vuitoichat
07-23-2012, 14:41
Benoît de Tréglodé
-
Tác giả là giám đốc IRASEC (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á hiện đại) đặt ở Bangkok, Thái Lan. Là tiến sĩ sử học, từng làm việc ở EFEO tại Hà Nội (1994-1997), ở Đại học Budapest Hungary (1997-1998) và tham tán văn hóa ở Đại sứ quán Pháp tại Tokyo (2005-2008), ông là tác giả của nhiều sách nghiên cứu về Việt Nam hiện đại. Bài này đăng trên số chuyên san của IRASEC: Đông Nam Á 2012 – những sự kiện chủ chốt (tr. 55-71).
Vấn đề Trường Sa và Hoàng Sa đang đè nặng lên quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, từ khi b́nh thường hóa năm 1991, mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước láng giềng không có ǵ thay đổi (1). Các cuộc thương thuyết Trung-Việt về những bất đồng vẫn tŕ trệ từ 10 năm nay, và như một nhà ngoại giao Việt Nam đă nói: “Những cuộc tranh luận đó không bao giờ chấm dứt, nó có thể kéo đến 100 năm!” Các thách thức về hàng hải trở thành vấn đề chiến lược của Việt Nam, không phải chỉ v́ bốn phần năm ngoại thương của Việt Nam đều đi bằng đường biển.
Hồi 10 tháng 4-2011, mạng chính thức của Trung Quốc, Hoàn Cầu Thời báo công bố một báo cáo về biển Hoa Nam (2), lần đầu tiên những con số đưa ra về dự báo trữ lượng hydrocacbon đă đặt vùng này thành một vùng Vịnh thứ hai – nghĩa là 25 lần trữ lượng của Trung Quốc về dầu lửa và 8 lần về khí đốt (3) – tin đó tạo nên một cú sốc cho Hà Nội. Ngày 25 tháng 5-2011, hai tàu hải giám Trung Quốc cắt dây cáp tàu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (gọi là PetroVietnam) trong khi đang ḍ địa chấn ở vùng biển tranh chấp. Ngay lập tức Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt những hành động vi phạm chủ quyền, mở đầu một cuộc khủng hoảng công khai giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Việt Nam và Philippin. Bên trên sự căng thẳng đó, Trung Quốc và Việt Nam đều lần lượt công bố các dự án phát triển Biển Đông, nhằm khai thác có kế hoạch kinh tế khu vực, đồng thời nhanh chóng hiện đại hóa lực lượng vũ trang để có khả năng bảo đảm an ninh cho đ̣i hỏi của ḿnh.
Các dự án phát triển Biển Đông
Đảo Hải Nam (được nâng thành đặc khu kinh tế của TQ năm 1988) có vị trí chiến lước đối với Bắc Kinh v́ không những nó nằm gần khu vực thăm ḍ dầu khí sôi động, mà c̣n là cửa ngơ vào thị trường ASEAN mà TQ đă kư một hiệp định tự do trao đổi đầu tiên (mở rộng các cảng Dương Phố, Bát Sở, Hải Khẩu và Tam Á đều nhằm hướng về ASEAN) và c̣n v́ nó nằm gần đường Xích đạo trở thành vị trí lư tưởng để phóng vệ tinh. Đầu 2011, việc phát hành Báo cáo thưởng niên về phát triển hải dương Trung Quốc tuyên bố phát động những chiến dịch mới khai thác dầu khí ở quần đảo Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) và Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa). Năm 2006 chính phủ trung ương bổ nhiệm Vệ Lưu Thành, ủy viên Trung ương đảng và giám đốc CNOOC (Trung Quốc Hải dương thạch du Tổng công ty) từ 1993 đến 2003, vào vị trí Bí thứ tỉnh ủy Hải Nam nhằm đẩy mạnh chiến lược phát triển đảo này.
Tháng 11-2006, việc khánh thành nhà máy lọc dầu Sinopec ở Dương Phố, cảng nằm về phía bắc đảo, không xa Hải Khẩu, đă nói rơ đường lối của các dự án lớn được Bắc Kinh ủng hộ. Với khả năng 8 triệu tấn (TT), nhà máy lọc dầu khai thác ở thềm lục địa khoảng 2 TT, cùng với dầu nhập khẩu từ châu Phi (Nigeria) và Trung-Đông (6 TT). Xây dựng năm 1992, khu công nghiệp Dương Phố từ nay sẽ trở thành tổ hợp dầu lửa quan trọng nhất vùng. Trong tương lai, nó sẽ là trung tâm lọc dầu thô nhập khẩu, và xuất khẩu dầu đă lọc vào nội địa và đến thị trường ASEAN. Về phía ḿnh, CNOOC đă có mặt trong thăm ḍ dầu khí trên Biển Đông, sẽ tham gia hoạt động bằng đầu tư 750 triệu euro để xây dựng điểm tập kết khí đốt có dung tích khởi đầu là 2 TT năm. Đồng thời đảo này thu hút sự thành lập nhiều dự án công nghiệp. Đă dự kiến xây dựng một tổ hợp 20 Km2 gồmmột nhà máy lắp ghép tên lửa thế hệ mới và trung tâm chỉ huy. Cuối cùng TQ đă quyết định xây dựng ở Hải Nam căn cứ không gian thứ tư sau những căn cứ ở lục địa tại Tửu Tuyền (Cam Túc), Tây Xướng (Tứ Xuyên) và Thái Nguyên (Sơn Tây). Hải Nam quả là một địa điểm lư tưởng để phóng vệ tinh nặng v́ nằm gần đường Xích đạo, có thể tiết kiệm chất đốt và cải thiện an toàn không gian. Việc xây dựng căn cứ này gần Văn Xương ở bờ biển phía đông đảo, được khởi công tháng 3-2008. Hải Nam đóng vai tṛ trụ cột trong tổ hợp công nghiệp và an ninh của TQ, và Bắc Kinh không dung thứ cho VN cản trở tiến triển của những dự án phát triển.
