đại diện cho quốc gia ở các định chế quốc tế. Trường hợp hai miền Nam, Bắc Việt Nam trước 1975, Quốc Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Ḥa được các định chế quốc tế chấp thuận là đại diện chính thức và duy nhứt cho quốc gia Việt Nam.
Trường hợp quốc gia bị chia cắt (có hai vùng lănh thổ với hai chính phủ riêng biệt), một nước công nhận chính phủ này th́ đương nhiên không công nhận chính phủ kia (và ngược lại). Giả sử, Hoa Kỳ (và nhiều nước khác) trước kia công nhận chính phủ họ Tưởng ở Đài Loan và không công nhận chính phủ ở Bắc Kinh, hay công nhận VNCH và không công nhận VNDCCH.
Đối với LHQ, mỗi quốc gia chỉ có một ghế đại diện. Trường hợp quốc gia chia cắt, đại diện của quốc gia là phía được số phiếu bầu nhiều nhất tại đại hội đồng LHQ, ngoại trừ trường hợp bị các thành viên thường trực trong hội đồng an ninh « phủ quyết – veto ». Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan giữ ghế đại diện cho Trung Hoa ở LHQ đến năm 1972 th́ bị đại hội đồng truất phế, thay vào đó là chính phủ ở Bắc Kinh, do việc HK không bỏ phiếu phủ quyết. Hai miền Nam và Bắc VN không bên nào có được ghế ở LHQ, do vấn đề chính trị ư thức hệ, mỗi khối ủng hộ một bên. Năm 1957 Liên Xô đề nghị hai miền Nam, Bắc VN đều được chấp nhận vào LHQ, nhưng việc này không được các bên chấp thuận (v́ các bên đều giữ nguyên tắc quốc gia duy nhất).
Trường hợp quốc gia có thay đổi chính thể do biến động chính trị (do đảo chánh, cách mạng …), hay một quốc gia mới được khai sinh (do thống nhất hai quốc gia hay hai vùng lănh thổ, quốc gia ly khai…) việc kế thừa quốc gia sẽ đặt ra nhằm tái xác định, hay phủ định, hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố đơn phương của nhà nước (hay quốc gia) tiền nhiệm đă thể hiện đối với các nước khác.
Một nội các (chính phủ hay nhà nước) có thể được một chính phủ của một nước khác công nhận (hay không công nhận) trong trường hợp nước đó có biến động ảnh hưởng nội t́nh chính trị (nội các thay đổi do đảo chánh, thay đổi chính thể do cách mạng v.v…).
2. Các quốc gia Việt Nam – sự liên tục và kế thừa
2.1 Quốc Gia Việt Nam (12-3-1945 – 25-8-1945) của Quốc vương Bảo Đại :
Ngày 10 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm Đông Dương. Nhân dịp này ông Yokoyama, xưng là đại sứ Nhật, tiếp xúc với ông Bảo Đại, đề nghị trả lại độc lập cho VN. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Bảo Đại tuyên bố độc lập, nội dung đại khái gồm các điểm : « băi bỏ hiệp ước bảo hộ đă kư với Pháp », « thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia » và « theo đường hướng của bản Tuyên ngôn chung của khối Đại Đông Á »… Ngày 17-4-1945, theo ư muốn của Bảo Đại, cụ Trần Trọng Kim thành lập chính phủ.
Dĩ nhiên, thái độ của Nhật không phải là tốt đẹp ǵ. Nếu họ có hảo ư th́ họ đă trả độc lập cho VN từ lúc mới vào VN tháng 8 năm 1940, chứ không phải đợi đến lúc sắp sụp đổ mới làm. Hành động trễ tràng này cho thấy đây là cố gắng cuối cùng của Nhật trước khi thất bại trước quân Đồng Minh. Họ nghĩ rằng, khi lôi kéo được các quốc gia này vào khối Đại Đông Á, Nhật hy vọng xây dựng lại thế lực, nhờ vào lực lượng của các nước mới được độc lập, nhằm củng cố lại quân đội đang trên đà tan ră. Nhưng chỉ vài tháng sau, ngày 16 tháng 8, Nhật Hoàng đọc lệnh cho binh sĩ buông súng đầu hàng.
Hậu quả, ngày 25 tháng 8 Bảo Đại giao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Ủy ban giải phóng, tuyên bố thoái vị. Quốc gia gọi là « Quốc gia Việt Nam » v́ vậy cũng kết thúc.
Về t́nh trạng pháp lư, Quốc gia Việt Nam chỉ hiện hữu vỏn vẹn 5 tháng, từ 12-3-1945 đến 16-8-1945. Đây có phải là một thực thể « quốc gia » đúng nghĩa theo Công pháp quốc tế hay không ?
Khi Nhật đặt chân đến VN trong Thế chiến II, tháng 8 năm 1940, có kư kết với Pháp vẫn để cho Pháp có chủ quyền tại Đông Dương, ngoại trừ phương diện quân sự. Kết ước này không được tôn trọng. Tháng 3 năm 1945 Nhật truất quyền của Pháp ở VN và nắm toàn quyền lănh đạo. VN được đặt trong khối « Đại Đông Á » của Nhật. Việc Nhật trả độc lập cho VN và sau đó Tuyên bố độc lập của Bảo Đại có giá trị trước công pháp quốc tế. V́ ở thời điểm đó Nhật đă giành chủ quyền VN từ tay Pháp (và trả lại cho Bảo Đại). Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ « xứng đáng » so với tiêu chí của Công pháp quốc tế hiện nay. Chỉ trong một thời gian ngắn chính phủ này đă tổ chức hành chánh, thiết lập an ninh trật tự trong xă hội đồng thời thực hiện các công tác cứu trợ cần thiết cho người dân v́ VN đang trong thời chiến tranh, chịu sự dội bom, đánh phá của Đồng minh, trong t́nh trạng thiếu thốn về mọi mặt.
Tuy nhiên, vài tháng sau Nhật đầu hàng. Độc lập và chủ quyền của Việt Nam mà Bảo Đại tuyên bố chưa kịp nước nào công nhận.
(Bảo Đại thoái vị, nhượng quyền cho « Chính phủ cách mạng » của Hồ Chí Minh, có thể do ám ảnh hành động của thủ tướng Thái Plaek Phibulsongkhram. Ông này từ chức, nhường quyền lại cho ông Pridi Phanomyong, nguyên là một giáo sư Luật, là người có khuynh hướng thân Mỹ, chống lại việc hợp tác với Nhật, do lo ngại việc Thái sẽ bị đặt dưới sự bảo hộ của Đồng minh v́ nước này đứng về phía Nhật trong thời chiến tranh. Nhưng việc thoái vị này có thể do uy hiếp của nhóm Hồ Chí Minh).
Hành động thoái vị của Bảo Đại cho thấy là sai lầm. Lư ra chính phủ Trần Trọng Kim trụ được cho đến khi Đồng Minh gởi quân vào tước vũ khí của Nhật, v́ trên nguyên tắc, lực lượng quân đội Nhật có bổn phận giữ an ninh trật tự trong xă hội cho đến khi quân Đồng minh vào giải giới. Số phận của VN, cũng như các nước bị Nhật chiếm trong chiến tranh, đă được các nước Đồng minh định đoạt trước ở hội nghị Potsdam 1945.
Tranh chấp đảng phái ở VN sau đó là tranh chấp để dành làm đại diện cho VN để đối thoại với Đồng minh.
2.2 Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa của Chính phủ lâm thời (Mặt trận Việt Minh, từ 2-9-1945 đến tháng 12 năm 1946) :
Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh 16-8-1945, ở VN đă có một khoảng trống chính trị v́ chính phủ Trần Trọng Kim không có thực lực. Việc này có thể do hệ quả của việc không dám dựa vào quân đội Nhật (vẫn c̣n trách nhiệm giữ an ninh trật tự tại VN cho đến khi Đồng minh vào giải giới), v́ sợ kết vào tội làm « bù nh́n » cho Nhật. Trong khi các lực lượng « lưu vong » như Việt Minh của Hồ Chí Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội của Nguyễn Hải Thần, Đại Việt của Nguyễn Tường Tam… đều nhôn nhao về nước t́m cách nắm chính quyền. Trong đó ông Hồ Chí Minh tỏ ra nắm vững t́nh h́nh quốc tế và cao tay về chính trị hơn cả.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh làm « cách mạng », một chính phủ « lâm thời » được Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội. Việc này chỉ xảy ra vài ngày trước khi quân Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch vào Bắc Kỳ, (theo qui định của các nước Đồng minh ở Hội nghị Potsdam). Quân Tưởng gồm hai đạo, vào VN từ hai ngả : từ Quảng Tây vào Lạng Sơn do Tiêu Văn cầm đầu và từ Vân Nam vào Lào Cai do Lư Hán cầm đầu, tổng cộng khoảng 180.000 quân. Hai đạo quân này đi tới đâu th́ tước khí giới của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền quyền cho quân của các đảng phái khác (VNQDD, DV, VNCMDMH) thân Tàu. Hồ Chí Minh lo bị mất quyền, v́ thế, từ Hà Nội, ông hô hào tổ chức « tuần lễ vàng », nhằm quyên góp vàng bạc trong dân để có phương tiện đút lót cho các tướng Tiêu Văn và Lư Hán để giữ quyền hành. Nhờ hành vi « lo lót » này, các vị tướng Tàu ngả về ủng hộ Hồ Chí Minh, làm áp lực lên các đảng phái khác (vốn rất chia rẽ, một phe theo Tiêu Văn, một phe theo Lư Hán), ép thành lập « Chính phủ Liên hiệp Lâm thời » ngày 25 tháng 12 năm 1945. Chính phủ này gồm có đại diện của các phe phái tại VN. Quốc hội cũng được tổ chức qua cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Ngày 2 tháng 3, Quốc hội nhóm họp, tuyên bố « Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến » thành h́nh, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.