Một số quan chức VN không ngần ngại để nói đến “cuộc âm mưu” của TQ trước những khó khăn ngày càng gia tăng mà họ vấp phải từ mấy năm nay để ngăn chặn “sức ép của các nhà đàm phán TQ” về vấn đề phát triển kinh tế trên Biển Đông. Nhiều cán bộ của VN đă thừa nhận, trong nội bộ, hy vọng thu hồi quần đảo Hoàng Sa từ nay sẽ không thể thực hiện được nữa. “Ván cờ đă thua. Các quân cờ của TQ đă đi quá xa trên quần đảo. Nếu nghĩ cho thực tế, th́ VN không bao giờ có thể thu hồi những đảo đó!”(4). Tuy nhiên, chế độ của Hà Nội vẫn tiếp tục đưa các quần đảo tranh chấp thành một sự kiện quốc gia được truyền thông hỗ trợ một cách khôn khéo. Việc bảo vệ chủ quyền VN trên các đảo đó dùng để củng cố h́nh ảnh của Đảng cầm quyền, người chân chính và tự nhiên bảo vệ tổ quốc (5). Đă có dự kiến thành lập một bộ Kinh tế biển, xuất phát từ lập luận Biển Đông là tương lai của VN, và là hậu quả trong quan hệ tương lai với TQ.
Dự án phát triển du lịch Hải Nam
Với TQ, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) về hành chính trực thuộc tỉnh Hải Nam. Tháng 12-2009, tỉnh ủy ĐCSTQ tỉnh Hải Nam đă đưa ra một dự án phát triển kinh tế gồm ba giai đoạn (6): “Mở đầu công trường năm 2010, hoàn thành thay đổi các nhân tố du lịch cơ bản năm 2015, và hoàn thiện các nhiệm vụ chủ chốt năm 2020”(7). Tất nhiên phải đặt việc phát động dự án đó trong bối cảnh toàn thể, đó là phát triển kinh tế miền nam Trung Quốc. Dự án TQ dự tính đưa Hoàng Sa thành một điểm du lịch “hàng đầu”. Đặt căn cứ tại Hải Nam, chính quyền các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa (8) chịu trách nhiệm quản lư ba quần đảo đó. Dưới sự chủ tŕ của chính quyền đă đưa ra quyết định tổ chức những chuyến du lịch đến các quần đảo. Một chuyến đi thử nghiệm năm 2010 cho phép lần đầu tiên khách du lịch đặt chân lên các ḥn đảo không người ở. Năm 2011 chính quyền Hải Nam cho phép các công ty sang trọng nước ngoài tổ chức quay phim hay chụp ảnh các đảo ở Hoàng Sa. Nhưng đến bây giờ, cơ sở hạ tầng ở Hoàng Sa, ngoài những cái của quân đội, th́ vẫn chỉ là những ngôi nhà tạm của công trường. Những bến tàu và đường băng cho máy bay nhẹ sẽ được xây dựng trong tương lai.
Các đảo Hoàng Sa được nhắc đến hai lần trong kế hoạch phát triển TQ. Một đoạn đầu nói rơ việc xây dựng một cảng cá trung tâm (cấp độ một) phải hoàn thành nhanh để “thúc đẩy việc thiết lập công nghiệp cá ở Hoàng Sa”. Đoạn thứ hai giải thích rằng một cảng cá nằm ở “ngoại hải” sẽ được xây dựng mà nhà cầm quyền căn cứ trên “những bằng chứng khoa học” nhằm “sử dụng và khai thác các đảo theo một kế hoạch phối hợp và v́ các ly do khoa học; tăng cường một cách hợp pháp chính quyền các đảo không người ở (hay không có người cư trú) và các đảo Hoàng Sa, và tiến hành hợp pháp đăng kư quyền sở hữu đất đai dựa theo nguyên tắc quản lư các lănh thổ có liên quan (đến TQ)”. Cuối cùng, văn bản nhắc lại việc tổ chức tua du lịch bằng tàu thuyền “bao gồm tỉnh Hải Nam, cho phép thực thi quyền tư pháp trên lănh hải các quần đảo Tây Sa, Nam Sa (tức Hoàng Sa, Trường Sa) và Trung Sa” phải tiến hành một cách nhanh chóng.
Về mặt pháp lư, không gian biển quốc gia và quốc tế được quản lư theo một ngôn từ bao gồm khu vực hàng hải và khai thác của Nhà nước. Căn cứ pháp lư đó được diễn dịch theo tiếng Trung Quốc như sau:
- Nội hải: từ đất liền đến đường biên cơ bản
- Lănh hải: từ đường biên cơ bản đến 12 hải lư
- Chuyên thuộc kinh tế khu: đến tận 24 hải lư từ đường biên cơ bản
- Tỵ liên khu: khu vực kinh tế đặc quyền chiều rộng tối đa 200 hải lư
- Đại lục giá: thềm lục địa
- Ngoại hải: vùng biển cả hay biển quốc tế.
Theo khái niệm TQ, vùng biển cả, được pháp lư quốc tế coi là “tài sản công của thế giới”, được dịch là ngoại hải “biển bên ngoài”. Các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa đều được coi là nằm trong vùng đó. Như vậy, nếu kế hoạch phát triển kinh tế chỉ dựa trên điểm 3, điều 2 của đạo luật về “lănh hải và vùng chuyên thuộc của CHND Trung Hoa”, th́ vẫn có thể đọc một cách khác, mang tính văn hóa hơn, nhằm nêu lên những mâu thuẫn về pháp lư giữa các từ nội hải và ngoại hải, “biển bên trong/biển bên ngoài”. Cặp đôi những từ đó đă có ở TQ từ lâu và cách sử dụng vẫn có giá trị cho đến khi xuất hiện những từ ngữ pháp lư hiện hành. Như vậy, khái niêm “nội hải” đôi khi được dùng theo nghĩa rộng để chỉ mọi không gian biển mà TQ có chủ quyền và pháp lư. Từ đây, tên gọi nội hải đôi khi có thể vấp phải những đường ranh do luật quốc tế xác lập và gộp cả “nội hải”, “lănh hải” và “khu chuyên thuộc” vào với nhau, mà cả trên nghĩa rất rộng là gồm cả “khu vực kinh tế đặc quyền” và cả “thềm lục địa”.
Thật chính đáng khi đặt câu hỏi rằng tại sao những người biên soạn văn kiện chính thức đó lại chọn dùng từ ngoại hải, và như vậy là đă chọn khi hiểu rằng nó nói đến một không gian “biển cả”, vốn nằm ngoài mọi chủ quyền quốc gia, để chỉ khu vực đă được dự tính “xây dựng những thiết bị kinh tế tương lai” trong khuôn khổ phát triển đảo Hải Nam. Việc đặt song song một ngôn từ chuyên dùng của luật quốc tế về biển bên cạnh ngôn từ phản ánh một khái niệm truyền thống được Trung Quốc hóa về không gian biển, đă tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau về một dự án phát triển mà rơ ràng nhà chức trách đă lường trước mọi va chạm trên b́nh diện địa chính trị và những phản ứng khu vực sẽ nảy sinh, điều mà những sự kiện gần đây xảy ra với Việt Nam và Philippin một lần nữa đă chứng minh.