Hồ Chí Minh cũng nắm bắt được tin Pháp đang vận động với Tưởng Giới Thạch, trao đổi quyền lợi giữa Pháp và Trung Hoa, để quân Pháp vào thay thế quân Hoa ở miền Bắc (thực ra ở bắc vĩ tuyến 16), theo như qui định của Đồng minh tại hội nghị Potsdam. Trong khi đó, Anh cũng trao quyền cho Pháp ở miền Nam (nam vĩ tuyến 16). Ông Hồ « đón gió » chính trị trước việc này, t́m cách kư kết với Pháp một kết ước, mục đích dĩ nhiên là để được xem là đại diện chính thức của VN. Ngày 28-2-1946 Pháp và Trung Hoa kư kết ước Trùng Khánh th́ ngày 6 tháng 3 ông Hồ cũng kư với Pháp một hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ». Theo đó Pháp công nhận VN là một nước « tự do » nằm trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp.
Quốc gia Việt Nam từ thời điểm 2-9-1945 đến khi « hiệp ước sơ bộ » được kư có phải là một quốc gia thực sự ?
Sau khi được Bảo Đại giao ấn và kiếm, biểu tượng uy quyền của vua đối với thần dân trên lănh thổ Đại Nam, lư ra « chính phủ lâm thời » có tính chính đáng để khai sinh một nước Việt Nam độc lập. Tuy vậy việc này không có giá trị đối với công pháp quốc tế, một mặt do chưa ổn định nội an th́ quân Tàu đă kéo qua, mặt khác do hệ quả của « hiệp ước sơ bộ ».
Khi kư hiệp ước sơ bộ, chính phủ của ông Hồ được Pháp công nhận tư cách đại diện một « quốc gia », giới hạn ở Bắc kỳ (đúng ra phía bắc vĩ tuyến 16). Quốc gia đó là quốc gia « Việt Nam tự do – Vietnam libre », đứng trong « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ».
Vấn đề phải hiểu thế nào là nước « Việt Nam tự do » đứng trong « Liên bang Đông dương » ?
Từ ḥa ước Patenôtre 1884 đến tháng 3 năm 1945, toàn Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào và Cao Miên) thuộc Pháp. Để dễ bề cai trị, Pháp đặt nền hành chánh thuộc địa tại Việt Nam theo lối « chia để trị ». VN bị phân chia thành ba miền (c̣n gọi là ba kỳ) riêng biệt. Ba Kỳ cùng Lào, Kampuchia và Quảng Châu Loan (nhượng địa của TQ) được Pháp đặt trong « Liên bang Đông dương – Union Indochinoise », c̣n gọi là Đông Dương thuộc Pháp hay Đông Pháp. Liên Bang Đông Dương ra đời ngày 17-10-1887, do một Toàn quyền (sau này là Cao ủy) được Pháp bổ nhiệm lănh đạo. Các « xứ » (tiểu bang) hay các « kỳ » của VN trong Liên bang có t́nh trạng pháp lư khác nhau. Nam kỳ có qui chế thuộc địa, dân chúng ở đây có chế độ « thuộc dân – sujets français », trực thuộc Bộ Thuộc địa Pháp, do một Tổng đốc (gouverneur) lănh đạo. Trong khi Trung kỳ và Bắc kỳ (cũng như Lào và Kampuchia) có t́nh trạng pháp lư là các xứ « bảo hộ », trực thuộc Bộ Ngoại Giao. Dân chúng ở các xứ này có qui chế «dân bảo hộ Pháp – protégés français », là qui chế thấp nhứt (1/ công dân Pháp – citoyens français, 2/ thuộc dân Pháp – sujets français và 3/ dân bảo hộ Pháp – protégés français).
Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam độc lập mà chỉ nói một nước « Việt Nam tự do » thuộc « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ». Tức ông Hồ chấp nhận « quốc gia » Việt Nam, thực ra là « tiểu bang » hay « xứ », do chính phủ ông lănh đạo, nằm trong Liên bang Đông Dương, có qui chế pháp lư tương đương với xứ Bắc Kỳ, mà quyền hành của ông c̣n dưới quyền của Thống sứ Pháp.
Các đảng phái quốc gia lên án ông Hồ việc này là rước Pháp vào lại VN. Nhưng thực ra, có hay không có « hiệp ước sơ bộ » th́ Pháp cũng vào lại VN. Cũng như có hay không có các chính phủ của Bảo Đại hay của ông Hồ th́ quân Trung Hoa cũng vào Bắc Kỳ. Việc này là do qui định của phe chiến thắng, tức các nước Đồng minh. Khi Pháp và TH kư kết ước trao đổi quyền lợi, Pháp trả các nhượng địa cùng các cơ sở kinh tế của Pháp tại đất TH cho họ Tưởng th́ phe này cũng trả lại VN cho Pháp. Chính trị gọi là « đón gió » của ông Hồ, v́ ông hiểu biết t́nh h́nh quốc tế, biết được định đoạt của Đồng minh về số phận các quốc gia do Nhật chiếm trước chiến tranh, v́ thế xông xáo kư kết ước với Pháp. Nhưng việc này cũng kết liễu tính chính thống của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, đồng thời hành động này làm cho các đảng viên trong đảng CSVN nghi ngại lập trường của ông Hồ. Vi việc này mà sau này ông Hồ trở nên rất sắc máu, đúng tiêu chuẩn của một cán bộ quốc tế vô sản, để chứng minh lập trường của ḿnh. Nhưng dầu vậy ông Hồ cũng không được phía cộng sản Nga tin tưởng. Họ nghi ngờ ông Hồ là « cơ hội chủ nghĩa » cho đến khi ông này qua đời năm 1969.
Trước hết là quan niệm quốc gia (và nhà nước) theo công pháp quốc tế. Với quan niệm quốc gia này, từ năm 1945 đến nay hiện hữu bao nhiêu quốc gia Việt Nam ? Quốc gia nào đại diện nước Việt Nam duy nhứt trước các định chế quốc tế ? Tính liên tục và kế thừa về lănh thổ giữa các quốc gia này từ các biến cố 1954, hay năm 1975 đến nay đă được thực hiện như thế nào ? Trường hợp đặc biệt, do các tuyên bố và những hành vi mặc nhiên công nhận của nhà nước VNDCCH trong các thập niên 50, 60 và 70 về chủ quyền của TQ ở hai quần đảo HS và TS, các tuyên bố này có giá trị ràng buộc cho nước VN thống nhứt hay không ?
Bài viết này lần lượt tŕnh bày sơ lược quan điểm của tác giả về các vấn đề này.
1. Quốc gia và các nguyên tắc về công pháp quốc tế:
Trước hết nên hiểu thế nào về thuật ngữ « quốc gia » theo quan niệm Công pháp quốc tế.
« Quốc gia – l’Etat » được cấu thành do ba yếu tố : người dân, lănh thổ và một chính phủ. Yếu tố người dân đặt vấn đề về « quốc tịch – nationalité ». Yếu tố « lănh thổ » đặt vấn đề « chủ quyền – souveraineté », đưa đến việc phân định biên giới (trên đất liền và trên biển) giữa các quốc gia láng giềng. Yếu tố « chính phủ – gouvernement », tức một tổ chức chính trị có khả năng tổ chức hành chính và thiết lập trật tự và an ninh xă hội cho cộng đồng dân chúng trong quốc gia đó. Yếu tố Chính phủ đặt ra vấn đề « độc lập ». Tức chính phủ này không bị lệ thuộc vào một thế lực nước ngoài.
Công pháp quốc tế hiện nay c̣n đặt ra tiêu chí xứng đáng về một nhà nước (chính phủ), tức « tư cách – dignité », để có thể công nhận hay không một chính phủ. Một nhà nước « xứng đáng » được đánh giá trên việc có đem lại an ninh và hạnh phúc cho người dân trong nước hay không. Một nhà nước hung tàn, bạo ngược, như nhà nước cộng sản Khmer (Khmer đỏ), nhà nước cộng sản bắc Triều Tiên, nhà nước cộng sản Việt Nam sau 75 (cho đến thập niên 90), Irak dưới thời Sadam Hussein, Serbie dưới thời Milosevic, Lybye dưới thời Khadafi hay Iran và Syrie hiện nay v.v… là các nhà nước không « xứng đáng », thường bị cộng đồng quốc tế (ONU) « lên án », hay cắt đứt ngoại giao, thậm chí c̣n có bổn phận can thiệp để chấm dứt sự đau khổ của người dân ở các nước này.
Trong quan hệ quốc tế, việc công nhận một quốc gia là hành vi theo đó một quốc gia thiết lập bang giao với một quốc gia khác. Việc công nhận quốc gia là chấp nhận các yếu tố đặc thù về công dân, lănh thổ và chính phủ của quốc gia đó. Giả sử, khi nước Pháp công nhận nhà cầm quyền Bắc Kinh là chính thống lănh đạo nước TQ th́ Pháp mặc nhiên công nhận một nước Trung Hoa duy nhứt (tức công nhận Bắc Kinh th́ không công nhận Đài Bắc) và Tây Tạng là lănh thổ của TQ.
Việc công nhận quốc gia là quan trọng v́ nó xác định sự hiện hữu của một quốc gia trên sân khấu quốc tế. Thủ tục công nhận thể hiện qua các việc trao đổi lănh sự, kư kết các hiệp ước, hay bằng một tuyên bố đơn phương giữa các quốc gia. Việc công nhận có thể mang tính pháp lư « de jure », tức công nhận quốc gia như là chủ thể duy nhất, b́nh đẳng về độc lập và chủ quyền trước Công pháp quốc tế. Hoặc « de facto », tức một h́nh thức công nhận tạm thời cho những quốc gia đang thành h́nh.
Về nguyên tắc một quốc gia duy nhứt, đại diện quốc gia ở các định chế quốc tế là duy nhứt. Trường hợp một quốc gia bị phân chia, tức có hai vùng lănh thổ khác biệt, có hai nhóm dân chúng khác biệt (mặc dầu có cùng quốc tịch), do hai chính phủ khác biệt lănh đạo, th́ chỉ có một vùng duy nhứt đại diện cho quốc gia ở các định chế quốc tế. Trường hợp hai miền Nam, Bắc Việt Nam trước 1975, Quốc Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Ḥa được các định chế quốc tế chấp thuận là đại diện chính thức và duy nhứt cho quốc gia Việt Nam.
Trường hợp quốc gia bị chia cắt (có hai vùng lănh thổ với hai chính phủ riêng biệt), một nước công nhận chính phủ này th́ đương nhiên không công nhận chính phủ kia (và ngược lại). Giả sử, Hoa Kỳ (và nhiều nước khác) trước kia công nhận chính phủ họ Tưởng ở Đài Loan và không công nhận chính phủ ở Bắc Kinh, hay công nhận VNCH và không công nhận VNDCCH.
Đối với LHQ, mỗi quốc gia chỉ có một ghế đại diện. Trường hợp quốc gia chia cắt, đại diện của quốc gia là phía được số phiếu bầu nhiều nhất tại đại hội đồng LHQ, ngoại trừ trường hợp bị các thành viên thường trực trong hội đồng an ninh « phủ quyết – veto ». Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan giữ ghế đại diện cho Trung Hoa ở LHQ đến năm 1972 th́ bị đại hội đồng truất phế, thay vào đó là chính phủ ở Bắc Kinh, do việc HK không bỏ phiếu phủ quyết. Hai miền Nam và Bắc VN không bên nào có được ghế ở LHQ, do vấn đề chính trị ư thức hệ, mỗi khối ủng hộ một bên. Năm 1957 Liên Xô đề nghị hai miền Nam, Bắc VN đều được chấp nhận vào LHQ, nhưng việc này không được các bên chấp thuận (v́ các bên đều giữ nguyên tắc quốc gia duy nhất).
Trường hợp quốc gia có thay đổi chính thể do biến động chính trị (do đảo chánh, cách mạng …), hay một quốc gia mới được khai sinh (do thống nhất hai quốc gia hay hai vùng lănh thổ, quốc gia ly khai…) việc kế thừa quốc gia sẽ đặt ra nhằm tái xác định, hay phủ định, hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố đơn phương của nhà nước (hay quốc gia) tiền nhiệm đă thể hiện đối với các nước khác.