“Du lịch biển” Việt Nam và tuần lễ biển đảo
Năm 2011 là năm Đại hội lần thứ XI của ĐCS Việt Nam, và như vậy là bầu cử lại mọi cấp của chính quyền đất nước. Đối với Đảng, trước hết cần phải động viên tinh thần yêu nước của nhân dân để tăng cường đường lối đạo lư, và như vậy là chính đáng, dưới sự lănh đạo của Đảng trong lịch sử. Vào tháng 4, đến lượt VN đưa ra công khai một dự án đầy tham vọng phát động “du lịch ven biển và hải đảo”, một kế hoạch phát triển đặc biệt hướng về việc bảo vệ các đảo ở Biển Đông (9). Kế hoạch đó tạo điều kiện cho “các chính quyền địa phương đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm ở các thành thị ven biển miền Trung VN, bảo vệ môi trường, nhưng đặc biệt là tham gia bảo vệ đất nước v́ trong hàng ngh́n ḥn đảo tất nhiên có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”(10).
Trên thực tế, dự án của VN chủ yếu là một thông báo chính trị hướng về TQ (11). Điều cần ghi nhận là một lần nữa VN lợi dụng cơ hội để tuyên bố tổ chức tua du lịch đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mỗi lần có khủng hoảng với Bắc Kinh, VN lại tuyên bố như là sắp mở tuyến du lịch đó đến nơi. Chẳng hạn tháng 4-2004, đă dự tính mở đường liên lạc Khánh Ḥa-Trường Sa, dù thời đó chưa có khả năng kiểm soát việc mở đường. Năm 2011, trong một cuộc hội thảo do chính quyền tổ chức tại huyện đảo Lư Sơn (tỉnh Quảng Ngăi), nơi có 11 ngư dân bị TQ bắt và giam giữ tháng 9-2010 – một vụ bắt giữ được báo chí nói rất nhiều hồi đó – các cán bộ đảng giải thích rằng mục tiêu của dự án phát triển mới này là “xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại ven biển và hải đảo, công nhận sớm lễ hội tri ân các binh sĩ bỏ ḿnh ở Hoàng Sa là lễ hội quốc gia, và tổ chức Liên hoan biển đảo VN 3 hay 5 năm một lần, góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia trên Biển Đông, và đặc biệt đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Bước thứ hai của cuộc huy động quanh thách thức về Biển Đông được đánh dấu bằng việc tổ chức từ ngày 1 đến 8 tháng 6-2011 một “Tuần lễ biển đảo”. Nhiều cuộc hội thảo được tổ chức tại tỉnh ven biển Khánh Ḥa (các đảo Trường Sa thuộc tỉnh này) và khai mạc pḥng triển lăm tài nguyên đă có trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tờ Quân Đội Nhân Dân của quân đội, đă đưa ra một hồ sơ đặc biệt nói về giá trị tài chính của Biển Đông đối với VN: “Năm 2012, kinh tế biển sẽ đạt đến 53-55 % GDP của VN và đóng góp 55-60 % giá trị xuất khẩu của nước ta”. Mục tiêu của tờ báo là thuyết phục độc giả rằng những căng thẳng xuất hiện lại trên Biển Đông sẽ động chạm đến cuộc sống hàng ngày của mọi người, cụ thể là vấn đề cung cấp các hải sản trong tương lai. ĐCS Việt Nam nhận thấy cuộc khủng hoảng trong ḷng Biển Đông khó mà huy động dân chúng, đối với họ, dù truyền thông chính thức nói ǵ đi nữa, th́ cuộc sống ở Trường Sa c̣n quá xa so với các lo toan hàng ngày của họ. Mục tiêu của tuyên truyền được bộc lộ ở tính phức tạp của những thách thức địa chính trị khi nhắc đến những phiền toái sát sườn của mỗi một người và có thể gây nên sự bất b́nh và tố giác những ư đồ của TQ.
Ở VN, t́nh h́nh bang giao giữa hai nước láng giềng thường được giải mă qua những b́nh luận trên báo chí chính thống về sự gia tăng của giá rau quả, của hải sản, đồ dệt may, v.v…, một sự tăng giá vô lối thường được giải thích như thuộc trách nhiệm của TQ, mà sự cạnh tranh thương mại xuất hiện như là “bất chính hay phương hại cho quyền lợi dân tộc của nhân dân VN”.
Hiện đại hóa quân đội Trung Quốc và Việt Nam
Giữa các năm 2000-2004 và 2005-2009, nhập khẩu vũ khí đến Inđônêxia, Singapore và Malaixia đều lần lượt tăng 84%, 146% và 722%. Ở VN và TQ xu hướng cũng tương tự. Việc hiện đại hóa quân đội không c̣n là chủ đề kiêng kỵ ở Hà Nội và Bắc Kinh. Người ta nói đến, các nhà báo và nhiều trang mạng (chủ yếu là TQ) đều dành cho chủ đề này. Vào thời cựu bộ trưởng Quốc pḥng VN Phạm Văn Trà (1997-2006), rất khó nêu lên vấn đề này. Từ nay, vấn đề đó h́nh như không c̣n đặt ra nữa.
Quân đội nhân dân VN nêu rơ sự lạc hậu của trang bị, cụ thể là hải quân quốc gia và không quân, và trong giai đoạn hội nhập với vũ đài quốc tế, cần phải mở rộng các đối tác kinh tế. VN muốn hiện đại hóa quân đội, và phải nhanh chóng nhờ vào đường lối đ̣i hỏi phải mua của “những nhà công nghiệp tốt nhất, không tính đến xu hướng chính trị”(12). V́ Giải phóng quân TQ đang hiện đại hóa, quân đội VN từ lâu không dám thú nhận nhu cầu hiện đại hóa v́ ngại quan hệ đến Bắc Kinh, th́ ngày nay đă xác nhận. Về chủ đề này, QĐVN hy vọng sự xích lại với Hoa Kỳ sẽ kéo theo những hợp đồng quân sự trong tương lai (13). Chính thức mà nói, sự xích lại của bộ Quốc pḥng CHXHCNVN có thể tóm tắt trong 4 điểm sau: “Xu thế ḥa b́nh; quan hệ quân sự đối ngoại chưa bao giờ có hiệu quả và mở rộng như ngày nay; việc sản xuất khí tài quân sự hiện đại của VN [dù công nghệ quốc pḥng VN chưa có sự phát triển vững chắc] và tiếp nhận một đội ngũ chuyên gia kỹ thuật quân sự quan trọng”(14).
Từ khi Phùng Quang Thanh lên làm bộ trưởng Quốc pḥng năm 2006, đă ưu tiên thành lập cảnh sát biển và một binh chủng mới không lực hải quân. Sự yếu kém của hải quân không c̣n “trụ nổi” trước những cú đấm của TQ và sự hiện đại hóa của hải quân khu vực. Tháng 10-2010, cảnh sát biển lần đầu tiên diễu hành nhân dịp 1000 năm Hà Nội. Năm trước, TQ đă phản đối khi VN tuyên bố mua 10 tàu ngầm qui ước Kilo của Nga. Hiện nay, hợp đồng đang được thương thuyết, về việc VN mua tên lửa tầm xa biển-đối-biển và biển-đối-không. Ngày 8 tháng 7-2011, theo báo Thanh Niên, tướng Pham Đức Lĩnh, giám đốc cảnh sát biển, đă tiết lộ sự tăng cường trong tương lai trang bị của cảnh sát biển với việc mua tàu thủy và máy bay mới. Một tuyên bố cho phép nhắc lại rằng “VN sẽ chống đến cùng những nước ngoài nào t́m cách khai thác dầu khí trong hải phận thuộc chủ quyền VN và không có sự thỏa hiệp về điều này”(15).
QĐNDVN đă vạch ra một chiến lược quân sự, nhưng cũng phải hỏi xem tầm nh́n đó có được chia sẻ không hay đến một lúc nào đó giai cấp chính trị có đủ phương tiện để bảo vệ nó không, trong khuôn khổ trói buộc của mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng cộng sản đang cầm quyền. Nếu quan sát cách thức khủng hoảng trên Biển Đông đă diễn ra từ tháng năm-sáu 2011 (từ tháng 7-2011, truyền thông VN đă quay lại đúng lúc để ca ngợi sức mạnh của t́nh hữu nghị Trung-Việt), th́ mối nghi ngại vẫn c̣n tồn tại. Một sự thay đổi vẫn có thể nhận thấy. Trong hàng ngũ QĐNDVN, việc xảy ra chiến tranh với TQ vẫn đang “ở trong một tương lai chưa xác định” từ nay được nêu lên, nếu không phải được xem xét một cách nghiêm túc. Đầu năm 2010, VN đă lần đầu tiên trong cuốn Sách trắng quốc pḥng thứ ba đưa ra “tính chất khó chơi của người láng giềng lớn phía bắc”. Tuy nhiên, nếu có xung đột trong tương lai gần, “có thể VN phải rút lui khá nhanh, đó là sự thật, v́ hải quân của nó quá yếu. Chính phủ VN không thể chấp nhận t́nh h́nh đó, đất nước đang lên gân và muốn đưa ra thông điệp như sau: chúng ta phải tự vệ, đang t́m những mối quan hệ khác, người ta muốn thương thuyết với Liên minh châu Âu hay với các nước khác, v́ những nước này chưa được củng cố vững về quốc pḥng, cho nên mới có chuyện xích lại gần nước Nga mới đây”(16).
Việt Nam biết rằng trong t́nh trạng hiện nay, Quân giải phóng Trung Hoa, và cụ thể là Hạm đội 5, hoàn toàn chưa có khả năng hoạt động trên Biển Đông. Mặc dầu có việc mua sắm mới đây, phần lớn máy bay quan sát và vận tải TQ đều có tối thiểu 20 năm tuổi. Các máy bay chiến đấu tự sản xuất, kiểu F-7 và F-8, chỉ có bán kính hoạt động 2.200 km, quá ít với nhiệm vụ hoạt động đến Trường Sa, khác với máy bay của các nước ASEAN ở gần các quần đảo này hơn. Nếu TQ có tham vọng kiểm soát Biển Đông, cụ thể là các đảo Trường Sa nằm quá xa bờ biển của ḿnh, TQ ư thức được rằng quân đội cần có những máy bay quan sát mới (loại AEW&C), những máy bay tiếp tế và vận tải nặng. Tháng 3-2011, việc công bố kế hoạch 5 năm lần thứ 12, lần đầu tiên đặt vấn đề hiện đại hoá hạm đội lên ưu tiên hàng đầu của quốc gia (toàn bộ một chương dành cho vấn đề này), đă được b́nh luận lâu trong các giới liên quan đến VN. Trong thực tế, hạm đội phía nam đă có những khí tài tốt nhất của hải quân Trung Hoa, tàu sân bay duy nhất của TQ, chiếc Variag, những tàu khu trục hiện đại nhất (052A), một căn cứ tàu ngầm nguyên tử ở Du Lâm-Tam Á, vừa có hai tàu ngầm tiêm kích mới (SSN) trang bị tên lửa đạn đạo thế hệ cuối cùng (SSBN) (17)¸ và cuối cùng là máy bay tiêm kích tàng h́nh J-20 bí ẩn và đang được bàn căi. TQ c̣n có đơn vị kiểm soát hải dương thành lập năm 1998: gồm 300 tàu tuần tiễu, từ nay đến năm 2020 sẽ có tổng số 15.000 người (nay là 9.000), 16 máy bay mới (nay là 9), và 520 tàu chiến (nay là 260). Ngoài ra QGP c̣n chờ trang bị một tàu sân bay mới kiểu Liên Xô (vào năm 2012), tàu ngầm phóng lôi 094, và đang tiến hành một công tŕnh bí mật sản xuất tên lửa đạn đạo chống tàu chiến (hạm mẫu sát thủ) có thể đe dọa việc triển khai tàu sân bay Hoa Kỳ trên Thái B́nh Dương.
Nếu tính khả thi về kỹ thuật của chương tŕnh này – theo TQ th́ thực hiện vào năm 2015 – tiếp tục khiến nhiều chuyên gia phương Tây nghi ngờ, th́ tín hiệu đă được phát ra. Hạm đội phương Nam TQ có tham vọng khu vực và khai thác các nguồn lợi trên Biển Đông là một ưu tiên của CHND Trung Hoa, dù nó có làm các nước láng giềng Đông-Nam Á hài ḷng hay không.