Một nội các (chính phủ hay nhà nước) có thể được một chính phủ của một nước khác công nhận (hay không công nhận) trong trường hợp nước đó có biến động ảnh hưởng nội t́nh chính trị (nội các thay đổi do đảo chánh, thay đổi chính thể do cách mạng v.v…).
2. Các quốc gia Việt Nam – sự liên tục và kế thừa
2.1 Quốc Gia Việt Nam (12-3-1945 – 25-8-1945) của Quốc vương Bảo Đại :
Ngày 10 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm Đông Dương. Nhân dịp này ông Yokoyama, xưng là đại sứ Nhật, tiếp xúc với ông Bảo Đại, đề nghị trả lại độc lập cho VN. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Bảo Đại tuyên bố độc lập, nội dung đại khái gồm các điểm : « băi bỏ hiệp ước bảo hộ đă kư với Pháp », « thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia » và « theo đường hướng của bản Tuyên ngôn chung của khối Đại Đông Á »… Ngày 17-4-1945, theo ư muốn của Bảo Đại, cụ Trần Trọng Kim thành lập chính phủ.
Dĩ nhiên, thái độ của Nhật không phải là tốt đẹp ǵ. Nếu họ có hảo ư th́ họ đă trả độc lập cho VN từ lúc mới vào VN tháng 8 năm 1940, chứ không phải đợi đến lúc sắp sụp đổ mới làm. Hành động trễ tràng này cho thấy đây là cố gắng cuối cùng của Nhật trước khi thất bại trước quân Đồng Minh. Họ nghĩ rằng, khi lôi kéo được các quốc gia này vào khối Đại Đông Á, Nhật hy vọng xây dựng lại thế lực, nhờ vào lực lượng của các nước mới được độc lập, nhằm củng cố lại quân đội đang trên đà tan ră. Nhưng chỉ vài tháng sau, ngày 16 tháng 8, Nhật Hoàng đọc lệnh cho binh sĩ buông súng đầu hàng.
Hậu quả, ngày 25 tháng 8 Bảo Đại giao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Ủy ban giải phóng, tuyên bố thoái vị. Quốc gia gọi là « Quốc gia Việt Nam » v́ vậy cũng kết thúc.
Về t́nh trạng pháp lư, Quốc gia Việt Nam chỉ hiện hữu vỏn vẹn 5 tháng, từ 12-3-1945 đến 16-8-1945. Đây có phải là một thực thể « quốc gia » đúng nghĩa theo Công pháp quốc tế hay không ?
Khi Nhật đặt chân đến VN trong Thế chiến II, tháng 8 năm 1940, có kư kết với Pháp vẫn để cho Pháp có chủ quyền tại Đông Dương, ngoại trừ phương diện quân sự. Kết ước này không được tôn trọng. Tháng 3 năm 1945 Nhật truất quyền của Pháp ở VN và nắm toàn quyền lănh đạo. VN được đặt trong khối « Đại Đông Á » của Nhật. Việc Nhật trả độc lập cho VN và sau đó Tuyên bố độc lập của Bảo Đại có giá trị trước công pháp quốc tế. V́ ở thời điểm đó Nhật đă giành chủ quyền VN từ tay Pháp (và trả lại cho Bảo Đại). Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ « xứng đáng » so với tiêu chí của Công pháp quốc tế hiện nay. Chỉ trong một thời gian ngắn chính phủ này đă tổ chức hành chánh, thiết lập an ninh trật tự trong xă hội đồng thời thực hiện các công tác cứu trợ cần thiết cho người dân v́ VN đang trong thời chiến tranh, chịu sự dội bom, đánh phá của Đồng minh, trong t́nh trạng thiếu thốn về mọi mặt.
Tuy nhiên, vài tháng sau Nhật đầu hàng. Độc lập và chủ quyền của Việt Nam mà Bảo Đại tuyên bố chưa kịp nước nào công nhận.
(Bảo Đại thoái vị, nhượng quyền cho « Chính phủ cách mạng » của Hồ Chí Minh, có thể do ám ảnh hành động của thủ tướng Thái Plaek Phibulsongkhram. Ông này từ chức, nhường quyền lại cho ông Pridi Phanomyong, nguyên là một giáo sư Luật, là người có khuynh hướng thân Mỹ, chống lại việc hợp tác với Nhật, do lo ngại việc Thái sẽ bị đặt dưới sự bảo hộ của Đồng minh v́ nước này đứng về phía Nhật trong thời chiến tranh. Nhưng việc thoái vị này có thể do uy hiếp của nhóm Hồ Chí Minh).