-
Tác giả là giám đốc IRASEC (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á hiện đại) đặt ở Bangkok, Thái Lan. Là tiến sĩ sử học, từng làm việc ở EFEO tại Hà Nội (1994-1997), ở Đại học Budapest Hungary (1997-1998) và tham tán văn hóa ở Đại sứ quán Pháp tại Tokyo (2005-2008), ông là tác giả của nhiều sách nghiên cứu về Việt Nam hiện đại. Bài này đăng trên số chuyên san của IRASEC: Đông Nam Á 2012 – những sự kiện chủ chốt (tr. 55-71).
Vấn đề Trường Sa và Hoàng Sa đang đè nặng lên quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, từ khi b́nh thường hóa năm 1991, mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước láng giềng không có ǵ thay đổi (1). Các cuộc thương thuyết Trung-Việt về những bất đồng vẫn tŕ trệ từ 10 năm nay, và như một nhà ngoại giao Việt Nam đă nói: “Những cuộc tranh luận đó không bao giờ chấm dứt, nó có thể kéo đến 100 năm!” Các thách thức về hàng hải trở thành vấn đề chiến lược của Việt Nam, không phải chỉ v́ bốn phần năm ngoại thương của Việt Nam đều đi bằng đường biển.
Hồi 10 tháng 4-2011, mạng chính thức của Trung Quốc, Hoàn Cầu Thời báo công bố một báo cáo về biển Hoa Nam (2), lần đầu tiên những con số đưa ra về dự báo trữ lượng hydrocacbon đă đặt vùng này thành một vùng Vịnh thứ hai – nghĩa là 25 lần trữ lượng của Trung Quốc về dầu lửa và 8 lần về khí đốt (3) – tin đó tạo nên một cú sốc cho Hà Nội. Ngày 25 tháng 5-2011, hai tàu hải giám Trung Quốc cắt dây cáp tàu của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (gọi là PetroVietnam) trong khi đang ḍ địa chấn ở vùng biển tranh chấp. Ngay lập tức Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt những hành động vi phạm chủ quyền, mở đầu một cuộc khủng hoảng công khai giữa một bên là Trung Quốc và bên kia là Việt Nam và Philippin. Bên trên sự căng thẳng đó, Trung Quốc và Việt Nam đều lần lượt công bố các dự án phát triển Biển Đông, nhằm khai thác có kế hoạch kinh tế khu vực, đồng thời nhanh chóng hiện đại hóa lực lượng vũ trang để có khả năng bảo đảm an ninh cho đ̣i hỏi của ḿnh.
Các dự án phát triển Biển Đông
Đảo Hải Nam (được nâng thành đặc khu kinh tế của TQ năm 1988) có vị trí chiến lước đối với Bắc Kinh v́ không những nó nằm gần khu vực thăm ḍ dầu khí sôi động, mà c̣n là cửa ngơ vào thị trường ASEAN mà TQ đă kư một hiệp định tự do trao đổi đầu tiên (mở rộng các cảng Dương Phố, Bát Sở, Hải Khẩu và Tam Á đều nhằm hướng về ASEAN) và c̣n v́ nó nằm gần đường Xích đạo trở thành vị trí lư tưởng để phóng vệ tinh. Đầu 2011, việc phát hành Báo cáo thưởng niên về phát triển hải dương Trung Quốc tuyên bố phát động những chiến dịch mới khai thác dầu khí ở quần đảo Hoàng Sa (TQ gọi là Tây Sa) và Trường Sa (TQ gọi là Nam Sa). Năm 2006 chính phủ trung ương bổ nhiệm Vệ Lưu Thành, ủy viên Trung ương đảng và giám đốc CNOOC (Trung Quốc Hải dương thạch du Tổng công ty) từ 1993 đến 2003, vào vị trí Bí thứ tỉnh ủy Hải Nam nhằm đẩy mạnh chiến lược phát triển đảo này.
Tháng 11-2006, việc khánh thành nhà máy lọc dầu Sinopec ở Dương Phố, cảng nằm về phía bắc đảo, không xa Hải Khẩu, đă nói rơ đường lối của các dự án lớn được Bắc Kinh ủng hộ. Với khả năng 8 triệu tấn (TT), nhà máy lọc dầu khai thác ở thềm lục địa khoảng 2 TT, cùng với dầu nhập khẩu từ châu Phi (Nigeria) và Trung-Đông (6 TT). Xây dựng năm 1992, khu công nghiệp Dương Phố từ nay sẽ trở thành tổ hợp dầu lửa quan trọng nhất vùng. Trong tương lai, nó sẽ là trung tâm lọc dầu thô nhập khẩu, và xuất khẩu dầu đă lọc vào nội địa và đến thị trường ASEAN. Về phía ḿnh, CNOOC đă có mặt trong thăm ḍ dầu khí trên Biển Đông, sẽ tham gia hoạt động bằng đầu tư 750 triệu euro để xây dựng điểm tập kết khí đốt có dung tích khởi đầu là 2 TT năm. Đồng thời đảo này thu hút sự thành lập nhiều dự án công nghiệp. Đă dự kiến xây dựng một tổ hợp 20 Km2 gồmmột nhà máy lắp ghép tên lửa thế hệ mới và trung tâm chỉ huy. Cuối cùng TQ đă quyết định xây dựng ở Hải Nam căn cứ không gian thứ tư sau những căn cứ ở lục địa tại Tửu Tuyền (Cam Túc), Tây Xướng (Tứ Xuyên) và Thái Nguyên (Sơn Tây). Hải Nam quả là một địa điểm lư tưởng để phóng vệ tinh nặng v́ nằm gần đường Xích đạo, có thể tiết kiệm chất đốt và cải thiện an toàn không gian. Việc xây dựng căn cứ này gần Văn Xương ở bờ biển phía đông đảo, được khởi công tháng 3-2008. Hải Nam đóng vai tṛ trụ cột trong tổ hợp công nghiệp và an ninh của TQ, và Bắc Kinh không dung thứ cho VN cản trở tiến triển của những dự án phát triển.
Một số quan chức VN không ngần ngại để nói đến “cuộc âm mưu” của TQ trước những khó khăn ngày càng gia tăng mà họ vấp phải từ mấy năm nay để ngăn chặn “sức ép của các nhà đàm phán TQ” về vấn đề phát triển kinh tế trên Biển Đông. Nhiều cán bộ của VN đă thừa nhận, trong nội bộ, hy vọng thu hồi quần đảo Hoàng Sa từ nay sẽ không thể thực hiện được nữa. “Ván cờ đă thua. Các quân cờ của TQ đă đi quá xa trên quần đảo. Nếu nghĩ cho thực tế, th́ VN không bao giờ có thể thu hồi những đảo đó!”(4). Tuy nhiên, chế độ của Hà Nội vẫn tiếp tục đưa các quần đảo tranh chấp thành một sự kiện quốc gia được truyền thông hỗ trợ một cách khôn khéo. Việc bảo vệ chủ quyền VN trên các đảo đó dùng để củng cố h́nh ảnh của Đảng cầm quyền, người chân chính và tự nhiên bảo vệ tổ quốc (5). Đă có dự kiến thành lập một bộ Kinh tế biển, xuất phát từ lập luận Biển Đông là tương lai của VN, và là hậu quả trong quan hệ tương lai với TQ.
Dự án phát triển du lịch Hải Nam
Với TQ, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) về hành chính trực thuộc tỉnh Hải Nam. Tháng 12-2009, tỉnh ủy ĐCSTQ tỉnh Hải Nam đă đưa ra một dự án phát triển kinh tế gồm ba giai đoạn (6): “Mở đầu công trường năm 2010, hoàn thành thay đổi các nhân tố du lịch cơ bản năm 2015, và hoàn thiện các nhiệm vụ chủ chốt năm 2020”(7). Tất nhiên phải đặt việc phát động dự án đó trong bối cảnh toàn thể, đó là phát triển kinh tế miền nam Trung Quốc. Dự án TQ dự tính đưa Hoàng Sa thành một điểm du lịch “hàng đầu”. Đặt căn cứ tại Hải Nam, chính quyền các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa (8) chịu trách nhiệm quản lư ba quần đảo đó. Dưới sự chủ tŕ của chính quyền đă đưa ra quyết định tổ chức những chuyến du lịch đến các quần đảo. Một chuyến đi thử nghiệm năm 2010 cho phép lần đầu tiên khách du lịch đặt chân lên các ḥn đảo không người ở. Năm 2011 chính quyền Hải Nam cho phép các công ty sang trọng nước ngoài tổ chức quay phim hay chụp ảnh các đảo ở Hoàng Sa. Nhưng đến bây giờ, cơ sở hạ tầng ở Hoàng Sa, ngoài những cái của quân đội, th́ vẫn chỉ là những ngôi nhà tạm của công trường. Những bến tàu và đường băng cho máy bay nhẹ sẽ được xây dựng trong tương lai.
Các đảo Hoàng Sa được nhắc đến hai lần trong kế hoạch phát triển TQ. Một đoạn đầu nói rơ việc xây dựng một cảng cá trung tâm (cấp độ một) phải hoàn thành nhanh để “thúc đẩy việc thiết lập công nghiệp cá ở Hoàng Sa”. Đoạn thứ hai giải thích rằng một cảng cá nằm ở “ngoại hải” sẽ được xây dựng mà nhà cầm quyền căn cứ trên “những bằng chứng khoa học” nhằm “sử dụng và khai thác các đảo theo một kế hoạch phối hợp và v́ các ly do khoa học; tăng cường một cách hợp pháp chính quyền các đảo không người ở (hay không có người cư trú) và các đảo Hoàng Sa, và tiến hành hợp pháp đăng kư quyền sở hữu đất đai dựa theo nguyên tắc quản lư các lănh thổ có liên quan (đến TQ)”. Cuối cùng, văn bản nhắc lại việc tổ chức tua du lịch bằng tàu thuyền “bao gồm tỉnh Hải Nam, cho phép thực thi quyền tư pháp trên lănh hải các quần đảo Tây Sa, Nam Sa (tức Hoàng Sa, Trường Sa) và Trung Sa” phải tiến hành một cách nhanh chóng.
Về mặt pháp lư, không gian biển quốc gia và quốc tế được quản lư theo một ngôn từ bao gồm khu vực hàng hải và khai thác của Nhà nước. Căn cứ pháp lư đó được diễn dịch theo tiếng Trung Quốc như sau:
- Nội hải: từ đất liền đến đường biên cơ bản
- Lănh hải: từ đường biên cơ bản đến 12 hải lư
- Chuyên thuộc kinh tế khu: đến tận 24 hải lư từ đường biên cơ bản
- Tỵ liên khu: khu vực kinh tế đặc quyền chiều rộng tối đa 200 hải lư
- Đại lục giá: thềm lục địa
- Ngoại hải: vùng biển cả hay biển quốc tế.
Theo khái niệm TQ, vùng biển cả, được pháp lư quốc tế coi là “tài sản công của thế giới”, được dịch là ngoại hải “biển bên ngoài”. Các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa đều được coi là nằm trong vùng đó. Như vậy, nếu kế hoạch phát triển kinh tế chỉ dựa trên điểm 3, điều 2 của đạo luật về “lănh hải và vùng chuyên thuộc của CHND Trung Hoa”, th́ vẫn có thể đọc một cách khác, mang tính văn hóa hơn, nhằm nêu lên những mâu thuẫn về pháp lư giữa các từ nội hải và ngoại hải, “biển bên trong/biển bên ngoài”. Cặp đôi những từ đó đă có ở TQ từ lâu và cách sử dụng vẫn có giá trị cho đến khi xuất hiện những từ ngữ pháp lư hiện hành. Như vậy, khái niêm “nội hải” đôi khi được dùng theo nghĩa rộng để chỉ mọi không gian biển mà TQ có chủ quyền và pháp lư. Từ đây, tên gọi nội hải đôi khi có thể vấp phải những đường ranh do luật quốc tế xác lập và gộp cả “nội hải”, “lănh hải” và “khu chuyên thuộc” vào với nhau, mà cả trên nghĩa rất rộng là gồm cả “khu vực kinh tế đặc quyền” và cả “thềm lục địa”.
Thật chính đáng khi đặt câu hỏi rằng tại sao những người biên soạn văn kiện chính thức đó lại chọn dùng từ ngoại hải, và như vậy là đă chọn khi hiểu rằng nó nói đến một không gian “biển cả”, vốn nằm ngoài mọi chủ quyền quốc gia, để chỉ khu vực đă được dự tính “xây dựng những thiết bị kinh tế tương lai” trong khuôn khổ phát triển đảo Hải Nam. Việc đặt song song một ngôn từ chuyên dùng của luật quốc tế về biển bên cạnh ngôn từ phản ánh một khái niệm truyền thống được Trung Quốc hóa về không gian biển, đă tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau về một dự án phát triển mà rơ ràng nhà chức trách đă lường trước mọi va chạm trên b́nh diện địa chính trị và những phản ứng khu vực sẽ nảy sinh, điều mà những sự kiện gần đây xảy ra với Việt Nam và Philippin một lần nữa đă chứng minh.