Hành động thoái vị của Bảo Đại cho thấy là sai lầm. Lư ra chính phủ Trần Trọng Kim trụ được cho đến khi Đồng Minh gởi quân vào tước vũ khí của Nhật, v́ trên nguyên tắc, lực lượng quân đội Nhật có bổn phận giữ an ninh trật tự trong xă hội cho đến khi quân Đồng minh vào giải giới. Số phận của VN, cũng như các nước bị Nhật chiếm trong chiến tranh, đă được các nước Đồng minh định đoạt trước ở hội nghị Potsdam 1945.
Tranh chấp đảng phái ở VN sau đó là tranh chấp để dành làm đại diện cho VN để đối thoại với Đồng minh.
2.2 Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa của Chính phủ lâm thời (Mặt trận Việt Minh, từ 2-9-1945 đến tháng 12 năm 1946) :
Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh 16-8-1945, ở VN đă có một khoảng trống chính trị v́ chính phủ Trần Trọng Kim không có thực lực. Việc này có thể do hệ quả của việc không dám dựa vào quân đội Nhật (vẫn c̣n trách nhiệm giữ an ninh trật tự tại VN cho đến khi Đồng minh vào giải giới), v́ sợ kết vào tội làm « bù nh́n » cho Nhật. Trong khi các lực lượng « lưu vong » như Việt Minh của Hồ Chí Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội của Nguyễn Hải Thần, Đại Việt của Nguyễn Tường Tam… đều nhôn nhao về nước t́m cách nắm chính quyền. Trong đó ông Hồ Chí Minh tỏ ra nắm vững t́nh h́nh quốc tế và cao tay về chính trị hơn cả.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh làm « cách mạng », một chính phủ « lâm thời » được Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội. Việc này chỉ xảy ra vài ngày trước khi quân Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch vào Bắc Kỳ, (theo qui định của các nước Đồng minh ở Hội nghị Potsdam). Quân Tưởng gồm hai đạo, vào VN từ hai ngả : từ Quảng Tây vào Lạng Sơn do Tiêu Văn cầm đầu và từ Vân Nam vào Lào Cai do Lư Hán cầm đầu, tổng cộng khoảng 180.000 quân. Hai đạo quân này đi tới đâu th́ tước khí giới của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền quyền cho quân của các đảng phái khác (VNQDD, DV, VNCMDMH) thân Tàu. Hồ Chí Minh lo bị mất quyền, v́ thế, từ Hà Nội, ông hô hào tổ chức « tuần lễ vàng », nhằm quyên góp vàng bạc trong dân để có phương tiện đút lót cho các tướng Tiêu Văn và Lư Hán để giữ quyền hành. Nhờ hành vi « lo lót » này, các vị tướng Tàu ngả về ủng hộ Hồ Chí Minh, làm áp lực lên các đảng phái khác (vốn rất chia rẽ, một phe theo Tiêu Văn, một phe theo Lư Hán), ép thành lập « Chính phủ Liên hiệp Lâm thời » ngày 25 tháng 12 năm 1945. Chính phủ này gồm có đại diện của các phe phái tại VN. Quốc hội cũng được tổ chức qua cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Ngày 2 tháng 3, Quốc hội nhóm họp, tuyên bố « Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến » thành h́nh, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.
Hồ Chí Minh cũng nắm bắt được tin Pháp đang vận động với Tưởng Giới Thạch, trao đổi quyền lợi giữa Pháp và Trung Hoa, để quân Pháp vào thay thế quân Hoa ở miền Bắc (thực ra ở bắc vĩ tuyến 16), theo như qui định của Đồng minh tại hội nghị Potsdam. Trong khi đó, Anh cũng trao quyền cho Pháp ở miền Nam (nam vĩ tuyến 16). Ông Hồ « đón gió » chính trị trước việc này, t́m cách kư kết với Pháp một kết ước, mục đích dĩ nhiên là để được xem là đại diện chính thức của VN. Ngày 28-2-1946 Pháp và Trung Hoa kư kết ước Trùng Khánh th́ ngày 6 tháng 3 ông Hồ cũng kư với Pháp một hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ». Theo đó Pháp công nhận VN là một nước « tự do » nằm trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp.
Quốc gia Việt Nam từ thời điểm 2-9-1945 đến khi « hiệp ước sơ bộ » được kư có phải là một quốc gia thực sự ?