“Du lịch biển” Việt Nam và tuần lễ biển đảo
Năm 2011 là năm Đại hội lần thứ XI của ĐCS Việt Nam, và như vậy là bầu cử lại mọi cấp của chính quyền đất nước. Đối với Đảng, trước hết cần phải động viên tinh thần yêu nước của nhân dân để tăng cường đường lối đạo lư, và như vậy là chính đáng, dưới sự lănh đạo của Đảng trong lịch sử. Vào tháng 4, đến lượt VN đưa ra công khai một dự án đầy tham vọng phát động “du lịch ven biển và hải đảo”, một kế hoạch phát triển đặc biệt hướng về việc bảo vệ các đảo ở Biển Đông (9). Kế hoạch đó tạo điều kiện cho “các chính quyền địa phương đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm ở các thành thị ven biển miền Trung VN, bảo vệ môi trường, nhưng đặc biệt là tham gia bảo vệ đất nước v́ trong hàng ngh́n ḥn đảo tất nhiên có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”(10).
Trên thực tế, dự án của VN chủ yếu là một thông báo chính trị hướng về TQ (11). Điều cần ghi nhận là một lần nữa VN lợi dụng cơ hội để tuyên bố tổ chức tua du lịch đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mỗi lần có khủng hoảng với Bắc Kinh, VN lại tuyên bố như là sắp mở tuyến du lịch đó đến nơi. Chẳng hạn tháng 4-2004, đă dự tính mở đường liên lạc Khánh Ḥa-Trường Sa, dù thời đó chưa có khả năng kiểm soát việc mở đường. Năm 2011, trong một cuộc hội thảo do chính quyền tổ chức tại huyện đảo Lư Sơn (tỉnh Quảng Ngăi), nơi có 11 ngư dân bị TQ bắt và giam giữ tháng 9-2010 – một vụ bắt giữ được báo chí nói rất nhiều hồi đó – các cán bộ đảng giải thích rằng mục tiêu của dự án phát triển mới này là “xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại ven biển và hải đảo, công nhận sớm lễ hội tri ân các binh sĩ bỏ ḿnh ở Hoàng Sa là lễ hội quốc gia, và tổ chức Liên hoan biển đảo VN 3 hay 5 năm một lần, góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia trên Biển Đông, và đặc biệt đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Bước thứ hai của cuộc huy động quanh thách thức về Biển Đông được đánh dấu bằng việc tổ chức từ ngày 1 đến 8 tháng 6-2011 một “Tuần lễ biển đảo”. Nhiều cuộc hội thảo được tổ chức tại tỉnh ven biển Khánh Ḥa (các đảo Trường Sa thuộc tỉnh này) và khai mạc pḥng triển lăm tài nguyên đă có trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tờ Quân Đội Nhân Dân của quân đội, đă đưa ra một hồ sơ đặc biệt nói về giá trị tài chính của Biển Đông đối với VN: “Năm 2012, kinh tế biển sẽ đạt đến 53-55 % GDP của VN và đóng góp 55-60 % giá trị xuất khẩu của nước ta”. Mục tiêu của tờ báo là thuyết phục độc giả rằng những căng thẳng xuất hiện lại trên Biển Đông sẽ động chạm đến cuộc sống hàng ngày của mọi người, cụ thể là vấn đề cung cấp các hải sản trong tương lai. ĐCS Việt Nam nhận thấy cuộc khủng hoảng trong ḷng Biển Đông khó mà huy động dân chúng, đối với họ, dù truyền thông chính thức nói ǵ đi nữa, th́ cuộc sống ở Trường Sa c̣n quá xa so với các lo toan hàng ngày của họ. Mục tiêu của tuyên truyền được bộc lộ ở tính phức tạp của những thách thức địa chính trị khi nhắc đến những phiền toái sát sườn của mỗi một người và có thể gây nên sự bất b́nh và tố giác những ư đồ của TQ.
Ở VN, t́nh h́nh bang giao giữa hai nước láng giềng thường được giải mă qua những b́nh luận trên báo chí chính thống về sự gia tăng của giá rau quả, của hải sản, đồ dệt may, v.v…, một sự tăng giá vô lối thường được giải thích như thuộc trách nhiệm của TQ, mà sự cạnh tranh thương mại xuất hiện như là “bất chính hay phương hại cho quyền lợi dân tộc của nhân dân VN”.
Hiện đại hóa quân đội Trung Quốc và Việt Nam
Giữa các năm 2000-2004 và 2005-2009, nhập khẩu vũ khí đến Inđônêxia, Singapore và Malaixia đều lần lượt tăng 84%, 146% và 722%. Ở VN và TQ xu hướng cũng tương tự. Việc hiện đại hóa quân đội không c̣n là chủ đề kiêng kỵ ở Hà Nội và Bắc Kinh. Người ta nói đến, các nhà báo và nhiều trang mạng (chủ yếu là TQ) đều dành cho chủ đề này. Vào thời cựu bộ trưởng Quốc pḥng VN Phạm Văn Trà (1997-2006), rất khó nêu lên vấn đề này. Từ nay, vấn đề đó h́nh như không c̣n đặt ra nữa.
Quân đội nhân dân VN nêu rơ sự lạc hậu của trang bị, cụ thể là hải quân quốc gia và không quân, và trong giai đoạn hội nhập với vũ đài quốc tế, cần phải mở rộng các đối tác kinh tế. VN muốn hiện đại hóa quân đội, và phải nhanh chóng nhờ vào đường lối đ̣i hỏi phải mua của “những nhà công nghiệp tốt nhất, không tính đến xu hướng chính trị”(12). V́ Giải phóng quân TQ đang hiện đại hóa, quân đội VN từ lâu không dám thú nhận nhu cầu hiện đại hóa v́ ngại quan hệ đến Bắc Kinh, th́ ngày nay đă xác nhận. Về chủ đề này, QĐVN hy vọng sự xích lại với Hoa Kỳ sẽ kéo theo những hợp đồng quân sự trong tương lai (13). Chính thức mà nói, sự xích lại của bộ Quốc pḥng CHXHCNVN có thể tóm tắt trong 4 điểm sau: “Xu thế ḥa b́nh; quan hệ quân sự đối ngoại chưa bao giờ có hiệu quả và mở rộng như ngày nay; việc sản xuất khí tài quân sự hiện đại của VN [dù công nghệ quốc pḥng VN chưa có sự phát triển vững chắc] và tiếp nhận một đội ngũ chuyên gia kỹ thuật quân sự quan trọng”(14).
Từ khi Phùng Quang Thanh lên làm bộ trưởng Quốc pḥng năm 2006, đă ưu tiên thành lập cảnh sát biển và một binh chủng mới không lực hải quân. Sự yếu kém của hải quân không c̣n “trụ nổi” trước những cú đấm của TQ và sự hiện đại hóa của hải quân khu vực. Tháng 10-2010, cảnh sát biển lần đầu tiên diễu hành nhân dịp 1000 năm Hà Nội. Năm trước, TQ đă phản đối khi VN tuyên bố mua 10 tàu ngầm qui ước Kilo của Nga. Hiện nay, hợp đồng đang được thương thuyết, về việc VN mua tên lửa tầm xa biển-đối-biển và biển-đối-không. Ngày 8 tháng 7-2011, theo báo Thanh Niên, tướng Pham Đức Lĩnh, giám đốc cảnh sát biển, đă tiết lộ sự tăng cường trong tương lai trang bị của cảnh sát biển với việc mua tàu thủy và máy bay mới. Một tuyên bố cho phép nhắc lại rằng “VN sẽ chống đến cùng những nước ngoài nào t́m cách khai thác dầu khí trong hải phận thuộc chủ quyền VN và không có sự thỏa hiệp về điều này”(15).
QĐNDVN đă vạch ra một chiến lược quân sự, nhưng cũng phải hỏi xem tầm nh́n đó có được chia sẻ không hay đến một lúc nào đó giai cấp chính trị có đủ phương tiện để bảo vệ nó không, trong khuôn khổ trói buộc của mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng cộng sản đang cầm quyền. Nếu quan sát cách thức khủng hoảng trên Biển Đông đă diễn ra từ tháng năm-sáu 2011 (từ tháng 7-2011, truyền thông VN đă quay lại đúng lúc để ca ngợi sức mạnh của t́nh hữu nghị Trung-Việt), th́ mối nghi ngại vẫn c̣n tồn tại. Một sự thay đổi vẫn có thể nhận thấy. Trong hàng ngũ QĐNDVN, việc xảy ra chiến tranh với TQ vẫn đang “ở trong một tương lai chưa xác định” từ nay được nêu lên, nếu không phải được xem xét một cách nghiêm túc. Đầu năm 2010, VN đă lần đầu tiên trong cuốn Sách trắng quốc pḥng thứ ba đưa ra “tính chất khó chơi của người láng giềng lớn phía bắc”. Tuy nhiên, nếu có xung đột trong tương lai gần, “có thể VN phải rút lui khá nhanh, đó là sự thật, v́ hải quân của nó quá yếu. Chính phủ VN không thể chấp nhận t́nh h́nh đó, đất nước đang lên gân và muốn đưa ra thông điệp như sau: chúng ta phải tự vệ, đang t́m những mối quan hệ khác, người ta muốn thương thuyết với Liên minh châu Âu hay với các nước khác, v́ những nước này chưa được củng cố vững về quốc pḥng, cho nên mới có chuyện xích lại gần nước Nga mới đây”(16).
Việt Nam biết rằng trong t́nh trạng hiện nay, Quân giải phóng Trung Hoa, và cụ thể là Hạm đội 5, hoàn toàn chưa có khả năng hoạt động trên Biển Đông. Mặc dầu có việc mua sắm mới đây, phần lớn máy bay quan sát và vận tải TQ đều có tối thiểu 20 năm tuổi. Các máy bay chiến đấu tự sản xuất, kiểu F-7 và F-8, chỉ có bán kính hoạt động 2.200 km, quá ít với nhiệm vụ hoạt động đến Trường Sa, khác với máy bay của các nước ASEAN ở gần các quần đảo này hơn. Nếu TQ có tham vọng kiểm soát Biển Đông, cụ thể là các đảo Trường Sa nằm quá xa bờ biển của ḿnh, TQ ư thức được rằng quân đội cần có những máy bay quan sát mới (loại AEW&C), những máy bay tiếp tế và vận tải nặng. Tháng 3-2011, việc công bố kế hoạch 5 năm lần thứ 12, lần đầu tiên đặt vấn đề hiện đại hoá hạm đội lên ưu tiên hàng đầu của quốc gia (toàn bộ một chương dành cho vấn đề này), đă được b́nh luận lâu trong các giới liên quan đến VN. Trong thực tế, hạm đội phía nam đă có những khí tài tốt nhất của hải quân Trung Hoa, tàu sân bay duy nhất của TQ, chiếc Variag, những tàu khu trục hiện đại nhất (052A), một căn cứ tàu ngầm nguyên tử ở Du Lâm-Tam Á, vừa có hai tàu ngầm tiêm kích mới (SSN) trang bị tên lửa đạn đạo thế hệ cuối cùng (SSBN) (17)¸ và cuối cùng là máy bay tiêm kích tàng h́nh J-20 bí ẩn và đang được bàn căi. TQ c̣n có đơn vị kiểm soát hải dương thành lập năm 1998: gồm 300 tàu tuần tiễu, từ nay đến năm 2020 sẽ có tổng số 15.000 người (nay là 9.000), 16 máy bay mới (nay là 9), và 520 tàu chiến (nay là 260). Ngoài ra QGP c̣n chờ trang bị một tàu sân bay mới kiểu Liên Xô (vào năm 2012), tàu ngầm phóng lôi 094, và đang tiến hành một công tŕnh bí mật sản xuất tên lửa đạn đạo chống tàu chiến (hạm mẫu sát thủ) có thể đe dọa việc triển khai tàu sân bay Hoa Kỳ trên Thái B́nh Dương.
Nếu tính khả thi về kỹ thuật của chương tŕnh này – theo TQ th́ thực hiện vào năm 2015 – tiếp tục khiến nhiều chuyên gia phương Tây nghi ngờ, th́ tín hiệu đă được phát ra. Hạm đội phương Nam TQ có tham vọng khu vực và khai thác các nguồn lợi trên Biển Đông là một ưu tiên của CHND Trung Hoa, dù nó có làm các nước láng giềng Đông-Nam Á hài ḷng hay không.