Sau khi được Bảo Đại giao ấn và kiếm, biểu tượng uy quyền của vua đối với thần dân trên lănh thổ Đại Nam, lư ra « chính phủ lâm thời » có tính chính đáng để khai sinh một nước Việt Nam độc lập. Tuy vậy việc này không có giá trị đối với công pháp quốc tế, một mặt do chưa ổn định nội an th́ quân Tàu đă kéo qua, mặt khác do hệ quả của « hiệp ước sơ bộ ».
Khi kư hiệp ước sơ bộ, chính phủ của ông Hồ được Pháp công nhận tư cách đại diện một « quốc gia », giới hạn ở Bắc kỳ (đúng ra phía bắc vĩ tuyến 16). Quốc gia đó là quốc gia « Việt Nam tự do – Vietnam libre », đứng trong « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ».
Vấn đề phải hiểu thế nào là nước « Việt Nam tự do » đứng trong « Liên bang Đông dương » ?
Từ ḥa ước Patenôtre 1884 đến tháng 3 năm 1945, toàn Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào và Cao Miên) thuộc Pháp. Để dễ bề cai trị, Pháp đặt nền hành chánh thuộc địa tại Việt Nam theo lối « chia để trị ». VN bị phân chia thành ba miền (c̣n gọi là ba kỳ) riêng biệt. Ba Kỳ cùng Lào, Kampuchia và Quảng Châu Loan (nhượng địa của TQ) được Pháp đặt trong « Liên bang Đông dương – Union Indochinoise », c̣n gọi là Đông Dương thuộc Pháp hay Đông Pháp. Liên Bang Đông Dương ra đời ngày 17-10-1887, do một Toàn quyền (sau này là Cao ủy) được Pháp bổ nhiệm lănh đạo. Các « xứ » (tiểu bang) hay các « kỳ » của VN trong Liên bang có t́nh trạng pháp lư khác nhau. Nam kỳ có qui chế thuộc địa, dân chúng ở đây có chế độ « thuộc dân – sujets français », trực thuộc Bộ Thuộc địa Pháp, do một Tổng đốc (gouverneur) lănh đạo. Trong khi Trung kỳ và Bắc kỳ (cũng như Lào và Kampuchia) có t́nh trạng pháp lư là các xứ « bảo hộ », trực thuộc Bộ Ngoại Giao. Dân chúng ở các xứ này có qui chế «dân bảo hộ Pháp – protégés français », là qui chế thấp nhứt (1/ công dân Pháp – citoyens français, 2/ thuộc dân Pháp – sujets français và 3/ dân bảo hộ Pháp – protégés français).
Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam độc lập mà chỉ nói một nước « Việt Nam tự do » thuộc « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ». Tức ông Hồ chấp nhận « quốc gia » Việt Nam, thực ra là « tiểu bang » hay « xứ », do chính phủ ông lănh đạo, nằm trong Liên bang Đông Dương, có qui chế pháp lư tương đương với xứ Bắc Kỳ, mà quyền hành của ông c̣n dưới quyền của Thống sứ Pháp.
Các đảng phái quốc gia lên án ông Hồ việc này là rước Pháp vào lại VN. Nhưng thực ra, có hay không có « hiệp ước sơ bộ » th́ Pháp cũng vào lại VN. Cũng như có hay không có các chính phủ của Bảo Đại hay của ông Hồ th́ quân Trung Hoa cũng vào Bắc Kỳ. Việc này là do qui định của phe chiến thắng, tức các nước Đồng minh. Khi Pháp và TH kư kết ước trao đổi quyền lợi, Pháp trả các nhượng địa cùng các cơ sở kinh tế của Pháp tại đất TH cho họ Tưởng th́ phe này cũng trả lại VN cho Pháp. Chính trị gọi là « đón gió » của ông Hồ, v́ ông hiểu biết t́nh h́nh quốc tế, biết được định đoạt của Đồng minh về số phận các quốc gia do Nhật chiếm trước chiến tranh, v́ thế xông xáo kư kết ước với Pháp. Nhưng việc này cũng kết liễu tính chính thống của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, đồng thời hành động này làm cho các đảng viên trong đảng CSVN nghi ngại lập trường của ông Hồ. Vi việc này mà sau này ông Hồ trở nên rất sắc máu, đúng tiêu chuẩn của một cán bộ quốc tế vô sản, để chứng minh lập trường của ḿnh. Nhưng dầu vậy ông Hồ cũng không được phía cộng sản Nga tin tưởng. Họ nghi ngờ ông Hồ là « cơ hội chủ nghĩa » cho đến khi ông này qua đời năm 1969.